Syndicate content

Tri thức chuyên ngành

Một số điểm mới của Luật Bưu chính và Nghị định số 47/2010/NĐ-CP

Ngày 17/6/2010, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII, dự án Luật Bưu chính đã được Quốc hội biểu quyết thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011 và ngày 17/6/2011, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số nội dung của Luật Bưu chính đã được Chính phủ ban hành và Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2011. Sau đây một số điểm mới của Luật Bưu chính và Nghị định số 47/2011/NĐ-CP:

Ảnh minh họa: Internet

1. Thống nhất cách gọi chung cho 2 dịch vụ bưu chính và dịch vụ chuyển phát

Lĩnh vực

Bưu chính

Chuyển phát

Định nghĩa

Pháp lệnh BCVT

“Dịch vụ bưu chính” là dịch vụ nhận gửi, chuyển, phát bưu phẩm, bưu kiện thông qua mạng lưới bưu chính công cộng

Nghị định 128/2007/NĐ-CP

Dịch vụ chuyển phát là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn thu gom, chia chọn, vận chuyển và phát, bằng các phương tiện vật lý, thông tin dưới dạng văn bản và kiện, gói, hàng hóa.

Phân loại

Dịch vụ bưu chính bao gồm:

- Dịch vụ bưu chính cơ bản

- Dịch vụ bưu chính cộng thêm

Dịch vụ chuyển phát bao gồm:

- Chuyển phát thông tin dưới dạng văn bản

- Chuyển phát nhanh là dịch vụ chuyển phát có yếu tố gia tăng về tốc độ…

Nhà cung cấp

Bưu chính Việt Nam

- Các doanh nghiệp chuyển phát và Bưu chính Việt Nam

Cách phân loại, định nghĩa này đã bộc lộ những bất cập trong hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật, cụ thể như sau:

Trước đây, trong Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông, việc phân biệt hai dịch vụ này được thực hiện dựa trên tiêu chí nhà cung cấp dịch vụ, nói chính xác hơn là dựa vào mạng bưu chính công cộng và mạng chuyển phát. Tuy nhiên, trong môi trường kinh doanh mới, tiêu chí phân biệt này không còn phù hợp bởi thực tế là các doanh nghiệp khác về mạng lưới trên cơ sở hợp đồng hoặc hợp tác kinh doanh để cung ứng dịch vụ và ngược lại bản thân doanh nghiệp bưu chính ngoài việc cung ứng dịch vụ bưu chính công ích cũng đã tham gia mạnh mẽ vào thị trường chuyển phát.

Bên cạnh đó, khi xét đến yếu tố quyết định việc phân loại là đặc tính cơ bản của dịch vụ thì thấy rằng: Hai dịch vụ này đều có chung một hoạt động cơ bản là thu gom – vận chuyển - phát, có chung một đối tượng vật gửi. Ngoài 2 đặc tính cơ bản trên thì doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính và chuyển phát cùng hoạt động và chia sẻ khách hàng, thị trường. Đồng thời hai dịch vụ này lại nằm trong cùng một hệ thống phân ngành dịch vụ: Bưu chính, chuyển phát.

Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước thì đa số các nước đều chỉ quản lý chung 1 lĩnh vực là bưu chính.

Do vậy, việc đưa ra một định nghĩa dịch vụ một cách khoa học, phù hợp với vận động và phát triển của dịch vụ, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo sự đồng bộ và đơn giản cho hệ thống văn bản pháp luật chuyên ngành.

Từ những lý do trên, Luật bưu chính đã thống nhất cách gọi chung cho 2 dịch vụ này là dịch vụ bưu chính với các lý do sau:

Thứ nhất: Xét về góc độ lịch sử (xét về khía cạnh pháp lý và thực tế) có thể thấy dịch vụ bưu chính xuất hiện trước. Một minh chứng là rất rõ là trước đây, Việt Nam chỉ có hệ thống văn bản pháp luật cho dịch vụ bưu chính và trong hệ thống ngành nghề đăng ký kinh doanh của Việt Nam chỉ có dịch vụ bưu chính. Ngoài ra, trong hệ thống phân loại sản phẩm trung tâm của Liên Hiệp quốc (UNCPC), nếu chỉ tính đến phân ngành thì cũng chỉ có phân ngành dịch vụ bưu chính (Division 75). Do vậy, khi có một dịch vụ có bản chất tương tự trên thị trường thì việc quy vào dịch vụ đã tồn tại sẵn là bưu chính sẽ thể hiện được tính kế thừa, thuận tiện và hợp lý hơn.

Thứ hai: Việc sử dụng thuật ngữ bưu chính không chỉ quen thuộc với người sử dụng, doanh nghiệp mà còn phù hợp với tập quán quốc tế do dịch vụ bưu chính tồn tại và phát triển từ lâu.

Thứ ba: Trong các nghiên cứu của UPU và châu Âu đã cho thấy xu hướng mở rộng phạm vi của lĩnh vực bưu chính bao trùm cả dịch vụ chuyển phát.

2. Điều chỉnh khái niệm thư

Theo Khoản 1 Điều 21 Nghị định 157/2004/NĐ-CP: “Thư là thông tin trao đổi dưới dạng văn bản được đóng gói, dán kín, có khối lượng đơn chiếc không quá hai kilogram (02 kg) và có địa chỉ nhận. Những chỉ dẫn chung về nơi nhận cũng được coi là địa chỉ nhận”.

Khái niệm thư trong Nghị định 157/2004/NĐ-CP (Khoản 1 Điều 21) được quy định như sau: “Thư là thông tin trao đổi dưới dạng văn bản được đóng gói, dán kín, có khối lượng đơn chiếc không quá hai kilogram (02kg) và có địa chỉ nhận. Những chỉ dẫn chung về nơi nhận cũng được coi là địa chỉ nhận”. Với quy định như trên, khái niệm thư đã thể hiện theo bản chất (“thông tin trao đổi dưới dạng văn bản”) và có kết hợp thêm 1 số yếu tố khác như “không quá 2kg” hoặc “đóng gói, dán kín”. Tuy nhiên, chính việc kết hợp các yếu tố khác này dẫn đến khái niệm thư này chưa thể hiện chính xác nội dung mà khái niệm biểu thị và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Việc một bưu gửi có phải là thư hay không phải là thư hoàn toàn không lệ thuộc vào khối lượng hay hình thức đóng gói. Khối lượng hay hình thức đóng gói chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan cá nhân của người gửi và điều này thay đổi đối với mỗi người gửi khác nhau. Qua nghiên cứu cho thấy, đa phần Luật bưu chính của các nước đều định nghĩa thư không có khối lượng và không yêu cầu đóng gói dán kín.

Việc xuất hiện các yếu tố như “đóng gói, dán kín” hoặc “không quá 2kg” trong khái niệm “thư” hiện tại đã gây nên một số bất cập:

- Làm cho khái niệm trở nên hẹp hơn so với bản chất thực của “thư”, thậm chí làm méo mó khái niệm thư. Với cùng bản chất như nhau nhưng chỉ chênh nhau một chút về khối lượng đã bị coi thành một đối tượng quản lý khác.

- Nhiều doanh nghiệp đã cố tình “mở” (cắt góc thư” để không vi phạm quy định, không phải xin cấp giấy phép chuyển phát thư.

- Hạn chế tính ổn định của khái niệm.

Những bất cập này gây ra hiệu quả là tạo ra các tác động tiêu cực đối với người sử dụng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước.

Các yếu tố không có tính ổn định cao hay nói cách khác là các yếu tố/điều kiện nhằm phục vụ cho công tác quản lý (phụ thuộc và phải thay đổi cho phù hợp với tình hình hoạt động thực tế trên thị trường) không nên đưa vào khái niệm mà cần đưa vào từng nội dung quản lý liên quan. Hiện nay, Việt Nam đang quản lý thị trường thư chặt chẽ thông qua hình thức cấp phép và việc không ổn định của khái niệm “thư” sẽ ảnh hưởng lớn đến tính ổn định của chính sách quản lý thị trường và ngược lại.Do vậy, nhằm minh bạch và ổn định chính sách quản lý thì cần thiết phải ổn định khái niệm thư.

Trên cơ sở các phân tích nêu trên, Luật Bưu chính đã quy định khái niệm thư như sau: “Thư là thông tin trao đổi dưới dạng văn bản viết tay hoặc bản in, có địa chỉ nhận hoặc không có địa chỉ nhận, trừ ấn phẩm định kỳ, sách, báo, tạp chí”.

Với khái niệm này, một số bất cập đã cơ bản được giải quyết:

-  Phản ánh được bản chất của thư

-  Đảm bảo tính khoa học, mạch lạc để các đối tượng điều chỉnh (người sử dụng dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ) có thể đối chiếu hoặc áp dụng mà không gặp khó khăn nhưng vẫn có tính bao quát chung và loại trừ được những loại hình thức khác dễ lẫn với thư.

-  Phù hợp với các thông lệ quốc tế (đa phần các nước không quy định “đóng gói, dán kín” và loại trừ “sách, báo, tạp chí, ấn phẩm định kỳ” trong khái niệm thư), do đó sẽ tạo thuận lợi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

-  Giải quyết được những bất cập hiện nay trong quá trình triển khai chính sách (hạn chế được việc lách luật thông qua việc cắt góc thư, khái niệm thư được giữ tương đối ổn định, không bị thay đổi khi điều chỉnh chính sách cấp phép…).

3. Bãi bỏ giấy phép thử nghiệm kinh doanh dịch vụ chuyển phát thư và giấy phép cung cấp các dịch vụ khác trên mạng công cộng

Điều 28 của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông quy định “Giấy phép thử nghiệm dịch vụ chuyển phát thư, các dịch vụ khác trên mạng bưu chính công cộng được cấp với thời hạn không quá 01 năm. Trước khi giấy phép hết hạn, nếu doanh nghiệp có đủ điều kiền và có yêu cầu tiếp tục cung cấp dịch vụ thì được xem xét cấp giấy phép mới”.

Để cụ thể hóa Điều này, Điều 21 Nghị định 157/2004/NĐ-CP đã quy định doanh nghiệp phải “Đạt kết quả kinh doanh tốt đối với trường hợp phải thử nghiệm cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của Bộ Bưu chính, Viễn thông mới đáp ứng điều kiện để cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ chuyển phát trong nước.

Qua kết quả nghiên cứu của chuyên đề “Đánh giá tác động của các văn bản pháp luật mới ban hành đối với lĩnh vực bưu chính” và chuyên đề “Nghiên cứu đánh giá và tổng kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông và các văn bản hướng dãn thi hành” cho thấy:

- Quy định về việc yêu cầu về thử nghiệm kinh doanh, báo cáo kết quả kinh doanh thử nghiệm tốt mới được xem xét cấp giấy phép chính thức để kinh doanh dịch vụ chuyển phát thư đối với doanh nghiệp kinh doanh lần đầu là chưa phù hợp bởi hiệu quả kinh doanh tốt là mục tiêu của chủ đầu tư đối với tài sản của mình và của các đối tác tham gia góp vốn kinh doanh. Mặt khác, khi bắt đầu triển khai kinh doanh, nhất là cung cấp một loại hình dịch vụ thì không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đạt kết quả kinh doanh tốt ngay chỉ trong một năm đầu kinh doanh.

- Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ khác trên mạng công cộng (chuyển tiền, phát hành báo chí, bảo hiểm…), các dịch vụ này đã được điều chỉnh bởi quy định pháp luật chuyên ngành khác có liên quan. Do vậy, việc gộp chung các quy định quản lý đối với các dịch vụ này vào chính sách quản lý bưu chính là chưa phù hợp.

- Việc quy định quản lý cấp phép thử nghiệm đã hạn chế nhiều sự phát triển dịch vụ.

Do vậy, Ban soạn thảo Luật bưu chính đã thống nhất cao đối với việc bãi bỏ quy định về giấy phép thử nghiệm kinh doanh dịch vụ chuyển phát thư và giấy phép cung cấp các dịch vụ khác trên mạng công cộng.

Do vậy, Ban soạn thảo Luật Bưu chính đã thống nhất cao đối với việc bãi bỏ quy định về giấy phép thử nghiệm kinh doanh dịch vụ chuyển phát thư và giấy phép cung cấp các dịch vụ khác trên mạng công cộng.

4. Quản lý nhà nước đối với hình thức chuyển nhượng quyền thương mại, đại diện thương nhân, văn phòng đại diện của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bưu chính tại Việt Nam

Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông và các văn bản hướng dẫn mới chỉ quy định quản lý đối với đại lý cho tổ chức chuyển phát thư nước ngoài bởi ở thời điểm này hình thức đại lý là hình thức phổ biến trong hoạt động cung cấp dịch vụ. Công tác quản lý nhà nước đối với đại lý cho tổ chức chuyển phát thư nước ngoài được quản lý bằng hình thức tiền kiểm (doanh nghiệp chỉ được làm đại lý cho tổ chức chuyển phát thư nước ngoài khi có sự xác nhận bằng văn bản của cơ quan quản lý).

Tuy nhiên, khi Luật Thương mại 2005 ra đời thì ngoài loại hình đại lý như quy định ở Nghị định số 128/2007/NĐ-CP và Thông tư số 01/2005/BBCVT còn có thêm các loại hình hoạt động thương mại khác như nhượng quyền thương mại, đại diện thương nhân… Các hình thức này đã xuất hiện trong lĩnh vực bưu chính ở một số nước như Singapore và các nước châu Âu. Sự xuất hiện của các loại hình trung gian thương mại nêu trên là hình thức kinh doanh phù hợp trong giai đoạn chuyển tiếp cho đến thời điểm xuất hiện doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Do vậy, viêc bổ sung quy định quản lý đối với những hình thức này trong lĩnh vực bưu chính tại Việt Nam là cần thiết.

Ngoài ra, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia thị trường, Luật bưu chính đã điều chỉnh chính sách quản lý đối với các hình thức đại lý, nhượng quyền thương mại, đại diện thương nhân từ tiền kiểm sang hậu kiểm để phù hợp với xu hướng nâng cao trách nhiệm và tạo sự chủ động, linh hoạt của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh; tăng cường công tác thanh, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước.

5. Điều kiện về tài chính để được cấp giấy phép bưu chính

Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 21 Luật Bưu chính, doanh nghiệp được cấp giấy phép bưu chính khi có đủ kiền kiện về khả năng tài chính. Để làm rõ nội dung này nhằm minh bạch chính sách cấp phép, tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính trong quá trình thực thi chính sách cũng như cho các doanh nghiệp có nhu cầu tham gia cung ứng dịch vụ trong thị trường bưu chính, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP đã quy định chi tiết mức vốn tối thiểu mà doanh nghiệp phải có tương ứng đối với từng loại hình cung ứng dịch vụ, cụ thể:

1. Điều kiện về khả năng tài chính nêu tại điểm b khoản 2 Điều 21 Luật Bưu chính được quy định như sau:

a) Đối với trường hợp cung ứng dịch vụ bưu chính trong phạm vi nội tỉnh, liên tỉnh, doanh nghiệp phải có mức vốn tối thiểu là 02 tỷ đồng Việt Nam;

b) Đối với trường hợp cung ứng dịch vụ bưu chính quốc tế, doanh nghiệp phải có mức vốn tối thiểu là 05 tỷ đồng Việt Nam.

2. Mức vốn tối thiểu quy định tại khoản 1 Điều này phải được thể hiện trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoạt động bưu chính hoặc giấy chứng nhận đầu tư hoạt động bưu chính tại Việt Nam của doanh nghiệp”.

6. Thông báo hoạt động bưu chính

Theo quy định của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông và các văn bản hướng dẫn thì bên cạnh hình thức cấp phép đối với dịch vụ chuyển phát thư, công tác quản lý còn được thực hiện thông qua hình thức thông báo hoạt động kinh doanh và đăng ký được làm đại lý cho tổ chức chuyển phát thư nước ngoài. Tuy nhiên, để phù hợp với xu hướng nâng cao trách nhiệm và tạo sự chủ động, linh hoạt của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh; tăng cường công tác thanh, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước, Luật bưu chính đã bổ sung quy định quản lý một số loại hình trung gian thương mại như nhượng quyền thương mại, đại diện thương nhân… đồng thời điều chỉnh chính sách quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm thông qua hình thức thông báo bằng văn bản cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính.

Theo đó, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP đã phân loại các hoạt động bưu chính thành đối tượng với các mục tiêu quản lý khác nhau để từ đó có chính sách quản lý khác nhau thông qua việc quy định hồ sơ đề nghị xác nhận thông báo hoạt động bưu chính phù hợp với từng đối tượng cụ thể.

7. Hoạt động đầu tư trong lĩnh vực bưu chính

Nghị định số 47/2011/NĐ-CP quy định các dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô dưới 15 tỷ đồng Việt Nam phải thẩm tra nhưng không phải trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư. Tuy nhiên, những dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô từ 15 tỷ đồng Việt Nam trở lên thì phải thẩm tra và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư. Đồng thời, khi thẩm tra để cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án đầu tư nói trên, cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư phải lấy ý kiến thẩm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính theo phân cấp quản lý để đảm bảo sự thống nhất trong công tác quản lý đầu tư và quản lý nhà nước về bưu chính.

8. Một số quy định về cạnh tranh trong lĩnh vực bưu chính

Ở thời điểm hiện tại, pháp luật chung về cạnh tranh đã có các quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh. Đặc biệt, trong pháp luật về cạnh tranh cũng đã quy định về hành vi cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ độc quyền và các nhà cung cấp dịch vụ độc quyền nhằm ngăn chặn những hành vi lạm dụng vị trí độc quyền của nhà cung cấp dịch vụ độc quyền.

Tuy nhiên, pháp luật chung về cạnh tranh không thể bao trùm hết được những nội dung đặc thù của lĩnh vực bưu chính. Hơn nữa, Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông và các văn bản hướng dẫn đều chưa có các quy định cụ thể về lạm dụng vị trí độc quyền trong lĩnh vực bưu chính hay cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bưu chính. Do vậy, việc quy định các hình vi cạnh tranh đặc thù trong lĩnh vực bưu chính trong Luật bưu chính là cần thiết nhằm thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trên thị trường.

Qua các nghiên cứu cho thấy việc bù chéo giữa dịch vụ phổ cập và dịch vụ cạnh tranh là rất dễ xảy ra. Nó sẽ làm méo mó giá cả trên thị trường và không công bằng trong cạnh tranh. Điều này xảy ra khi doanh nghiệp cung ứng dịch vụ phổ cập cung cấp dịch vụ cạnh tranh dưới giá thành, nhờ vào việc bù chéo từ phần được nhà nước hỗ trợ.

Bên cạnh đó thì việc đảm bảo cung cấp dịch vụ phổ cập một cách thường xuyên cũng cần có những biện pháp thích hợp.

Từ những lý do trên, Luật bưu chính đã quy định tại khoản 11 Điều 29 “Không được cung ứng dịch vụ bưu chính vi phạm quy định về phạm vi dịch vụ bưu chính dành riêng dưới mọi hình thức” và khoản 6 Điều 33 “Không sử dụng doanh thu từ các dịch vụ bưu chính dành riêng để trợ cấp cho các khoản lỗ do việc cung ứng các dịch vụ cạnh tranh khác dưới giá thành”.

9. Bồi thường thiệt hại

Theo quy định tại Nghị định số 47/2011/NĐ-CP, việc bồi thường thiệt hại trực tiếp được thực hiện trên cơ sở hợp đồng cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính; bưu gửi bị mất, hư hỏng hoặc tráo đổi hoàn toàn thì được bồi thường theo quy định của doanh nghiệp đối với từng loại dịch vụ nhưng không thấp hơn mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với các khiếu nại liên quan đến dịch vụ bưu chính không có chứng từ xác nhận việc chấp nhận bưu gửi và đối với các khiếu nại mà người sử dụng dịch vụ không có chứng từ chứng minh việc sử dụng dịch vụ.

Liên quan đến mức giới hạn bồi thường thiệt hại bên cạnh việc kế thừa các quy định còn phù hợp tại các văn bản trước đây thì Nghị định đã điều chỉnh lại mức giới hạn bồi thường thiệt hại dựa trên cơ sở phương thức vận chuyển (vận chuyển bằng đường hàng không hoặc vận chuyển bằng phương thức khác) cho phù hợp với thực tế.

Ngoài ra, Nghị định còn quy định việc thu hồi tiền bồi thường thiệt hại. Theo đó, khi tìm lại được một phần hoặc toàn bộ bưu gửi bị coi là đã mất và đã được bồi thường thiệt hại theo quy định thì doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính có trách nhiệm thông báo cho người nhận hoặc người gửi để định đoạt một phần hoặc toàn bộ bưu gửi đã tìm được; người nhận hoặc người gửi có quyền nhận lại một phần hoặc toàn bộ bưu gửi này nhưng phải hoàn trả số tiền bồi thường đã nhận cho doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính; trường hợp người nhận hoặc người gửi từ chối nhận lại thì một phần hoặc toàn bộ bưu gửi này nhưng phải hoàn trả số tiền bồi thường đã nhận cho doan nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính; trường hợp người nhận hoặc người gửi từ chối nhận lại thì một phần hoặc toàn bộ bưu gửi này sẽ là tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính.

10. Điều khoản chuyển tiếp

Trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thì các hoạt động nhận nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực bưu chính từ nước ngoài vào Việt Nam, làm đại diện cho doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính nước ngoài, làm văn phòng đại diện của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam trước khi Nghị định này có hiệu lực phải làm thủ tục thông báo hoạt động bưu chính. Bên cạnh đó doanh nghiệp đã được cấp giấy phép bưu chính trước khi Nghị định này có hiệu lực phải đảm báo số vốn theo quy định.

(Tài liệu phổ biến giáo dục pháp luật 2011 – Luật Bưu chính, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP)

Tin liên quan:

Nội dung chủ yếu của Luật Bưu chính, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP

Nội dung chủ yếu của Luật Bưu chính, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP

Ngày 17/6/2010, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII, dự án Luật này Bưu chính đã được Quốc hội biểu quyết thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011 và ngày 17/6/2011, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số nội dung của Luật Bưu chính đã được Chính phủ ban hành và Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2011. Sau đây là bố cục và nội dung chủ yếu của Luật Bưu chính và Nghị định số 47/2011/NĐ-CP:

1. Bố cục và nội dung chủ yếu của Luật Bưu chính

Luật Bưu chính gồm 10 chương 46 điều với nội dung cụ thể như sau:

Chương I – Những quy định chung

Chương này gồm 7 điều (từ Điều 1 đến Điều 7) tập trung thể hiện rõ chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực bưu chính và xác định rõ phạm vi điều chỉnh của lĩnh vực bưu chính đối với các lĩnh vực khác để tránh chồng chéo. Lĩnh vực bưu chính bao gồm hoạt động bưu chính (dịch vụ bưu chính và dịch vụ chuyển phát), không điều chỉnh các dịch vụ không có cùng bản chất nhưng từ trước đến nay vẫn được cung ứng trên mạng bưu chính như dịch vụ tiết kiệm bưu điện, chuyển tiền bưu điện hoặc phát hành báo chí. Những dịch vụ này chịu sự điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật khác có liên quan. Việc phân biệt rõ phạm vi điều chỉnh của lĩnh vực bưu chính sẽ góp phần giảm sự chồng chéo trong hệ thống pháp luật nói chung đồng thời làm tăng tính khả thi của Luật trong việc đưa chính sách vào cuộc sống.

Chương II – Cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính

Chương này gồm 12 điều (từ Điều 8 đến Điều 19) và quy định nhiều nội dung mang tính nghiệp vụ bưu chính ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính và người sử dụng dịch vụ.

Chương III – Đầu tư, kinh doanh dịch vụ bưu chính

Chương III gồm 7 điều (từ Điều 20 đến Điều 26) quy định về đầu tư, kinh doanh dịch vụ bưu chính và các điều kiện kinh doanh dịch vụ bưu chính. Theo đó, các quy định về đầu tư, kinh doanh dịch vụ bưu chính được thể hiện rõ ràng, rành mạch nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý, khuyến khích hoạt động kinh doanh hợp pháp cũng như đảm bảo lợi ích của người sử dụng.

Trong Chương này, hai nội dung lớn là cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ bưu chính và xác nhận thông báo hoạt động bưu chính được thể hiện khá chi tiết và đầy đủ.

a) Cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ bưu chính

Việc cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ bưu chính được quy định khá cụ thể nhằm thể hiện rõ ý chí cũng như mục tiêu quản lý vì mục đích bảo vệ người tiêu dùng và đảm bảo an ninh quốc gia.

Việc cấp phép kinh doanh dịch vụ bưu chính gắn liền với việc bảo vệ bí mật thư tín và quyền trao đổi thông tin của công dân như đã được đưa ra tại Điều 12 của “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền” của Liên Hiệp Quốc. Quyền được trao đổi thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người và điều này cũng được thể hiện rõ trong Công ước của Liên minh Bưu chính thế giới. Ngoài ra, việc đảm bảo bí mật thư tín và quyền thông tin của công dân đã được thể chế hóa trong Hiến pháp cũng như các quy định khác của pháp luật như Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Dân sự cũng như các quy định chuyên ngành.

Như vậy, bưu chính là một trong những nghề kinh doanh có điều kiện nhằm bảo vệ bí mật thư tín, quyền trao đổi thông tin của công dân, nên doanh nghiệp được quyền kinh doanh ngành nghề đó, kể từ khi có đủ điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, việc cấp giấy phép bưu chính được thực hiện một cách linh hoạt dưới nhiều hình thức để phù hợp với thực tế hoạt động của thị trường cũng như công tác quản lý nhà nước.

b) Xác nhận thông báo hoạt động bưu chính

Để đảm bảo công tác quản lý nhà nước đối với thị trường bưu chính được đầy đủ và hiệu quả thị bên cạnh việc cấp giấy phép bưu chính, Luật bưu chính và Nghị định số 47/2011/NĐ-CP đã quy định chi tiết việc cấp văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính đối với một số hoạt động bưu chính. Trong số các hoạt động bưu chính cần phải thông báo hoạt động, có những hoạt động đã được quy định trong các văn bản trước đây nhưng cũng có nhiều hoạt động mới được bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp với các văn bản pháp luật mới được ban hành.

Với tinh thần đơn giản hóa thủ tục hành chính và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, mỗi loại hình hoạt động bưu chính sẽ có quy trình, thủ tục, hồ sơ phù hợp.

Chương IV – Chất lượng và giá cước dịch vụ bưu chính

Chương này gồm 2 điều (từ Điều 27 đến 28) quy định về chất lượng và giá cước dịch vụ bưu chính.

Chương V – Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính, người sử dụng dịch vụ bưu chính

Chương V gồm 2 điều (Điều 29 và 30) quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính cũng như quyền và nghĩa vụ của người sử dụng dịch vụ bưu chính.

Các quy định trong Chương này đã làm rõ trách nhiệm của doanh nghiệp cũng như thể hiện quyền bình đẳng trong quan hệ giữa doanh nghiệp và người sử dụng.

Chương VI – Hoạt động bưu chính công ích

Chương VI gồm 4 điều (từ Điều 31 đến Điều 34) tập trung quy định các vấn đề về nguyên tắc hoạt động bưu chính công ích cũng như quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp được chỉ định cung ứng dịch vụ bưu chính công ích. Bên cạnh đó, Luật Bưu chính cũng có quy định cụ thể về trách nhiệm của chủ đầu tư các công trình xây dựng trong việc bố trí địa điểm lắp đặt hệ thống thùng thư công cộng, thực hiện lắp đặt các hộp thư tập trung tại chung cư cao tầng, tòa nhà văn phòng.

Trong lĩnh vực bưu chính, bên cạnh việc xây dựng thị trường bưu chính kinh doanh phát triển bền vững và cạnh tranh lành mạnh thì hoạt động bưu chính công ích là một trong những nội dung chủ yếu trong công tác quản lý nhà nước với những vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm. Do vậy, trong giai đoạn hiện nay, các quy định về hoạt động bưu chính công ích được xây dựng dựa trên một số định hướng cơ bản sau đây:

a) Nhà nước thực hiện cung ứng dịch vụ bưu chính công ích

Dịch vụ bưu chính công ích nhằm phụ vụ nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của toàn xã hội. Do vậy, các tổ chức và công dân đều có quyền tiếp cận, có quyền thụ hưởng và bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ. Theo Điều 3 của Công ước Liên minh Bưu chính thế giới mà Việt Nam là thành viên thì các nước thành phân phải đảm bảo để tất cả mọi công dân đều có quyền được hưởng dịch vụ bưu chính phổ cập ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ nước mình. Do vậy, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm việc cung ứng các dịch vụ này được thực hiện một cách liên tục, có chất lượng đến mọi người dân với giá cước hợp lý.

b) Chỉ định doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ cung ứng dịch vụ bưu chính công ích

Để đảm bảo quyền được trao đổi thông tin thiết yếu của người dân về bưu chính và để mọi người dân có thể tiếp cận, sử dụng dịch vụ bưu chính cơ bản ở khắp mọi nơi thì mạng lưới cung ứng dụng vụ phải rộng khắp, đặc biệt là ở những vùng kinh tế còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, do các doanh nghiệp ngại đầu tư cung ứng dịch vụ bưu chính (vì kinh doanh không có lãi và khó thu hồi vốn) nên rất cần sự đầu tư của Nhà nước. Mặt khác, hiện tại, tình hình kinh tế xã hội cũng như bưu chính của Việt Nam nhiều vùng phát triển còn thấp, đặc biệt là những vùng nghèo, Nhà nước cần tập trung đầu tư cho doanh nghiệp có đủ điều kiện thực hiện nhiệm vụ cung ứng dịch vụ bưu chính công ích để đảm bảo hiệu quả vốn đầu tư của Nhà nước, tập trung lưu lượng, tận dụng mạng lưới đã đầu tư, giảm bớt gánh nặng chi phí và sự hỗ trợ của Nhà nước. Do vậy, Luật Bưu chính đã quy định về việc chỉ định doanh nghiệp thực hiện cung ứng dụng vụ bưu chính công ích với các quyền và nghĩa vụ cụ thể.

c) Về vi phạm dịch vụ bưu chính dành riêng

Phạm vi dịch vụ dành riêng là một phân đoạn thị trường bưu chính được Nhà nước dành riêng cho doanh nghiệp được chỉ định cung ứng dịch vụ bưu chính phổ cập nhằm bù đắp chi phí cho việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp dịch vụ phổ cập mà Nhà nước giao. Phạm vi dịch vụ bưu chính dành riêng ở các nước được quy định với nấc khối lượng và mức cước khác nhau nhằm mục đích hài hòa các lợi ích của từng quốc gia, đảm bảo quyền lợi chính đáng của các nhà cung cấp dịch vụ bưu chính phổ cập.

Tại các nước phát triển, dịch vụ dành riêng là một cơ chế hỗ trợ tài chính có hiệu quả và được thực hiện tương đối lâu dài. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, sản lượng dịch vụ còn thấp, mức cước còn thấp hơn giá thành thì cơ chế này trước mắt chưa tạo ra lợi nhuận mà chỉ có tác dụng tập trung lưu lượng, giảm giá thành dịch vụ, từ đó giảm hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách của Nhà nước.

Luật Bưu chính đã quy định: Dịch vụ bưu chính dành riêng, gồm dịch vụ thư có địa chỉ nhận, có khối lượng đơn chiếc đến 2 kilogram (kg) với mức giá cước theo quy định của pháp luật; và phạm vi dịch vụ bưu chính dành riêng giảm dần căn cứ vào tình hình phát triển bưu chính trong từng thời kỳ.

Chương VII – Tem Bưu chính

Chương VII gồm 3 điều (từ Điều 35 đến Điều 37) quy định về tem bưu chính Việt Nam và sử dụng tem bưu chính. Các quy định trong Chương này được quy định nhằm đảm bảo phù hợp với Công ước của Liên minh Bưu chính thế giới và thông lệ quốc tế.

Chương VIII - Giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại trong cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính

Chương này gồm 5 điều (từ Điều 38 đến Điều 42) quy định về giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại. Các quy định trong Chương này được xây dựng trên cơ sở bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan trong hoạt động cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính.

Chương IX – Trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động bưu chính

Chương IX gồm 2 điều (Điều 43 và Điều 44) quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động bưu chính của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Chương X – Điều khoản thi hành

Chương này gồm 2 điều (Điều 45 và Điều 46) quy định hiệu lực thi hành; quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.

Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011.

Các quy định về bưu chính của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông số 43/2002/PL-UBTVQH10 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực.

2. Bố cục và nội dung cơ bản Nghị định số 47/2010/NĐ-CP

Nghị định quy định chi tiết thi hành một số nội dung của Luật Bưu chính gồm 6 chương 30 điều với nội dung cụ thể như sau:

Chương I - Những quy định chung

Chương I bao gồm 2 điều (Điều 1 và Điều 2), quy định phạm vi điều chỉnh, giải thích từ ngữ.

Theo quy định tại chương này, dự thảo Nghị định điều chỉnh một số nội dung trong hoạt động bưu chính: đầu tư trong lĩnh vực bưu chính, giấy phép bưu chính, thông báo hoạt động bưu chính, tem bưu chính, bồi thường thiệt hại trong cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính.

Chương II - Đầu tư trong lĩnh vực bưu chính

Chương này gồm 2 điều (Điều 3 và Điều 4), quy định về thẩm tra dự án đầu tư; thực hiện, chuyển nhượng dự án đầu tư. Theo đó, các dự án có mức vốn khác nhau sẽ có các quy định quản lý phù hợp với từng loại.

Ngoài ra, chương II cũng quy định về chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng dự án, chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư, thanh lý dự án đầu tư hoặc có điều chỉnh khác đối với dự án đầu tư.

Chương III - Giấy phép bưu chính và văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính

Chương III bao gồm 11 điều (Điều 5 đến Điều 15), quy định về hồ sơ đề nghị cấp giấy phép bưu chính; hồ sơ đề nghị xác nhận thông báo hoạt động bưu chính; trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp, sửa đổi, bổ sung, cấp lại giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính; quản lý và sử dụng giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính.

Bên cạnh việc kế thừa các quy định hiện hành còn phù hợp, dự thảo Nghị định cũng quy định chi thiết các nội dung liên quan đến việc cấp giấy phép bưu chính và văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính Theo đó, để được cấp giấy phép bưu chính, doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu về mức vốn tối thiểu; về hồ sơ đề nghị cấp giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính và thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định. Ngoài ra, dự thảo Nghị định cũng quy định cụ thể về sửa đổi, bổ sung giấy phép bưu chính; về cấp lại giấy phép bưu chính hết hạn; cấp lại giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính trong trường hợp bị mất hoặc hư hỏng không sử dụng được. Cũng trong chương này, Nghị định còn quy định cụ thể lại giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính trong trường hợp bị mất hoặc hư hỏng không sử dụng được. Cũng trong Chương này, Nghị định còn quy định về việc thẩm tra hồ sơ đề nghị cấp giấy phép bưu chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính; về lệ phí cấp giấy phép bưu chính.

Chương IV - Tem bưu chính

Chương về tem bưu chính, bao gồm 8 điều (từ Điều 16 đến Điều 23), quy định việc phân loại tem bưu chính Việt Nam; sử dụng tem bưu chính Việt Nam; nhập khẩu tem bưu chính; quy hoạch đề tài tem bưu chính Việt Nam; hội đồng tư vấn quốc gia về tem bưu chính Việt Nam; thiết kế mẫu tem bưu chính Việt Nam và mẫu dấu đặc biệt; lưu trữ tem bưu chính; kinh phí hoạt động tem bưu chính.

Chương V - Bồi thường thiệt hại trong cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính

Chương này bao gồm 4 điều (từ Điều 24 đến Điều 27), quy định chi tiết về nguyên tắc bồi thường thiệt hại; mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại; thực hiện bồi thường thiệt hại và thu hồi tiền bồi thường thiệt hại.

Chương VI – Điều khoản thi hành

Chương về Điều khoản thi hành gồm 3 điều (Điều 28 đến Điều 30) quy định về hiệu lực thi hành, điều khoản chuyển tiếp và trách nhiệm thi hành.

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2011.

Kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thì Nghị định số 157/2004/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông về bưu chính, Nghị định số 128/2007/NĐ-CP ngày 2 tháng 8 năm 2007 về dịch vụ chuyển phát, quy định về bưu chính trong Nghị định 121/2008/NĐ-CP ngày 3 tháng 12 năm 2008 về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông hết hiệu lực.

(Tài liệu phổ biến giáo dục pháp luật 2011 – Luật Bưu chính, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP)

PPP đã gõ cửa ngành Thông tin và Truyền thông

Năm 2010, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) tổ chức hội thảo về PPPs (Public Private Partnership) trong xây dựng dịch vụ công, dịch vụ Chính phủ điện tử… Đây là một thông tin tốt với Ngành Công nghệ thông tin và Truyền thông. Bài viết này chia sẻ với bạn đọc về một mô hình phát triển ngành thông tin và truyền thông.   

Ảnh minh họa: minhdtvn

I. PPP có từ bao giờ

1.1. Những hình thức PPP trong lịch sử quản lý phát triển Việt Nam [12]

Kinh nghiệm thời Nhà Trần trong xây dựng quân đội hùng mạnh thể hiện rõ thông qua chủ trương cho phép quân đội được Quân đội sản xuất nông nghiệp để tự cân đối quân lương dự phòng cho các chiến lược phát triển dài hạn của quân đội. Các quyết sách của Nhà trần đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của quân đội và tăng cường sự gắn kết của mối quan hệ quân với dân.

Hình 1. Mô hình quản lý theo thuật Bát hoàng kỳ

Nhà Lê Luật Hồng Đức và Bản đồ Hồng Đức và áp dụng phổ biến Mô hình quản lý Bát hoàng Kỳ. Mối quan hệ giữa các Kỳ (Vương gia) với Hoàng kỳ có phần hợp lý hơn giống như người La Mã đã xây dựng thiết chế tài chính mạnh mẽ cùng với các sự lớn mạnh của quân đội bản địa tại các vùng lãnh thổ được mở rộng. Có thể tóm tắt nguyên lý quản lý cổ - Bát hoàng kỳ thông qua Hình 1, trong đó việc trồng, cấy và trăm sóc của Hoàng Kỳ sẽ do một trong tám Kỳ xung quanh thực hiện luân phiên. Kết quả cả Hoàng kỳ và tám kỳ này đều phát triển bền vững, những kết quả này có phần hợp lý hơn trong việc quản lý và phân bổ Ngân sách của Việt Nam hiện nay.

Lấy một ví dụ về việc xây dựng tuyến tầu điện ngầm tại Thương Hải (Trung Quốc), PPP được hiểu đơn giản như sau: Chính phủ lo đầu máy và đường ray, ngân sách địa phương lo nhà ga và các công trình liên quan. Như vậy không xuất hiện việc đầu tư tràn lan trong khu vực công việc quy hoạch phát triển hạ tầng gắn với việc phát triển các trung tâm kinh tế. Do vậy, việc phát triển hạ tầng kỹ thuật đã cộng sinh với sự phát triển hạ tầng kinh tế. Bài học này cũng là một gợi ý tốt trong xây dựng Chính phủ điện tử hoặc xã hội hóa các dịch vụ công khác của ngành thông tin và truyền thông.      

Một ví dụ khác là thời Nhà Nguyễn (Việt Nam) thực hiện chủ trương cho phép tù nhân được khai khẩn khai khẩn đất đai tại các vùng đất hoang, đất ven biển. Nhờ vậy, nhà Nguyễn đã cải tạo được và đóng góp cho đất nước các vùng đất phì nhiêu tại Ninh Bình và Thanh Hóa như ngày nay.

1.2.  Đôi điều về PPP  ở Việt Nam

Quan điểm xã hội hóa trong cung cấp các dịch vụ công như giáo dục, y tế cũng đã được chủ trương hóa trong một số nghiên cứu về xã hội hóa dịch vụ công như một chủ trương và thường được gắn với đổi mới tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước như nghiên cứu của Học viện Hành chính [1,3]. Quan điểm xã hội hóa đã phát huy một số kết quả bước đầu trong lĩnh vực giao thông thông qua chủ trương đấu thầu đổi đất lấy hạ tầng hoặc xã hội hóa các lĩnh vực thu gom rác thải… 

Trong việc khởi động lại con tàu xã hội giáo dục, trong bài trả lời báo Thanh Niên 2008 [2], Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân đã nêu hình thức xã hội hóa của ta có nhiều điểm tương đồng với mô hình  PPPs của quốc tế.

1.3.  Đề xuất một khái niệm về PPP

Từ các phân tích ở trên chúng ta có thể nhận thấy bản chất làm mô hình PPP là mô hình tích hợp các nguồn vốn đầu tư hiện có trong xã hội vào phát triển xã hội, trong đó mục tiêu xã hội phát triển bền vững là mục tiêu cao nhất.

Khái niệm này giống với khái niệm PSPP (Public Social Private Partnership) [8] được áp dụng rộng rãi trong phát triển và cung cấp hạ tầng xã hội và dịch vụ công cơ bản trên thế giới. Hình 2 mô tả phạm vi các chủ thể trong mối quan hệ trong mô hình PSPP.

Hình 2. Mô hình PSPP

1.4.  Các lớp cơ bản trong PPP

Có thể phân chia các nội dung của mối quan hệ PSPP thành năm lớp cơ bản sau:

Thứ nhất, Chính sách và chiến lược phát triển bền vững xã hội thông qua các mục tiêu phát triển và đáp ứng nhu cầu xã hội.

Thứ hai, Luật pháp là cơ sở  huy động và bảo về quyền lợi của các bên trong tham gia đầu tư, cung cấp, quản lý vận hành các hạ tầng xã hội và dịch vụ phục vụ mục đích phát triển xã hội trên nguyên tắc đảm bảo cân đối lợi ích của các chủ thể [6].

Thứ ba, mô hình kinh doanh là cơ sở để các chủ thể vận hành một cách linh hoạt và hiệu quả. Ngoài ra mô hình kinh doanh là bằng chứng thiết thực chứng tỏ sự quan tâm và cam kết lâu dài của Nhà nước trong huy động và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào cung cấp và đầu tư hạ tầng phục vụ xã hội khi hệ thống luật pháp liên quan đến PPP trong tiến trình hoàn thiện [4].

Thứ tư, vấn đề an ninh kinh tế và an ninh xã hội là vấn đề then chốt, bởi lẽ mô hình PPP phục vụ xã hội chỉ có thể phát triển khi duy trì được trật tự và an ninh xã hội.  

II. Tại sao Việt Nam cần quan tâm đến PPP

2.1.  Câu chuyện quản lý về đầu tư

Trong quản lý đầu tư nói chung và quản lý đầu tư phát triển nói chung vấn đề quản lý quy mô đầu tư là câu hỏi nan giải với các nhà hoạch định chính sách đều phải vượt qua. Để đơn giản tác giả xin luận bàn thông qua câu chuyện “không có thật” về việc quyết định đầu tư của một người nông dân, cụ thể như sau: Một anh nông dân tài sản có 50 triệu đồng được phân bổ phân bổ vào một cây mít, một gian nhà ngói năm gian, một cái bếp và một cái giếng nước. Do may mắn anh được điều động làm quản lý đầu tư xã hội, đến khi anh trở thành ngưới quyết định đầu tư của một Ngành với quy mô 500.000 tỷ đồng, anh vẫn nhớ đến mô hình đầu tư bền vững ở quê và anh đã quyết định phân bổ nguồn lực của ngành kinh tế thông qua đầu tư 50 triệu dự án mỗi dự án gồm: một căn nhà, một cây mít, một giếng nước, một cái bếp thông qua hệ thống kế hoạch cứng có tính pháp lệnh.

Câu chuyện quản lý bàn luận được đưa ra: anh chưa thích nghi với việc kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ do vậy các quyết định cứng của anh ta đã gặp vấn đề trong quyết định quy mô. Ở khía cạnh khác, nếu ngành anh ta quản lý đã có chính sách xã hội hóa và vận dụng mô hình PPP trong đầu tư thì các quyết định của anh ta sẽ được xã hội phản biện thông qua sự tham gia các các thành phần kinh tế và kết quả thực tế mà đòi hỏi xã hội đặt ra, thì quyết định của anh sẽ không gặp vấn đề như vậy. 

2.2.  Mô hình cốt lõi của PPP

Bài viết xin kiến giải sự cần thiết của PPPs [8] trong phát triển các mục tiêu xã hội thông qua nội dung số nhân đầu tư nguồn lực xã hội. Hiện tại các nước đều xác định nguồn lực đầu tư của chính phủ là then chốt và có tính lan tỏa thông qua mô hình đầu tư mời (pumpping investment). Thông qua đó số vốn đầu tư của Ngân sách sẽ được thu hồi và luân chuyển qua các linh vực khi khu vực khác.

Trong lĩnh vực ICT, các mô hình phát triển khu công nghiệp Busan, Hàn Quốc là một bài học kinh điển về đầu tư mồi của Chính phủ Hàn Quốc. Từ khoản đầu tư (có thu hồi) ban đầu của Chính phủ, khi khu công nghiệp pháp triển chỉnh phủ bán bớt các cổ phần với giá cao hơn ban đầu và duy trì một tỷ lệ chi phối thích hợp đối vơi Busan, khoản tiền thu được từ bán cổ phiếu sẽ được dịch chuyển đầu tư sang khu vực khác. Như vậy, khoản đầu tư của chính phủ đã phát huy tác dụng và không ngừng lớn mạnh.

2.3.  Xu thế PPP vào Việt Nam

Hiện tại phương thức PPP đang là các vấn đề nóng hổi tại Việt Nam thông qua hiện tượng xuất hiện của các Nhà tài trợ, các nhà đầu tư vào các lĩnh vực hạ tầng của Việt Nam, cụ thể:

- Làm việc với Bộ Giao thông Vận tải có các nhà tài trợ Ngân hàng thế giới (WB), JBIC về hạ tầng giao thông;

- Làm việc với Bộ Xây dựng có Thương vụ Ý liên quan đến các dự án nhà ở cho người nghèo;

- Tổ chức GTZ (Đức) và dự án phát triển thị trường cho người nghèo.

- Ngân hàng Thế giới khởi động các dự án tài chính vi mô;

- Đối với các nước đang phát triển thì PPP là một lựa chọn quan trọng để các nước đang phát triển thu hút nguồn vốn đầu tư phục vụ phát triển kinh tế xã hội.

2.4.  Lợi ích so sánh PPP và ODA

Thông quan việc mở rộng quy mô PPP, trong khuôn khổ bài viết xin đưa ra các lợi ích xã hội sẽ đạt được như sau [9]:

- Giảm gánh nặng chi ngân sách cho đầu tư hạ tầng

- Nâng cao hiệu quả quản lý xã hội nhờ việc quản lý được xã hội hóa.

- Giảm nợ nước ngoài

- Giảm thâm hụt cán cân thương mại

 Giảm bớt các vấn đề lợi ích nhóm và kinh tế học giao dịch…

2.5.  Các lĩnh vực cần có PPP

Qua việc phân tích lợi ích của mô hình PPP và nhu cầu xã hội về các dịch vụ công ích, có thể nhận thức xu thế xuất hiện của mô hình PPP trong các lĩnh vực [11,5,6]: Bưu chính, Viễn thông, Dịch vụ công, chứng thực điện tử, chính phủ điện tử tử, Giao thông, Y tế, Giáo dục, chứng thực, chứng minh thư điện tử…

Bùi Xuân Chung

Tài liệu tham khảo:

[1]. Lê Chi Mai (2007), Tài liệu Giảng dạy chuyên viên cao cấp của Việt Nam, Chuyên đề: Xã hội hóa và tư nhân hóa, đổi mới cung cấp dịch vụ công, Hà Nội.

[2]. Nhóm phóng viên giáo dục (2008), “Ý kiến của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân  về tăng tốc "con tàu" xã hội hóa”, Báo Thanh Niên, (11), Hà Nội.

[3]. Chu Văn Thành (2007), Dịch vụ công - Đổi mới quản lý và cung ứng ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[4]. Chu Văn Thành (2004), Dịch vụ Công và xã hội hóa dịch vụ công - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[4].Antonio Estache (2007), PPPs in transport, Washington DC.

[5]. Canada government (1999), Public Private Partnership A Guide for Local Government, Canada.

[6]. Mona Hammami (2006)- Diterminants of PPPs in infrastructure, IMF,Washington DC.

[7]. United kingdom (2006), Public private partnerships - The government’s approach, London.

[8]. World Bank (2005), Assesing and reforming Public Financial Management - A new approach,Washington DC.

[9]. World Bank (2005), Fiancing information and communication infrastructure needs in the developing World - Public and private role,Washington DC.

[10]. World Bank (2004), Telecommunications challengers in developing countries,Washington DC.

[11]. Đại Việt sử ký tòan thư - Ấn bản Triều Nguyễn

Andrew Viterbi - cha đẻ của thuật toán Viterbi

Andrew Viterbi, người phát minh thuật toán giải mã được sử dụng hầu hết trong các hệ thống thông tin trên các con tàu vũ trụ, tên lửa dẫn đường và các hệ thống thông tin di động (TTDĐ) tế bào, đồng sáng lập nhiều công ty viễn thông  như Linkabit, Qualcomm.

Nhưng ít ai biết được ông đã phải chạy trốn khỏi Bergamo, Italia cùng cha mẹ khi mới hơn 4 tuổi để sang định cư ở Mỹ với đôi bàn tay trắng năm ngày trước khi xảy ra thế chiến thứ 2. Những thành công ở các cương vị khác nhau kỹ sư thiết kế hệ thống, nhà kinh doanh, con đường khoa học với ông tất cả đều gói gọn trong bốn chữ “Đúng nơi đúng lúc”.

Andrew Viterbi (trái) trong lễ nhận giải thưởng IEEE/RSE Wolfson/James Clark Maxwell 2007 cho những đóng góp, phát minh và sự lãnh đạo có ảnh hưởng đến sự phát triển của thông tin không dây

Những thời khắc quan trọng  trong cuộc đời của Viterbi

Thời nhỏ cuộc sống của Viterbi rất khó khăn. Năm 10 tuổi, khi ngắm nhìn ngôi trường đại học công nghệ hàng đầu nước Mỹ, Viện công nghệ Massachusetts MIT từ bên này sông Charles, Viterbi luôn ao ước rằng mình sẽ phải là một sinh viên của trường khi tốt nghiệp trung học. Để thực hiện ước mơ đó, ông đã chọn cho mình một còn đường duy nhất đó là làm việc và học tập chăm chỉ. Quyết tâm học tập của ông đã mang lại cho ông một cơ hội  trở thành sinh viên trường MIT khi ông là một trong bốn học sinh có số điểm cao nhất khi tốt nghiệp trung học trên tổng số 225 sinh viên. Mặc dù được nhận vào học tại khoa Kỹ thuật Điện tại Đại học MIT, nhưng Andrew Viterbi vẫn không thể tập trung toàn bộ thời gian cho học tập, thay vào đó ông đã phải đăng ký học bán thời gian để có thời gian đi làm việc để kiếm sống. Sau năm năm ông đã có trong tay bằng đại học và thạc sỹ khoa học cùng một lúc vào năm 1957. Ngay sau khi tốt nghiệp, ông đã được mời tham gia vào nhóm nghiên cứu về thông tin liên lạc tại trung tâm nghiên cứu JPL (Jet Propulsion Laboratory) tại California.

Viterbi đã giành rất nhiều thời gian để nghiên cứu về việc bám và bắt tín hiệu cho hệ thống thông tin của vệ tinh Explore 1 được Mỹ phóng thành công vào tháng 2 năm 1958. Thời gian đó, Viterbi đã làm việc với thiết bị vòng khóa pha (phase lock loop) mà sau này đã được dùng phổ biến trong tất cả các hệ thống thông tin cả tương tự và số. Đối với Viterbi, được tham gia đóng góp vào sự thành công của Explore 1 là một vinh dự, nhưng lớn hơn nữa là những kinh nghiệm làm việc tại đây đã cho ông nhiều kinh nghiệm cũng như sự nghiệp mà sau này ông đã thành công với công nghệ trải phổ ở Qualcomm.

Ngoài cùng với JPL tham gia những dự án tiên phong trong hệ thống thông tin vũ trụ và tên lửa, Viterbi còn tham gia vào chương trình nghiên cứu sinh bán thời gian tại khoa Kỹ thuật Điện của trường đại học South California, đây có lẽ là một trong số ít các trường đại học tư của Mỹ lúc bấy giờ cho các nghiên cứu sinh ngoài làm nghiên cứu còn có thể đi làm việc cho các hãng. Vào năm 1962, khi nhận được tấm bằng tiến sỹ ông đã được mời làm trợ giảng tại trường Đại học California, Los Angeles. Đối với ông, đam mê nghiên cứu bao nhiêu thì ao ước được giảng dạy cũng nhiều bấy nhiêu. Vì vậy, ông quyết định về giảng dạy chuyên ngành lý thuyết thông tin và thông tin số tại trường đại học California. Khi giảng dạy chuyên đề về tách tín hiệu ra khỏi nhiễu, ông thấy rằng nếu giảng dạy cho sinh viên bằng cách thông thường thì quá phức tạp và khó hiểu. Lúc đó, ông nảy ra ý định tìm một cách nào đó để có thể giúp sinh viên của ông tiếp cận vấn đề một cách đơn giản nhất. Theo như ông nói [2], công trình nghiên cứu sinh của ông thì không có gì đáng bàn nhưng nó lại mang lại cho ông một nền tảng vững chắc cho những thành công sau này. Những nền tảng kiến thức cũng như kinh nghiệm làm việc ở nhiều dự án lớn tại JPL đã giúp Viterbi tìm ra lời giải cho vấn đề của mình chỉ trong vòng 3 tháng. Lời giải đó sau này được mang tên ông "Thuật toán Viterbi".

Thuật toán Viterbi

Trong bất kỳ một hệ thống truyền dẫn vô tuyến nào từ tương tự đến hệ thống số, các tín hiệu đều phải được điều chế lên một tần số sóng mang nhất định để truyền dẫn qua không gian. Do đó, dù là các tàu vũ trụ, các tên lửa hay hệ thống thông tin tế bào thì vấn để tách tín hiệu ra khỏi nhiễu đóng vai trò cốt lõi thể hiện tính ưu việt của mỗi hệ thống thông tin.

Trong vũ trụ, tín hiệu luôn bị chìm sâu vào trong nhiễu do nhiễu vô tuyến từ các thiên hà hoặc quá trình phát xạ từ mặt trời. Hay như trên mặt đất, tín hiệu của một máy vô tuyến tế bào bị gây nhiễu bởi rất nhiều máy phát vô tuyến tế bào khác xung quanh nó. Vậy làm thế nào để có thể tách tín hiệu cần thiết ra khỏi nhiễu? Để thực hiện điều đó, người ta đã dùng giải pháp mã hóa kênh các tín hiệu để thêm vào thông tin gốc các bit dư để bảo vệ trước khi chúng được phát qua kênh truyền có nhiễu. Bằng cách mã hóa kênh như vậy, các bit thông tin (bit 0 hay 1) có thể được biểu diễn không chỉ biểu diễn bằng một góc dịch pha (Điều chế khóa pha M-PSK) mà còn có thể được biểu diễn bằng 4, 8 hoặc nhiều hơn nữa các ký hiệu. Với hệ thống dùng mã hóa kênh, ở phía thu chúng ta không tách các bit thông tin thực tế mà thay vào đó là các ký hiệu mã hóa để từ các ký hiệu đó chúng ta có thể khôi phục lại các bit thông tin gốc. Ý tưởng cơ bản của giải pháp lựa chọn mã hóa kênh là nếu như một trong số các ký hiệu phát qua kênh bị méo do nhiễu thì những ký hiệu bị ảnh hưởng bởi nhiễu ít hơn sẽ giúp giải mã các bit thông tin thực tế với độ tin cậy cao hơn.

Trong môi trường nhiễu, có một thực tế là nếu ngay khi nhận được tín hiệu thu chúng ta thực hiện giải mã các bit 0 hoặc 1 thì hiệu quả sẽ không cao. Thay vào đó, chúng ta chỉ đánh giá độ tin cậy, (rất tin cậy, tin cậy, tin cậy thấp , tin cậy rất thấp), khi giải mã bit 1 hoặc bit 0 dựa trên tín hiệu thu được. Với cách giải mã như vậy người ta gọi là quyết định mềm (soft decision). Những thông tin thể hiện độ tin cậy của quyết định mềm đó được đưa đến bộ giải mã để tìm ra bit thông tin gốc là 0 hay 1 thông qua việc so sánh kết quả với những bit thông tin lân cận. Giải thuật mềm như đã nêu ở trên sẽ rất phức tạp, độ phức tạp sẽ tăng theo hàm mũ khi độ dài các thanh ghi dịch trong bộ tạo mã tăng lên. Công trình nghiên cứu trong vòng ba tháng của Viterbi đã làm giảm độ phức tạp thông qua việc kết hợp các quyết định mềm để quyết định chuỗi bit thông tin nào là giống với chuỗi bit được phát đi nhất. Giải pháp này của Viterbi đã được chứng minh là cho kết quả giống với kết quả của phương pháp giải mã tối ưu với độ phức tạp cao ở trên. Với ưu điểm đó, JPL ngay lập tức sử dụng thuật toán giải mã Viterbi trong hệ thống thông tin vệ tinh cũng như vũ trụ của mình. Sau này các hệ thống thông tin quân sự cũng như các mạng thông tin số như các tuyến truyền dẫn viba hay hệ thống TTDĐ tế bào GSM, CDMA đều dùng thuật toán giải mã này giải mã mã xoắn.

Bước ra thương trường

Khi giảng dạy tại trường Đại học California, nơi công việc giảng dạy đã giúp ông tìm ra thuật toán mang tên mình đã được công nghệ và các hệ thống thông tin thực tế khẳng định. Ông bắt đầu bắt tay vào các dự án nghiên cứu nhỏ được ký kết với Bộ Quốc phòng và Trung tâm hàng không vũ trụ NASA (Mỹ) cùng các đồng nghiệp của mình. Những dự án ban đầu của ông rất thành công làm cho ông cùng các cộng sự nảy sinh ý định thành lập một công ty của riêng mình lấy tên là Linkabit. Lúc đó, Viterbi phải đứng trước một quyết định khó khăn: giảng dạy hay kinh doanh? Cuối cùng ông đã quyết định rời khỏi Đại học California để đến San Diego làm việc với Linkabit cùng với các cộng sự. Đến giữa những năm 70 thế kỷ 20, công ty của ông đã ký hợp đồng để xây dựng hệ thống vô tuyến hai chiều chống nhiễu cho hệ thống hàng không của Mỹ. Hệ thống mà Linkabit thiết kế lúc bấy giờ tương tự như các hệ thống không dây nội hạt hiện nay (WiFi).

Vào năm 1980, Linkabit được Microwave Associate Communications mua lại. Sự hội nhập của Linkabit vào Microwave lúc bấy giờ là cơ hội để Viterbi mở rộng thương mại các sản phẩm của mình như phát triển các modem sử dụng thiết bị đầu cuối anten độ mở nhỏ. Bên cạnh đó, Viterbi cũng tham gia vào dự án với Home Box Office (HBO) để xây dựng bộ ngẫu nhiên hóa đầu tiên để chống thu trộm tín hiệu truyền hình. Sau 5 năm làm việc với Microwave Associate Communications, do những trục trặc về quản lý nên Viterbi cùng với Irwin Jacobs và 5 nhân viên cũ của Linkabit trước đây thành lập công ty Qualcomm.

Ban đầu, Qualcomm tập trung chủ yếu vào các dự án quân sự. Không lâu sau, Qualcomm đã vươn sang các ứng dụng thương mại. Hệ thống thương mại đầu tiên trên băng tần thử nghiệm của FCC (Federal Communications Commission) là OmniTRACS, hệ thống thông tin sử dụng thông tin vệ tinh ở quỹ đạo địa tĩnh cho phép các công ty vận tải đường dài có thể giữ liên lạc liên tục với các lái xe thông qua các bản tin ngắn. Ban đầu, hệ thống này triển khai trên 600 xe tải nhưng đến nay hệ thống đã được sử dụng cho nửa triệu thuê bao trên toàn thế giới. Đối với Qualcomm, OmniTRACS thực sự giúp cho công ty cất cánh và đi vào thương trường vì nguồn thu từ hệ thống này giúp cho Qualcomm phát triển hệ thống TTDĐ tế bào CDMA vào những năm 1990.

Vào những năm 1990, hệ thống thông tin tế bào tương tự sử dụng công nghệ truy nhập phân chia theo tần số (FDMA) bộc lộ nhiều nhược điểm, trong đó, chủ yếu là hạn chế về dung lượng của mạng. Thế giới lúc đó đã nghĩ về một hệ thống thông tin cải tiến hơn hệ thống tương tự hiện tại. Các nước châu Âu chủ yếu nghiên về lựa chọn công nghệ số TDMA (Đa truy nhập phân chia theo thời gian sau này sử dụng trong hệ thống GSM) là lựa chọn để tăng dung lượng hệ thống lên gấp khoảng 4-6 so với hệ thống tương tự trên cùng một bề rộng băng tần. Nhưng Qualcomm vẫn nghĩ rằng họ còn có một sự lựa chọn tốt hơn đó là dùng công nghệ đa truy nhập phân chia theo mã (CDMA), một ứng dụng của lý thuyết trải phổ đã được sử dụng trong thông tin quân sự của Mỹ rất lâu trước đó. Sau đó 3 năm thì bộ tiêu chuẩn về TTDĐ CDMA đã hoàn thành.

Năm 1995, hệ thống TTDĐ tế bào CDMA đầu tiên của Qualcomm đã được thử nghiệm đầu tiên tại Hồng Kông, tiếp theo là Los Angeles và Hàn Quốc. Đến những năm của cuối của thể kỷ trước, viễn thông thế giới một lần nữa ngồi lại với nhau để tìm ra một sự hội tụ chung về công nghệ cho TTDĐ tế bào, bởi lúc này nhu cầu dịch vụ trong mạng thông tin vô tuyến đã chuyển dịch từ dịch vụ thoại thông thường với mức QoS cố định sang các dịch vụ đa phương tiện đòi hỏi truyền dẫn ở tốc độ cao và thay đổi theo từng dịch vụ. Khi đó, công nghệ truy nhập vô tuyến CDMA đã chính thức được ITU-R (IMT-2000) lựa chọn là công nghệ truy nhập để nâng cấp các mạng thông tin thế hệ 2G sang 3G.

Quay về với công việc hàn lâm!

Vào năm 2000, ở tuổi 65 sau khi đã từng làm việc cho 13 công ty khác nhau ông quyết định rút lui khỏi thương trường để đầu tư toàn bộ thời gian còn lại cho những công việc hết sức có ý nghĩa: Viết báo, giảng dạy và làm khách mời danh dự cho các hội nghị về ngành kỹ thuật viễn thông, đầu tư vào các công ty mới thành lập. Năm 2004, ông đã thành lập một vốn đầu tư rất lớn với trị giá 52 triệu USD cho trường kỹ thuật tại Đại học South California, sau này trường đổi tên thành trường kỹ thuật Viterbi (Viterbi School of Engineering) để vinh danh những đóng góp của ông. Hiện nay, ngôi trường của ông đang đứng trong top 10 trường kỹ thuật tốt nhất ở Mỹ.

Gần 50 năm trên con đường sự nghiệp của mình, Viterbi luôn để lại dấu ấn và có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển công nghệ viễn thông trên thế giới. Bên cạnh rất nhiều giải thưởng khác, năm 1998, nhân dịp kỷ niệm 50 thành lập của Tạp chí Information Theory, ông là một trong số 17 nhà khoa học đã vinh dự nhận được giải thưởng Golden Jubilee dành cho các nhà khoa học đã có những khám phá, phát minh khoa học làm thay đổi nền khoa học công nghệ thông tin của thế giới [4].

Trong nhiều cương vị khác nhau, với trải nghiệm của mình ông mong mỏi các thế hệ đi sau mình hãy làm những gì mà mình thích, mình có thể làm được nhiều nhất vì đơn giản cơ hội chỉ đến một lần. Trên chặng đường sự nghiệp của ông, ông đã phải rất nhiều lần đưa ra quyết định và quyết định khó khăn nhất vẫn là rời bỏ công việc hàn lâm để tham gia vào thương trường. Nhưng rồi, ông lại rời bỏ thương trường để về với công việc hàn lâm trước đây với mục đích tạo cơ hội cho thế hệ trẻ sau ông tiếp tục xây dựng nền công nghệ thông tin thế giới. Với Viterbi, ra đi hay trở về đều là những lựa chọn “Đúng nơi đúng lúc”.

Nguyễn Trung Hiếu,  Lê Hải Châu

Tài liệu tham khảo

[1]. The quiet Genius: Andrew Viterbi by Trudy E. Bell

[2]. Interview #337, IEEE history Center

[3]. Andrew J. Viterbi and Jim K. Omura, Principles of Digital Communication and Coding.

[4]. http://www.itsoc.org/society/goldjub_tech.htm

[5].http://colleges.usnews.rankingsandreviews.com/usnews/edu/college/rankings/rankindex_brief.php

Đối mới Bưu điện Văn hóa xã trong thời kỳ cạnh tranh

Bùi Xuân Chung

Bài viết này trình bày những cơ hội và thách thức trong phát triển Điểm Bưu điện Văn hóa xã (BĐ-VHX) khi Việt Nam đã hội nhập, thị trường Viễn thông Việt Nam đã mở cửa cạnh tranh.

Điểm Bưu điện Văn hóa xã Lao và Chải, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang (Ảnh: YM)

 I. BĐ-VHX xã trong thời kỳ bao cấp chéo

1. Tại sao có BĐ-VHX

Tính đến năm 2009 đã trải qua 11 năm, kể từ khi thị trường Viễn thông có những thay đổi và phát triển vượt bậc, điều đó được minh chứng qua sự gia tăng số lượng thuê bao điện thoại và các nhà khai thác Viễn thông. Trong Nghị định 51/CP ngày 01/08/1995 của Chính phủ về phê chuẩn Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Chính phủ giao về nguyên tắc thực hiện nhiệm vụ công ích cho VNPT: “có nghĩa vụ đảm bảo thông tin liên lạc phục vụ sự chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước, phục vụ quốc phòng, an ninh, ngoại giao và các yêu cầu thông tin liên lạc khẩn cấp; bảo đảm các dịch vụ Bưu chính, Viễn thông cơ bản trong cả nước, kể cả vùng xa xôi hẻo lánh”.

Như vậy, trách nhiệm xây dựng và phát triển BĐ-VHX là thuộc về VNPT, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Viễn thông duy nhất lúc đó, là hoàn toàn hợp lý.

2. BĐ-VHX là của ai?

Xét về bản chất nghĩa vụ cung cấp dịch vụ công nói chung và đầu tư BĐ-VHX thuộc về Nhà nước. Trong giai đoạn đó, Nhà nước sử dụng lực lượng tài chính của mình là các doanh nghiệp Nhà nước để thực hiện cung cấp dịch vụ công. Những khoản đầu tư cho BĐ-VHX là cần thiết, bởi lẽ đây là nơi tuyên truyền đường lối, chính sách và duy trì văn hóa thông tin tại các vùng sâu vùng xa đồng thời góp phần ổn định an ninh quốc phòng tại các vùng sâu, vùng xa.

Như vậy, hệ thống BĐ-VHX được hình thành trên cơ sở chính sách phát triển của Chính phủ, nên cũng có thể hiểu đây là các tài sản của Nhà nước đặt tại doanh nghiệp. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống BĐ-VHX là một thách thức được đặt ra trong thời gian tới. Bởi lẽ, nếu việc cung duy trì BĐ-VHX nếu dừng ở mức đơn vị cung cấp VNPT thì sẽ thiếu tính xã hội hóa trong phát triển hệ thống BĐ-VHX.

II. Tại sao cần đổi mới BĐ-VHX trong thời kỳ mở cửa cạnh tranh

1. Những điểm mạnh của chủ trương phát triển BĐ-VHX

Thứ nhất, quan điểm phát triển BĐ-VHX thể hiện nội dung của một chính sách công hướng đến và phục vụ đời sống của nhân dân, đặc biệt là nhân dân tại các vùng sâu, vùng xa.

Thứ hai, chủ trương thể hiện cam kết và quyết tâm của Chính phủ trong việc đưa công nghệ thông tin và truyền thông phục vụ phát triển kinh tế xã hội đến hơn 70% dân số Việt Nam.

2. Kinh nghiệm quốc tế

a. Kinh nghiệm từ cải cách Viễn thông và phát triển dịch vụ Viễn thông công ích của Mông Cổ

Mông Cổ được Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) giúp đỡ trong tái cơ cấu thị trường Viễn thông trong đó có Viễn thông công ích, trong đó hai nội dung quan tâm nhất là:

Thứ nhất, điểm chuyển đổi giữa dịch vụ truy nhập (Universal access -UA) và dịch vụ phổ cập (Universal Service - US) là từ 30 máy/100 dân. Điều này gợi ý cho việc phổ cập nội dung và các dịch vụ tại các điểm BĐ-VHX chỉ khả thi với các vùng có mật độ thuê bao điện thoại trên 100 dân lớn hơn 30 thuê bao.

Hình 1. Điểm chuyển tiếp giữa UA và US

Thứ hai, mức độ hỗ trợ phải đảm bảo vượt qua mức lỗ, thời gian hỗ trợ ổn định trong thời gian 10 năm (Hình 2). Đây là cơ sở để các Nhà khai thác tập trung đầu tư và có đủ thời gian thu hồi vốn.

b. Kinh nghiệm của hợp tác IFC và Indonesia trong phát triển các dự án Viễn thông công ích

Danh mục dự án phát triển điểm truy nhập công cộng được Công ty Tài chính quốc tế  (International Finance Corporation- IFC) của Ngân hàng thế giới (WB) tư vấn phát triển như danh mục dự án rủi ro. Theo đó, các Nhà khai thác sẽ đấu thầu phần kinh phí Nhà nước hỗ trợ nhưng họ phải đảm bảo duy trì điểm truy nhập (BĐ-VHX) với các yêu cầu về quy mô và thời gian phục vụ.

Hình 2. Thời gian và mức hỗ trợ đối với dịch vụ Viễn thông công ích

Kinh nghiệm này dẫn đến sự tách bạch giữa đầu tư và vận hành đem lại cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của BĐ-VHX. Dựa vào thị trường và hình thức đầu thầu để đầu tư mới phát triển các điểm BĐ-VHX, bên cạnh đó hình thức đấu thầu vận hành có hình thức giống như việc chia sẻ cơ sở hạ tầng cũng là cơ sở duy trì và vận hành các điểm BĐ-VHX một cách hiệu quả.

III. Mô hình cho sự đổi mới

1. Mô hình gia tốc đầu tư

Mô hình gia tốc đầu tư có thể hiểu theo hai cách:

- Trong xác định quy mô đầu tư cần xác định mức đầu tư của Nhà nước đảm bảo đủ để tạo tiền đề cho xã hội thực hiện đầu tư, thông thường trường hợp này sẽ đầu tư vào hạ tầng cơ sở.

- Trong việc luân chuyển vốn và đảm bảo thu hồi vốn và phát triển bền vững cho các dự án công, khoản đầu tư ban đầu sẽ được thu hồi và luân chuyển vào dự án khác hoặc vùng khác. Một hình ảnh lan truyền, áp dụng thí điểm rồi đến quy mô diện rộng trên cơ sở quay vòng khoản vốn đầu tư để hạn chế và quản trị được rủi ro trong đầu tư cho Viễn thông công ích.

Mô hình khẳng định đầu tư Nhà nước có tính kích cầu trong phát triển kinh tế đất nước chứ không thay thế hoàn toàn được đầu tư xã hội. Trong thực tế, hình thức này sẽ chuyển từ mô hình cấp phát sang đầu tư để thu hồi vốn và luân chuyển và các dự án khác, nhờ đó vốn nhà nước không mất đi mà được lớn mạnh và luân chuyển vào các dự án khác để phục vụ mục tiêu phát triển khác của Chính phủ.

Về mặt kỹ thuật, ngoài vận tốc thì gia tốc phản ánh đầy đủ các thông số kỹ thuật của chuyển động gống như việc xem xét mô hình phát triển bền vững trong kinh tế. Như vậy mô hình gia tốc đầu tư là luận cứ quan trọng để phát triển BĐ-VHX một cách bền vững.

2.Vận dụng với trường hợp BĐ-VHX

Trong 8000 điểm BĐ-VHX Nhà nước đã đầu tư, Nhà nước nên chọn các điểm đủ điều kiện để tiếp tục đầu tư (Có thể là 1000 hoặc theo số khảo sát thực tế) để ngày nào đó đây là nhân tố hay “gia tốc” để phục hồi lại số lượng điểm BĐ-VHX lớn hơn 8000 điểm trước đây.

Hiện nay Nhà nước đang thực hiện việc kích cầu, cũng là thời điểm hợp lý xem xét lại mô hình BĐ-VHX.

IV. Gợi ý về kỹ thuật xây dựng báo cáo khả thi trong tái cấu trúc BĐ-VHX

Nhân tố sử dụng để đánh giá tính khả thi trong đầu tư BĐ-VHX gồm: Nhu cầu về thông tin tại vùng dự án, điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng tài chính, điều kiện hạ tầng Viễn thông tại vùng dự án… Hệ thống các nhân tố được thiết lập theo các tiến trình cơ bản trong Hình 3.

Hình 3. Tiến trình phát triển và xác định tính khả thi BĐ-VHX

Nhờ việc xác lập và tách đoạn các giai đoạn phát triển khác nhau gắn với nhu cầu về BĐ-VHX sẽ tránh được tính phong trào, nâng cao tính khả thi và hoàn vốn tại các điểm BĐ-VHX.

Thông qua việc xây dựng mô hình khả thi sẽ tính toán mức hỗ trợ cần thiết trên cơ sở kết hợp với đấu thầu và thị trường hóa cúng cấp dịch vụ cơ bản tại BĐ-VHX, nhờ vậy phần vốn đầu tư vào BĐ-VHX sẽ luân chuyển và đầu tư vào khu vực khác sau khi thị trường đã đảm nhận được việc duy trì điểm BĐ-VHX.

Một cách nhìn xa hơn, đây chính là tiền đề trong việc hình thành thị trường công trong lĩnh vực Viễn thông công ích gắn với mục tiêu của Chính phủ và nhu cầu của hơn 70% dân số Việt Nam./.


Những thách thức và cơ hội của NGN ở Việt Nam

TS. Đặng Đình Trang, ThS. Nguyễn Sơn Hải

Phát triển và kinh doanh mạng thế hệ mới NGN đã và đang là vấn đề nóng trong ngành viễn thông vài năm gần đây. Bài viết này trình bày tóm tắt các nghiên cứu đánh giá về thách thức và cơ hội mà NGN có thể tạo ra cho nhà khai thác viễn thông. Bài viết tập trung vào các vấn đề nổi cộm, gây ra nhiều tranh luận của NGN như khi nào nên triển khai NGN, Softswitch hay IMS, các vấn đề của chuyển đổi và kinh doanh NGN.

1. Giới thiệu

Mạng thế hệ mới (Next Generation Network - NGN) bắt đầu được đề xuất, nghiên cứu thảo luận nhằm chuẩn hóa từ khoảng năm 2003. NGN không phải là một ý tưởng cách mạng, NGN là sự phát triển tất yếu của quá trình tiến hóa công nghệ mạng phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng. Có rất nhiều động lực thúc đẩy quá trình tiến hóa này: nhu cầu của khách hàng điện thoại chuyển từ cách chỉ dùng các dịch vụ do công ty cung cấp điện thoại truyền thống cung cấp sang thế giới Internet mở với khối lượng nội dung và năng lực liên lạc khổng lồ; sự hội tụ tất yếu của các mạng liên lạc trước đây chỉ dùng cho các mục đích riêng (ví dụ mạng PSTN nhằm cung cấp liên lạc điện thoại cố định, mạng GSM dành cho điện thoại di động) sang mạng sử dụng giao thức IP hoàn toàn (all-IP) có bản chất đa tính năng, có mặt tại mọi nơi mọi chỗ và chi phí thấp; sự tách biệt phần truyền tải của mạng và các dịch vụ chạy trên lớp truyền tải, cho phép sáng tạo ra các dịch vụ mới độc lập với lớp truyền tải, gây ảnh hưởng lớn đến cạnh tranh và giá cước dịch vụ…

Ảnh minh họa: nextgenerationnetwork.ie

Trong mạng điện thoại truyền thống PSTN, kết nối liên lạc điện thoại dùng chuyển mạch kênh sử dụng một đường kết nối vật lý giữa người dùng tại hai đầu của mạng. Đường kết nối này bị chiếm dụng và phải được đảm bảo trong suốt quá trình liên lạc. Trên Internet, dữ liệu được truyền tải với giao thức IP. Thông tin được cắt nhỏ vào các gói dữ liệu chứa đầy đủ địa chỉ IP của bên gửi và bên nhận. Các gói thông tin được gửi tới các thiết bị định tuyến (router) tiếp nối nhau đến khi gói dữ liệu cuối cùng được gửi đến bên nhận. Các gói dữ liệu không nhất thiết phải đi theo cùng một đường đến bên nhận, vì vậy mạng IP cho phép thiết lập liên lạc không cần đường kết nối cố định. Mỗi loại mạng đều có các điểm mạnh và yếu riêng. Mạng NGN được xây dựng với mục tiêu kết hợp các tính năng tốt nhất của hai mạng PSTN và Internet.

Tuy nhiên, mạng PSTN được xây dựng và khai thác trong thế kỷ trước sẽ không thể thay thế được trong một sớm một chiều. Gác lại một bên những vấn đề về công nghệ của NGN - vốn đang được phát triển, chuẩn hóa và chưa thật sự chín muồi - bài viết này tập trung vào các thách thức mà các nhà khai thác viễn thông sẽ phải đối mặt khi lên kế hoạch triển khai mạng NGN trong tương lai. Nên hay không, khi nào nên bắt đầu tiến tới NGN, lộ trình chuyển đổi sang NGN, phải giải quyết như thế nào với khách hàng cũ, cơ sở hạ tầng cũ, cơ cấu tổ chức cũ. Triển khai NGN không đơn thuần là lắp đặt và khai thác mạng, nó kéo theo hàng loạt các vấn đề liên quan mật thiết như cơ cấu lại quy trình khai thác, kinh doanh trong môi trường mới, thiết lập lại các quy định kết nối trong và ngoài nước, tính cước, quản lý nhà nước… Chuyển đối sang NGN yêu cầu sự chuyển mình và đổi mới của toàn bộ hệ thống. Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới vô số cơ hội mà NGN có thể mang tới như giữ chân khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao hiệu suất khai thác vận hành, giữ và tạo ra các nguồn lợi nhuận mới… Các nhà khai thác cần hiểu rõ và vận dụng một cách hợp lý, đúng thời gian và địa điểm để thu lợi nhiều nhất từ các cơ hội mà NGN mang đến.

2. Những điểm đáng lưu ý của NGN

2.1. NGN là gì?

NGN là một khái niệm rộng, khó định nghĩa một cách chính xác, ngắn gọn. Ngay cả các diễn đàn chuẩn hóa lớn nhất cũng có cách tiếp cận NGN đôi chút khác nhau. Bắt đầu từ tên gọi, Korea Telecom triển khai xây dựng mạng thế hệ mới với tên gọi Broadband convergence Network (BcN), British Telecom đặt tên mạng là 21CN, Telekom Global Network (TGN) là tên mạng NGN của Deutsche Telekom… Khi sử dụng khái niệm NGN, một số người muốn đề cập đến quá trình chuyển hóa từ PSTN sang mạng trên nền IP, một số khác muốn nói đến việc sử dụng công nghệ IP trên phần nào đó của mạng hay cuộc gọi [1]. Dưới một góc nhìn nào đó các cách hiểu này đều có lý do có thể chập nhận được.

NGN có thể phát triển, sử dụng nhiều công nghệ mạng bao gồm mạng quang, cáp, cố định, di động… Mục tiêu là chuyển đổi từ “mạng đơn dịch vụ” sang “mạng đa dịch vụ”. Đối với các nhà khai thác, NGN là công cụ quan trọng để giữ vị thế cạnh tranh trên thị trường trong thế giới hội tụ của dịch vụ và nội dung, khi doanh thu từ điện thoại truyền thống ngày càng giảm sút. Trên thị trường viễn thông, động lực của NGN là nhu cầu dịch vụ điện thoại, dữ liệu, video tích hợp, mọi lúc mọi nơi, trên mạng cố định cũng như di động. Về mặt công nghệ, sự khác biệt của NGN là chuyển mạch gói so với chuyển mạch kênh truyền thống trên PSTN.

Nhóm nghiên cứu ITU-T SG13 định nghĩa NGN trong Khuyến nghị Y.2001 [9] như sau: “Mạng truyền tải gói cho phép cung cấp các dịch vụ liên lạc viễn thông và có khả năng sử dụng nhiều loại hình băng rộng, các công nghệ truyền tải đảm bảo QoS, trên đó các chức năng liên quan tới dịch vụ độc lập với các công nghệ truyền tải phía dưới. Nó cho phép người dùng truy nhập tự do tới các mạng, các nhà cung cấp dịch vụ và/hoặc các dịch vụ theo ý muốn của họ. Nó hỗ trợ tính năng di động (generalized mobility), khả năng cung cấp dịch vụ ổn định, mọi lúc mọi nơi”.

2.2. Lộ trình chuẩn hóa NGN

NGN đã và đang là một đề tài nóng trong lĩnh vực viễn thông trên toàn thế giới, nhiều diễn đàn, tổ chức và dự án đang hoạt động rất tích cực trong tiến trình chuẩn hóa NGN.

Trên hết phải nhắc tới vai trò chủ đạo của ITU-T trong chuẩn hóa NGN. Khởi đầu bằng hội thảo “Next Generation Netwroks: What, When and How?” tại trụ sở của ITU-T ở Geneva, Thụy Sỹ tháng 6/2003. Sau đó FGNGN (Focus Group on NGN) được thành lập để soạn ra các phác thảo chuẩn đầu tiên của NGN. Kết quả của nó được tiếp tục bởi ITU-T SG13, nhóm nhiên cứu hàng đầu về NGN, đưa ra các khuyến nghị chính thức của ITU-T về NGN. Sau FGNGN, NGN-GSI (Global Standards Initiative) được thiết lập là nhóm quản lý hệ thống tập trung về NGN, bao gồm các nhóm nghiên cứu SG11 (về các giao thức báo hiệu), SG17 (về an ninh mạng) và SG19 (về các mạng di động) [10]. Kết quả của các nhóm làm việc này đến thời điểm hiện nay là NGN Release 1 gần hoàn chỉnh tập trung vào các dịch vụ trên nền phiên (session-oriented), các Khuyến nghị Y.2xxx, Q.3xxx về lưu lượng và quản lý QoS, chuyển đổi từ PSTN/ISDN, quản lý mạng, an ninh, di động (mobility), báo hiệu… [11]. NGN Release 2 sẽ đi sâu vào các dịch vụ dòng (streaming) như IPTV và mở rộng sang di động.

Gần như song song với ITU-T, Viện Tiêu chuẩn Viễn thông châu Âu (ETSI) bắt đầu dự án TISPAN (Giao thức và mạng hội tụ viễn thông và Internet cho các mạng tiên tiến) tháng 9/2003 để soạn thảo ra chuẩn châu Âu về NGN và cố gắng đưa chúng thành các chuẩn quốc tế ITU-T. 3GPP IMS được chọn là nền tảng cơ bản cho NGN. Mục đích của TISPAN là: (1) mở rộng IMS cho các khách hàng băng rộng, PSTN/ISDN; (2) cung cấp đầy đủ các dịch vụ PSTN/ISDN hiện tại cho các khách hàng trên mạng thế hệ mới để hỗ trợ các kịch bản chuyển đổi; (3) mở rộng các phạm vi thuộc về quản lý của IMS mà 3GPP chưa hỗ trợ như gọi khẩn cấp (Emergency calling), nghe trộm đúng luật (Lawful Interception), báo cuộc gọi có mục đích xấu (Malicious Call Indication - MCI), CLIP/CLIR… [3]. Các kết quả của TISPAN khá giống của ITU-T, TISPAN NGN Release 1 ban hành vào 2005 là các chuẩn nền tảng để phát triển và xây dựng NGN. Release 2 vẫn trong quá trình hoàn thiện tập trung vào tính năng di động, cung cấp nội dung và các dịch vụ mới với mức an ninh và quản lý mạng nâng cao [12].

Tiếp đó phải kể đến 3GPP, nơi khởi động mô hình IMS. IMS là một phần trong công việc chuẩn hóa công nghệ di động 3G trên mạng UMTS. Công việc này sau đó được 3GPP, 3GPP2, TISPAN mở rộng, hỗ trợ các mạng khác như wireless LAN, CDMA2000 và mạng cố định. 3GPP vẫn tiếp tục tập trung vào phát triển phần lõi của IMS. Họ đã phát hành các Release 99 (nền tảng), 4 (giới thiệu MMS và TD-SCDMA), 5 (HSDPA và IMS), 6 (nâng cao HSPA và IMS). Release 7 đang trong thời gian hoàn thiện, mở rộng IMS sang các mạng cố định.

Ngoài ra, còn phải nhắc đến rất nhiều các dự án và diễn đàn nghiên cứu khác cùng đóng góp vào sự phát triển của NGN: Internet Engineering Task Force (IETF), MultiService Forum, các tổ chức liên quan tới Service Delivery Platform (SDP) như OSA/Parlay, JAIN, European Regulators Group…

2.3. Softswitch hay IMS?

Định nghĩa của ITU-T chỉ nêu ra khái niệm chung về mạng NGN mà không cụ thể hóa cách thức để xây dựng NGN. Nói đến NGN hiện nay chúng ta thường nhắc đến Softswitch (chuyển mạch mềm) và IMS (IP Multimedia Subsystem). Đó là hai hệ thống được biết đến rộng rãi trong thế giới NGN, nhưng cũng nên lưu ý rằng một nhà cung cấp hay khai thác mạng nào đó có thể có phương thức riêng để triển khai theo mục đích, nhu cầu của họ, không nhất thiết phải là Softswitch hay IMS.

Theo ý tưởng thiết kế ban đầu, Softswitch đúng nghĩa là software switch, dùng để thay thế cho TDM switch (tổng đài chuyển mạch TDM). Vì mạng điện thoại truyển thống dùng chuyển mạch kênh, Softswitch cần có giao diện với cơ sở hạ tầng đã có, bao gồm đường truyền thông TDM (media path) và báo hiệu SS7. Vì tính phân tán của mạng IP, cộng thêm sự ra đời ngày càng nhiều Softswitch, các chức năng của nó được tách ra thành các phần riêng: Media Gateway (MGW), Signaling Gateway (SGW) nằm tại biên mạng làm nhiệm vụ chuyển đổi lưu lượng (sang gói IP) và báo hiệu (sang H.248 hay SIP) và phần xử lý cuộc gọi tạm gọi là Call Control. Hình 1 trình bày các chức năng chính của Softswitch. Ban đầu, Softswitch cũng được thiết kế phù hợp với cấu trúc chuyển mạch truyền thống gồm có các tổng đài Class 4 và Class 5. Theo thời gian, cùng với việc chia tách các thành phần như MGW, SGW, Call Control của hệ thống Softswitch, sự tách biệt chức năng chuyển mạch Class 4/5 trở nên không cần thiết. Các Softswitch hiện nay đều cung cấp đầy đủ các chức năng chuyển mạch Class 4 và 5.

Hình 1. Các thành phần chính của hệ thống Softswitch [7]

Cấu hình IMS ban đầu được 3GPP xây dựng nhằm cung cấp các dịch vụ truyền thông đa phương tiện (IP multimedia) cho khách hàng di động. IMS mô tả một cấu trúc lớp với các chức năng mạng cụ thể tại mỗi lớp, nhưng định nghĩa các thành phần hay thiết bị mạng cung cấp các chức năng đó. Các nhà cung cấp có thể tùy ý thiết kế và chào mua các thiết bị nhưng phải tuân theo các giao diện chuẩn để có thể kết nối, hoạt động tương thích với thiết bị IMS của nhà cung cấp khác. IMS có các chức năng chính như: P/S/I-CSCF (Proxy/Serving/Interrogating-Call Session Control Function), HSS (Home Subscriber Server), BGCF (Breakout Gateway Control Function), MGCF (Media Gateway Control Function), MRF (Media Resource Function), AS (Application Server)… (Hình 2). Với các mục đích và tầm nhìn rộng mà IMS đang hướng tới, có vẻ như IMS là hướng phát triển chủ đạo của mạng thế hệ mới NGN.

Hình 2. Cấu trúc chức năng của IMS [13]

Song song với IMS, các diễn đàn chuẩn hóa cũng đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của Softswitch. Theo xu hướng phát triển IMS, tất cả các nhà cung cấp Softswitch đều vạch ra lộ trình chuyển đổi hay cải tạo hệ thống sang IMS trong tương lai. Một vài hiện thực nên xem xét tới khi phân tích quan hệ giữa Softswitch và IMS: (1) IMS chưa phải là một công nghệ chín muồi và khó có thể dự báo được thành công trong tương lai; (2) hệ thống Softswitch hiện nay đã khá phát triển và ngày càng có nhiều tính năng mới phù hợp với xu thế phát triển mạng và dịch vụ. Ranh giới giữa Softswitch và IMS ngày càng mờ; (3) tùy theo mục đích kinh doanh, tình trạng mạng hiện tại, năng lực thị trường, nhu cầu khách hàng… các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông không nhất thiết cần đến IMS, một giải pháp Softswitch nâng cao có thể là phù hợp nhất với nhu cầu của họ; (4) có vẻ như sự tồn tại song song của cả hai công nghệ là phương án ít rủi ro nhất cho các nhà cung cấp dịch vụ: Softswitch cho kết nối thoại (hiệu quả và tin cậy) và IMS dành cho các dịch vụ nâng cao mới.

3. Những thách thức và cơ hội của NGN

Khi phân tích đánh giá những thách thức và cơ hội mà NGN có thể đem lại cho nhà khai thác viễn thông, bài viết này đi sâu vào ba lĩnh vực đáng lưu ý nhất: quyết định triển khai NGN, phương thức triển khai và phương án kinh doanh trên NGN.

3.1.  NGN: nên hay không?

Có thể khẳng định chắc chắn rằng NGN mang lại rất nhiều cơ hội cho các nhà khai thác viễn thông. Điều này đã được thảo luận rất nhiều trong các hội thảo chuyên đề hay trong các bài nghiên cứu liên quan [1], [3], [4], [6], một vài ý chính có thể được tóm lược như sau:

(1) Kinh doanh thuần túy trên đường truyền thông (“pipe” business) và dịch vụ điện thoại cơ bản ngày càng trở nên thông dụng và có nhiều đối thủ cạnh tranh. Ví dụ trên thị trường viễn thông Việt Nam ngoài VNPT, nay đã có thêm các công ty viễn thông như Viettel, FPT, EVN, S-fone, HT và sắp tới là GTel. Các nhà khai thác phải cạnh tranh quyết liệt về giá cả, dẫn đến giảm lợi nhuận đáng kể. Nếu nhà khai thác muốn thành công trong hoàn cảnh mới, họ phải tìm ra cách tăng thêm giá trị vào dịch vụ truyền thông của họ. NGN là nền tảng để cung cấp các dịch vụ nâng cao mới, giữ chân khách hàng, mở ra những cơ hội thị trường mới, lợi nhuận mới.

(2) Mạng NGN tạo nền tảng cho các nhà khai thác mạng phát triển, cung cấp hiệu quả các dịch vụ mới, loại bỏ các phương thức xây dựng dịch vụ kém hiệu quả, đơn chiếc, cá thể, và không sử dụng lại được như hiện nay. NGN giúp giảm thời gian đưa ra thị trường (time-to-market) và chi phí cho vòng đời (life-cycle) của các dịch vụ mới.

(3) Năng lực của các giải pháp NGN (Softswitch hay IMS) đều lớn hơn nhiều so với các tổng đài chuyển mạch Class 4/5 cũ. Hơn nữa, NGN có chi phí khai thác và vận hành thấp hơn. Những tính năng này rất hấp dẫn không chỉ với các công ty mới tham gia thị trường, mà còn thu hút sự quan tâm của các nhà khai thác truyền thống khi xem xét mở rộng hay thay thế mạng lưới hiện tại. Nền tảng IP cho phép hiệu quả hóa quản lý mạng và sử dụng tài nguyên mạng.

(4) Làm giảm nhu cầu vế số lượng cũng như không gian dùng để lắp đặt các tổng đài, thiết bị mạng. Việc này kéo theo tiết kiệm đáng kể về nhà đặt tổng đài, điểm kết nối và năng lượng tiêu thụ.

Chuyển đổi sang NGN là xu hướng tất yếu của ngành viễn thông. Tuy nhiên, một số nhà khai thác cũng có thể đưa ra lý do để không triển khai NGN. Hiện nay tại phần lớn các thị trường, số lượng khách hàng điện thoại cố định đã bão hòa và có xu hướng giảm dần. Mạng PSTN sẵn có vẫn có năng lực, chất lượng tốt cung cấp dịch vụ trong nhiều năm nữa. Tại sao lại đầu tư vào NGN với phần lớn các dịch vụ như cũ, sự tiếp nhận của khách hàng và thành công của các dịch vụ NGN mới chưa thật sự rõ ràng và chắc chắn? Đây là bài toán của một chiến lược kinh doanh dài hạn. Chiến lược kiểu “phòng thủ” nếu may mắn có thể giúp nhà khai thác giữ được vị thế trên thị trường đến một thời điểm nào đó. Thành công chỉ thật sự đến với sự sáng tạo trong kinh doanh và sự nắm bắt hợp lý các cơ hội. Với các cơ hội như đã trình bày ở trên, việc chọn lựa NGN hay không có lẽ tương đối dễ trả lời. Cái khó với các nhà khai thác viễn thông là việc tận dụng hợp lý các cơ hội của NGN. Trước tiên là quyết định khi nào nên bắt đầu triển khai NGN?

Triển khai NGN yêu cầu đầu tư ban đầu không nhỏ. Triển khai NGN quá sớm sẽ làm lãng phí năng lực mạng sẵn có. Bộ máy kinh doanh chưa sẵn sàng gây ra hiệu quả kinh doanh kém. Thị trường chưa chín muồi sẽ không bị hấp dẫn bởi các dịch vụ NGN mới. NGN là công nghệ vẫn đang phát triển, đầu tư sớm có thể có nhiều rủi ro, các thiết bị cũ sẽ không tương thích với các chuẩn NGN sau này. Triển khai NGN quá muộn cũng sẽ không tận dụng được các cơ hội NGN đem lại. Đối thủ cạnh tranh nào triển khai NGN trước sẽ chiếm lĩnh các lợi thế của NGN trên thị trường. Mặt khác, đầu tư tiếp vào mạng cũ là lãng phí khi chi phí đó có thể dùng để khởi động mạng NGN có năng lực và tính năng vượt trội. Vì vậy, quyết định triển khai NGN đúng đắn phải được xem xét cân nhắc kỹ lưỡng theo hoàn cảnh cụ thể của thị trường, của mỗi nhà khai thác.

3.2. Chuyển đổi sang NGN

Nhà khai thác viễn thông sau khi đã quyết định triển khai NGN sẽ phải đối mặt với một thách thức tiếp theo: chuyển đổi sang NGN. Chuyển đổi mạng truyền thống PSTN – hình thức mạng về cơ bản là không đổi trong nhiều thập kỷ qua - sang NGN không đơn thuần chỉ là bài toán kỹ thuật. Chuyển sang NGN là sự thay đổi về hệ thống của toàn công ty, cần có một chiến lược chuyển đổi tổng thể rõ ràng. Kế hoạch chuyển đổi sang NGN sẽ liên quan, trực tiếp hoặc gián tiếp, đến nhiều lĩnh vực: chiến lược, kinh doanh và bán hàng, phát triển dịch vụ, các hệ thống IT (bao gồm OSS, BSS, khai thác và quản lý mạng…), hiệu quả hóa mạng, quản lý cung cấp thiết bị và các đối tác cung cấp thiết bị, nguồn nhân lực… Các vấn đề sau cần phải xem xét đến trong kế hoạch:

  • Các hạn chế và thách thức của nguồn nhân lực và tài nguyên mạng,
  • Những rủi ro có thể xảy ra trong chuyển đổi liên quan tới cung cấp dịch vụ liên tục và đảm bảo các dịch vụ và chuyển đổi khách hàng,
  • Đánh giá chi tiết về các chi phí chuyển đổi và các khoản tiết kiệm được trong quá trình thay đổi hệ thống,
  • Các nguồn lợi nhuận mới có thể thu được từ việc cung cấp các dịch vụ (NGN) mới trên thị trường.

Một kế hoạch chuyển đổi chung cho toàn hệ thống dịch vụ điện thoại POTS và dữ liệu thông thường mất khoảng 3 đến 8 năm, theo như kinh nghiệm của nhiều nhà khai thác trên thế giới. Tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, nhà khai thác có thể chọn con đường chuyển đổi nhanh hay chậm trong khoảng thời gian trên. Chuyển đổi chậm, kéo dài có vẻ như là ít chi phí và ít rủi ro nhất, đảm bảo sự chuyển đổi trơn tru của các dịch vụ và khách hàng. Số lượng đường thuê bao phải chuyển đổi hàng ngày có thể được nhân lực sẵn có thực hiện. Thách thức có thể xảy đến khi chuyển đổi chậm là trong khoảng thời gian đó các nhà khai thác khác trên cùng thị trường có thể đã hoàn thành NGN trước, cung cấp trước các dịch vụ cạnh tranh hoặc mới với giá rẻ hơn. Do đó suốt quá trình chuyển đổi nhà khai thác phải liên tục nghiên cứu xem xét động thái của thị trường để có phản ứng, điều tiết phù hợp. Ngược lại chuyển đổi rất nhanh mang lại nhiều thuận lợi cho kinh doanh nhưng sẽ yêu cầu chi phí lớn cũng như ẩn chứa nhiều rủi ro. Số lượng đường thuê bao phải chuyển đổi hàng ngày có thể rất lớn, vượt quá khả năng của nhân lực hiện tại. Bên cạnh đó đầu tư nhanh cũng khiến chi phí chuyển đổi cao. Thời gian ngắn hạn chế các thử nghiệm, nghiên cứu nhu cầu thị trường, vì vậy làm tăng rủi ro trong vận hành và khai thác mạng.

Một vấn đề quan trọng khác của chuyển đổi là việc sử dụng (lại) một cách hiệu quả nhất hệ thống, cơ sở hạ tầng hiện tại. Nhà khai thác truyền thống thường khai thác các mạng hạ tầng sau: mạng TDM (nội hạt, liên tỉnh, kết nối quốc tế), mạng dữ liệu/Internet, mạng pre-NGN (VoIP, SIP). Các hệ thống này có thể sử dụng tiếp/lại vào các mục đích hỗ trợ khách hàng truyền thống cho đến khi họ chuyển sang NGN, làm (một phần) mạng lõi cho mạng NGN mới, hay nâng cấp/chuyển đổi thành một phần của NGN mới. Có thể thấy trước rằng mạng cũ sẽ hoạt động song song với mạng mới trong suốt quá trình chuyển đổi và có thể thêm vài năm tiếp theo nữa. Thời điểm cần chấm dứt hoạt động của mạng cũ là khi chi phí vận hành nó đã lớn hơn nhiều so với lợi ích mà nó mang lại.

Tuy không trực tiếp là mục tiêu của chuyển đổi nhưng mở rộng băng thông truy nhập của các thuê bao là việc nhất thiết phải thực hiện trong giai đoạn chuyển đổi để khách hàng thực sự trải nghiệm được các dịch vụ mới và các tiện ích sẽ được mời chào trong môi trường NGN. Nghiên cứu triển khai các công nghệ truy nhập tốc độ cao như ADSL2+ hay truy nhập quang FTTx, PON, GPON… cần được xem xét phát triển.

3.3. Kinh doanh và khai thác NGN

Có rất nhiều vấn đề về mô hình kinh doanh và khai thác NGN, tuy nhiên phần này tập trung vào một số điểm đáng chú nhất liên quan đến cơ hội và thách thức khi khai thác NGN; những thách thức và cơ hội khi NGN đã được lựa chọn và khai thác thương mại. Các điểm liên quan đến định vị chiến lược, marketing dịch vụ, và những thay đổi về tổ chức, mà trước mắt là khi hội tụ di động cố định sẽ được trình bày lần lượt.

3.3.1.  Định vị chiến lược của nhà khai thác dịch vụ 

Ngay trong định nghĩa về NGN của ITU thì dịch vụ viễn thông cũng chỉ là một loại dịch vụ cung cấp trên NGN. Các nhà khai thác viễn thông – bất kể là truyền thống (incumbent) hay mới hình thành (alternative) – đều có cơ hội mở rộng hoạt động của mình sang các lĩnh vực khác như cung cấp nội dung thông tin, các ứng dụng trực tuyến hay truyền thông… Ngay trong giai đoạn tiền NGN, nhiều nhà khai thác viễn thông đã tự định vị mình thành nhà cung cấp thông tin (China Mobile), nhà xử lý thanh toán (Smart Phillipines), nhà cung cấp hạ tầng cho phong cách sống (NTT DoCoMo). Hoặc như với SingTel, công ty không còn nhấn mạnh về một thế giới không khoảng cách (no distance), mà muốn biến thế giới thành một sân chơi (playground) cho khách hàng trẻ. Nhà khai thác có thể lựa chọn, tuy nhiên định vị chiến lược luôn là bước đi quan trọng nhất quyết định sự thành công, và cả thất bại.

Xét ở phạm vi hẹp hơn và truyền thống hơn, NGN đặt ra cơ hội và thách thức cho nhà khai thác viễn thông thay đổi vị trí chiến lược của mình trong chuỗi giá trị của các dịch vụ viễn thông, liên lạc.

Với khả năng xử lý rất mạnh, dung lượng không hạn chế, và tính mở của NGN như mong muốn của ITU có thể khiến cho NGN mở ra cơ hội tương đối bình đẳng giữa những thành viên tham gia thị trường: nhà khai thác mạng, nhà cung cấp dịch vụ, nhà bán lại dịch vụ, nhà cung cấp nội dung thông tin và cả người sử dụng cuối cùng. Trong môi trường NGN, người sử dụng cuối cùng - vốn thụ động trong các mô hình kinh doanh viễn thông trước đây - có thể tự thiết kế cho mình các dịch vụ với tính năng và yêu cầu rất riêng về chất lượng. NGN còn đưa nhà khai thác viễn thông gần hơn với khách hàng doanh nghiệp (DN), biến những đòi hỏi phức tạp và yêu cầu rất cao thành những giải pháp sẵn có và mềm dẻo. Một vấn đề quan trọng khác tính mềm dẻo và khả năng phân tán kiểm soát của NGN có thể làm cho nhiều người trên thị trường trở thành nhà bán lại dịch vụ; các nhà bán lại dịch vụ này chính là khách hàng mua buôn của nhà khai thác.

Vậy nhà khai thác sẽ phân định ranh giới với “khách hàng” ở điểm nào, sẽ dành cho họ mức độ linh hoạt ra sao để vừa thỏa mãn được khách hàng mà vẫn giữ được quyền kiểm soát và mức lợi nhuận đủ hấp dẫn? Tại Việt Nam khi mà các đối thủ cạnh tranh tiềm năng đến từ bên ngoài ngành viễn thông chưa đủ mạnh, thì lợi thế nghiêng nhiều hơn về các nhà khai thác viễn thông.

3.3.2. Marketing dịch vụ

Một số khía cạnh marketing dịch vụ NGN sẽ được phân tích như sau:

Về phát triển dịch vụ: Từ cách đặt vấn đề, NGN sẽ có khả năng rất lớn để cung cấp các dịch vụ sáng tạo. Tuy nhiên, thế giới mới chỉ đưa ra dự báo về xu hướng phát triển dịch vụ và những đòi hỏi cần có của chúng; và hiện chưa biết dịch vụ nào sẽ đắt khách, sẽ là động lực cho sự phát triển của NGN. Trong trường hợp này, người phát triển dịch vụ đứng trước mặt trái của quyền được lựa chọn, đó là: không biết chọn gì. Tuy nhiên, việc bứt phá khỏi khuôn mẫu dịch vụ cũ, tư duy hướng khách hàng và dám thử nghiệm sẽ là những điều cần thiết để tận dụng cơ hội phát triển dịch vụ từ NGN. Một điều chắc chắn và dễ nhận ra đó là việc gộp các dịch vụ lại thành những gói dịch vụ hội tụ, giữa cố định - di động - nội dung - dữ liệu, sẽ là một cơ hội để bán kèm dịch vụ và tạo rào cản thay đổi nhà cung cấp.

Về định giá: NGN có lợi thế là khả năng tính cước mạnh và mềm dẻo. Tuy nhiên, do mô hình kinh doanh trên NGN vẫn dựa trên hiệu ứng mạng (network effect) - “càng đông càng vui” - nên trước tiên là phải định giá nhằm mở rộng thị trường, nhanh chóng đạt quy mô đủ lớn. Hiệu ứng mạng sẽ biến kẻ lớn mạnh thành lớn mạnh hơn và kẻ yếu thành yếu hơn; điều này đồng thời tạo ra cả thách thức và cơ hội cho nhà cung cấp dịch vụ NGN. Điều dễ nhận thấy là giá cước sẽ phải tính theo gói vì NGN là mạng đa truy nhập và đa dịch vụ; như vậy cũng phù hợp với xu hướng hội tụ.

Về bán hàng và phân phối: NGN sẽ thách thức nhà cung cấp với khái niệm khách hàng và kênh phân phối. Khách hàng không chỉ phân biệt giữa cá nhân và DN; và kênh phân phối sẽ có nhiều biến đổi, chủ yếu là ngắn lại. Một đối tượng khách hàng “hiếu chiến” nhất đó là các DN viễn thông hoặc các nhà bán lại dịch vụ. Đối tượng khách hàng này có doanh số mua lớn, nhưng lại luôn tìm cách mở rộng vai trò trong chuỗi giá trị, và thực tế là muốn lấn át nhà khai thác. Kênh bán hàng cho đối tượng này cũng hết sức chuyên biệt. Tuy vậy, ngay trong mô hình kinh doanh cũ, đến 80% lợi nhuận của các khách hàng này lại chảy về nhà khai thác mạng. Do đó, việc cạnh tranh và hợp tác cũng như phát triển quan hệ hai chiều là rất cần thiết. Đối tượng khách hàng đáng nói tiếp theo đó là các đối tác cùng kinh doanh; đó là các nhà cung cấp nội dung thông tin, cung cấp các dịch vụ kết hợp trong gói dịch vụ hội tụ… Đối tượng này về cơ bản đem lại cơ hội cùng thắng (win-win) và sẽ được tận dụng bằng các hoạt động cùng tiếp thị (co-marketing).

Về chăm sóc khách hàng (CSKH): Một trong những đặc điểm của NGN đó là: công nghệ ngày càng hội tụ, nhưng khách hàng ngày càng phân ly/tán. Khả năng truy nhập không hạn chế và cá thể hóa mềm dẻo chính là lý do của hiện tượng này. Ngoài ra, công nghệ và đặc tính dịch vụ đã trở nên tinh vi và khó sử dụng hơn. Do đó việc thông tin, CSKH là một thách thức lớn. Quá trình CSKH đòi hỏi nhiều thông tin, và thông tin cá thể hóa nhiều hơn. Tuy nhiên, NGN lại có khả năng thu thập rất nhiều thông tin từ khách hàng, đặc biệt là mô thức sử dụng. Do đó, nguồn thông tin từ CSKH là rất có giá trị. Bản thân việc quản lý và khai thác thông tin khách hàng trên NGN cũng là một dạng kinh doanh đầy tiềm năng. Như đã nói trên đây, hiện cả thế giới vẫn đang đi tìm các dịch vụ ăn khách, tìm kiếm mô hình kinh doanh phù hợp, và nói một cách khác, các nhà khai thác đang “thử nghiệm trên khách hàng”; do đó quá trình chăm sóc, quan sát khách hàng đem lại nhiều lợi ích cho kinh doanh trên NGN.

2.3.3. Thay đổi về tổ chức

Chuyển đổi sang NGN sẽ kéo theo những thay đổi sâu sắc về mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh của nhà khai thác viễn thông.

Đầu tiên có thể nhận thấy là số người cần thiết để vận hành mạng NGN sẽ giảm mạnh. Nhiều nhà tư vấn cho rằng họ có thể giảm đến 60% chi phí nhân công vận hành mạng khi chuyển sang NGN. Tuy nhiên, việc làm và nhân sự luôn là một vấn đề nan giải cho mọi cuộc cải cách mà NGN không phải là ngoại lệ; và điều này vừa là cơ hội, vừa là thách thức với nhà khai thác.

Khả năng mở rộng, lấn sân sang các lĩnh vực kinh doanh mới sẽ kéo theo việc hình thành những người lao động mới, với chuyên ngành mới. Ngoài ra, khi chuỗi giá trị dịch vụ viễn thông trên NGN thay đổi, quy trình cung cấp dịch vụ, mô hình tổ chức cũng phải thay đổi theo. Việc hình thành những đối tượng khách hàng mới, có mức độ ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận như khách hàng là các nhà khai thác khác, là nhà bán lại dịch vụ…sẽ thúc đẩy hình thành các bộ phận bán buôn, các nhân viên quản lý khách hàng lớn chuyên quản (account manager).

Sự hội tụ về công nghệ, dịch vụ cũng thúc đẩy quá trình hội tụ về mô hình khai thác và bán hàng. Xu hướng “riêng và rõ” các dịch vụ như trước đây không còn phù hợp. Quá trình hội tụ không nhất thiết phải bắt đầu bằng hội tụ công nghệ, mà, đôi khi chỉ đơn giản là sự hội tụ về hành động, về khai thác hoặc mục tiêu kinh doanh.

Xu hướng “hội tụ” cố định - di động ở thị trường viễn thông vào loại lớn nhất thế giới là Trung Quốc là một ví dụ. Những vụ “hội tụ” thuần túy về kinh doanh đang diễn ra mạnh mẽ với quy mô lớn: China Mobile với China Tietong, China Unicom (GSM) với China Netcom và China Telecom với China Unicom (CDMA). Tương tự như vậy, ở Việt Nam, Nga, Pháp, Hàn Quốc… đều có việc tái cấu trúc các nhà khai thác viễn thông. Quá trình “hội tụ” thông qua sáp nhập, mua lại như trên có ảnh hưởng lớn về tổ chức, con người và hệ thống kinh doanh khai thác. Với quá trình “hội tụ thực sự” trên NGN thì thì việc tổ chức kinh doanh của nhà khai thác sẽ hoàn toàn khác

Tất cả những sự thay đổi này đều nhằm mục đích tận dụng cơ hội; tuy nhiên thách thức luôn nằm ở phương pháp và hiệu quả thực hiện.

4. Kết luận

Bất cứ sự thay đổi nào cũng ẩn chứa cơ hội và thách thức. Chuyển đổi sang mạng NGN trên nền IP thậm chí còn nhiều thách thức hơn vì đây là sự thay đổi toàn diện về hệ thống của mạng PSTN được phát triển và khai thác suốt trong nhiều thập kỷ qua. Từ góc nhìn khác, mạng NGN mới sở hữu những tính năng vượt trội phù hợp với xu hướng phát triển của ngành công nghiệp thông tin và truyền thông, là nền móng vững chắc cho cạnh tranh và kinh doanh sáng tạo trong thế giới thương mại tự do và toàn cầu hóa hiện nay và tương lai. Nhà khai thác viễn thông đứng trước quyết định chuyển đổi cần phải có cái nhìn toàn diện và sâu rộng về các cơ hội cũng như thách thức của việc triển khai NGN. Mục đích của bài viết này là chỉ ra và phân tích một số thách thức và cơ hội, với mong muốn cung cấp thêm thông tin, hỗ trợ nhà khai thác viễn thông ra quyết định khi triển khai NGN.

Tài liệu tham khảo

[1]. T. Cohen, Next Generation Networks (NGN) Regulation Overview, Global Symposium for Regulators, Dubai, UAE, 5-7 February, 2007.

[2]. K. Knightson, N. Morita, T. Towle, NGN Architecture: Generic Principles, Functional Architecture, and Implementation, IEEE Communications Magazine, October 2005.

[3]. C. Lee, D. Knight, Realization of the Next-Generation Network, IEEE Communications Magazine, October 2005.

[4]. T-Systems, Next Generation Network: Motivation and Challenges for Incumbents, White Paper.

[5]. I. Jenkins, NGN Control Plane Overload and its Management, MSF-TR-ARCH-007-FINAL, MultiService Forum, February 2006.

[6]. P. Dailey, The Softswitch – Driving a New Vision of Communication as the Central Element in the Next-Generation Network, Frost & Sullivant.

[7]. IMS & the Future of Softswitches in Next-Gen Network, Heavy Reading, Vol. 4, No. 19, December 2006.

[8]. S. Marcus, Interconnection in an NGN Environment, ITU Background Paper, NGN/02, 23 March 2006.

[9]. ITU-T Recommendations Y.2001, General Overview of NGN, December 2004.

[10]  N. Morita, H. Imanaka, O. Kamatani, T. Oba, K. Tanida, Overview and Status of NGN Standardization Activities at ITU-T, NTT Technical Review.

[11]. International Telecommunication Union, http://www.itu.org

[12]. TISPAN, http://www.tispan.org

[13]. I. Gronbaek, NGN, IMS and Service Control – Collected Information, Telenor R&I Research Note, R&I N 31/2006.

Pháp luật giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam và một số nước trên thế giới (Bài 4)

Dương Quốc Huy, Nguyễn Thúy Quỳnh, Trần Hoài Văn

 1. Về cơ quan giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông

Cùng với những quy định trong Luật Cạnh tranh, Bộ luật tố tụng dân sự, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003, Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông (BCVT) và những văn bản hướng dẫn thi hành. Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam bao gồm: Tòa án, Trọng tài thương mại, Cơ quan quản lý (CQQL) cạnh tranh, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT). Tương ứng với bốn cơ quan này là bốn hình thức giải quyết tranh chấp: (1) Khởi kiện lên toà án giải quyết theo trinh tự tố tụng dân sự; (2) Yêu cầu trọng tài thương mại giải quyết; (3) Khiếu nại lên cơ quan giải quyết cạnh tranh; (4) Hiệp thương, giải quyết tranh chấp tại Bộ TT&TT.

Trong bốn cơ quan nêu trên, để đảm bảo tính độc lập, khách quan, chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết, thì Tòa án và Trọng tài thương mại là hai cơ quan đáp ứng được yêu cầu. Bộ TT&TT vừa là cơ quan hoạch định chính sách vừa là cơ quan thực thi chính sách. Còn với CQQL cạnh tranh (Hội đồng cạnh tranh, Cục quản lý cạnh tranh), là đơn vị chức năng thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương), do Thủ tướng quyết định thành lập, trên cơ sở đề xuất của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Vấn đề đặt ra là, hiện nay tại Việt Nam, cơ quan có đủ sự độc lập, khách quan về mặt tổ chức, nhân sự lại không có khả năng, kinh nghiệm và trình tự, thủ tục hợp lý để giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông, trong khi tổ chức hội tụ đủ hai yếu tố đó lại không độc lập khách quan về tổ chức, nhân sự.

Ảnh minh họa: zoriah

Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, mặc dù có thể là Tòa án, Trọng tài, CQQL cạnh tranh hay CQQL hành chính về Viễn thông có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kết nối, nhưng các cơ quan này, nhìn chung đều là những cơ quan có địa vị pháp lý cao, độc lập về tổ chức, tài chính và nhân sự. Tại Pháp, thẩm quyền giải quyết tranh chấp kết nối được trao cho một CQQL độc lập gọi là CQQL Viễn thông (ART). Ở Anh, Văn phòng quốc gia về Viễn thông (Oftel) là bộ máy tự trị được hỗ trợ tài chính bởi Phòng Thương mại và Công nghiệp (DTI), đồng thời cũng đảm trách luôn nhiệm vụ giải quyết tranh chấp kết nối. Bộ Quan hệ Công cộng và Viễn thông (Ministry of Internal Affair and Communications – MIC) là cơ quan giải quyết tranh chấp kết nối tại Nhật Bản. Tại Ấn Độ, trước năm 2000, cơ quan giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông được trao cho TRAI (Telecom Regulatory Authority of India) - CQQL hành chính trong lĩnh vực Viễn thông, sau năm 2000 quyền phán xét thuộc về một tòa án độc lập viết tắt là TDSAT (Telecom Dispute Settlement & Appellate Trubunal). Đối với Australia, Ủy ban Người tiêu dùng và Tranh chấp Australia (ACCC) là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông. Ủy ban này được Quốc hội duyệt kinh phí hoạt động hàng năm. Riêng Trọng tài, hầu hết các quốc gia đều cho phép tham gia giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông. Cùng với trung gian hòa giải (mediation), trọng tài được các quốc gia coi như một trong những cơ quan giải quyết mang tính bổ sung, thay thế (Alternative dispute revolution-ADR) hoặc kết hợp với cơ quan quản lý hành chính như trường hợp của Guantemala hay Singapore (đối với những tranh chấp kết nối không liên quan đến nhà cung cấp chủ đạo, Sigapore có thể coi như hợp đồng kinh tế, dân sự thông thường để giải quyết tại Tòa án hay trọng tài).

2. Về nhân lực tham gia giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông

Ngoài Bộ TT&TT, tất cả những cơ quan còn lại đều thiếu nhân lực đủ trình độ giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông, đặc biệt là kiến thức, kinh nghiệm về công nghệ thông tin và Viễn thông như: Thẩm phán, Kiểm sát viên, Trọng tài viên, Điều tra viên, người tiến hành tố tụng khác. Trong khi, nếu tòa cấp Huyện cũng có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp kết nối Viễn thông như hiện nay, thì chúng ta cần đến một số lượng tương đối thẩm phán chuyên xét xử về tranh chấp kết nối Viễn thông. Ngay các chuyên gia được giao nhiệm vụ giải quyết tranh chấp kết nối tại Bộ TT&TT, ngoài chuyên môn Viễn thông vững vàng, kiến thức pháp lý cơ bản cũng rất cần thiết. Ở đây, điều chúng tôi muốn bàn tới là, chúng ta đang thiếu những quy định liên quan đến tiêu chuẩn của nhân lực làm công tác giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông.

Tại Ấn Độ, tiêu chuẩn để một người được chọn vào phục vụ trong cơ quan giải quyết tranh chấp Viễn thông TDSAT phải là thẩm phán có kinh nghiệm (đương chức hoặc đã nghỉ hưu) tại Tòa tối cao liên bang hoặc chánh tòa Bang (đối với Chủ tịch), những cựu quan chức cấp cao trong chính phủ, có kiến thức và kinh nghiệm đồng thời trong lĩnh vực công nghệ Viễn thông, hành chính, thương mại và công nghiệp (đối với những thành viên còn lại).

Tại Australia, trong cơ cấu của ACCC có một nhóm chuyên gia về pháp luật và công nghệ Viễn thông (ACCC’s Telecommunication and legal group). Nhóm này chịu trách nhiệm hỗ trợ trực tiếp cho các Ủy viên (Commmisioners) trong việc điều tra, xác minh vụ việc và ra quyết định giải quyết. Tại Mỹ, trọng tài viên tham gia giải quyết phải là chuyên gia có kinh nghiệp về Viễn thông và am hiểu thủ tục giải quyết trọng tài của AAA, đồng thời đảm bảo tính độc lập, khách quan trong quá trình giải quyết.

Như vậy, yêu cầu chung về trình độ nhân lực tham gia giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông phải đảm bảo hai yếu tố tối thiểu, hiểu biết về Viễn thông và kết nối Viễn thông, nhưng cũng phải thông thạo những kiến thức pháp lý. Đây là đòi hỏi tất yếu khách quan tại Việt Nam, đặc biệt khi chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa Hội nhập như hiện nay với sự xuất hiện ngày càng phổ biết hơn các doanh nghiệp Viễn thông 100% vốn đầu tư nước ngoài.

3. Về thời hạn giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông

Trong lĩnh vực Viễn thông, kết nối mạng lưới là một trong những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cũng như tính liên tục, thông suốt của thông tin liên lạc. Đảm bảo sự thông suốt trong liên lạc Viễn thông một mặt bảo vệ quyền lợi chính đáng của người sử dụng (NSD), mặt khác còn liên quan mật thiết đến đời sống kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng của một quốc gia. Chính vì vậy, việc giải quyết tranh chấp phải đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời.

Về vấn đề này, trên thế giới hiện có hai xu hướng, xu hướng thứ nhất quy định rõ thời hạn tối đa để kết thúc giải quyết tranh chấp. Thời gian này là 6 tháng ở Pháp, 2-5 tháng ở Phần Lan, 10 tuần ở Đức, Tây Ban Nha là 6 tháng, Ấn Độ không quá 90 ngày .v.v… Xu hướng thứ hai, trao quyền ấn định thời gian giải quyết cho chính cơ quan có thẩm quyền giải quyết, điển hình cho xu hướng này là Australia. Tại Australia, ACCC được quyền quyết định tiến độ giải quyết trên cơ sở công bằng và hợp lý với từng vụ việc cụ thể.  

4. Về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông

Hiện nay, tại Việt Nam đang đồng thời tồn tại bốn trình tự, thủ tục có thể được áp dụng để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông, bao gồm: Tố tụng dân sự, tố tụng trọng tài thương mại, tố tụng cạnh tranh và thủ tục giải quyết quy định tại Pháp lệnh BCVT, Nghị định 160/2004/NĐ-CP và Quyết định 12/2006/QĐ-BBCVT. Điều này tạo ra sự đa dạng trong việc lựa chọn cách giải quyết, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các bên, mặc dù trên thực tế, chỉ có duy nhất trình tự quy định tại Nghị định 160/2004/NĐ-CP và Quyết định 12/QĐ-BBCVT được áp dụng giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông thời gian qua. Tuy nhiên, sự đa dạng về thủ tục cũng đặt ra một số vấn đề:

Thứ nhất, chúng ta cần một số lượng lớn những trọng tài viên, người tiến hành tố tụng có hiểu biết chuyên sâu về kêt nối và tranh chấp kết nối Viễn thông bên cạnh kiến thức pháp luật vững vàng. Điều này không thể thực hiện trong ngày một, ngày hai. Cử cán bộ đi đào tạo, thực tập tại nước ngoài hoặc một số công ty luật lớn, có uy tín trên thế giới trong lĩnh vực giải quyết, tư vấn về kết nối cũng là một giải pháp. Chủ trương và cũng là xu hướng phát triển của nhiều nước hiện nay trên thế giới là chỉ cấp phép một số lượng hạn chế các nhà cung cấp hạ tầng mạng, điều đó có nghĩa là số lượng những vụ tranh chấp kết nối thời gian tới chắc chắn sẽ còn tăng, nhưng cũng chắc chắn là không thể tăng quá nhiều. Thực tế này buộc chúng ta phải tính toán, cân nhắc kỹ liệu tập trung đầu tư vào một trình tự giải quyết hay vẫn để tồn tại cùng một lúc nhiều trình tự giải quyết như hiện nay. Cùng với sự tồn tại của nhiều trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, số lượng cơ quan có thẩm quyền giải quyết cũng phải được thành lập một cách tương ứng và như vậy thì kèm theo đó là trang thiết bị đặc thù và cơ sở vật chất v.v.

Trên thế giới hiện đang có hai trường phái tương đối rõ rệt trong việc xây dựng các văn bản pháp lý điều chỉnh quan hệ tranh chấp kết nối Viễn thông. Ở những quốc gia mạnh về đội ngũ nhân lực tham gia giải quyết các khía cạnh đặc thù có tính kỹ thuật cao của tranh chấp kết nối thì cho phép tồn tại cùng lúc nhiều trình tự pháp lý giải quyết khác nhau như: thương lượng, hoà giải, trọng tài, toà án, giải quyết thông qua CQQL.v.v... Điển hình cho nhóm quốc gia này là Anh, Mỹ và một số nước Bắc Mỹ khác.v.v… Nhưng cũng có quốc gia lựa chọn xu hướng ngược lại, đó là thành lập một cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông, điển hình cho xu hướng này là Singapore, Australia, Ấn Độ.v.v… Thực tế là, với đặc thù mang nặng chất công nghệ cao của tranh chấp kết nối, chỉ những chủ thể có đội ngũ nhân lực mạnh về kiến thức công nghệ, theo một trình tự, thủ tục đặc biệt mới đáp ứng được kỳ vọng của các bên trong tranh chấp.

Thứ hai, có hay không sự ưu tiên áp dụng một trong những trình tự này trước trình tự kia? Trên thực tế, xuất hiện không ít quan điểm cho rằng, trình tự giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông quy định trong Pháp lệnh BCVT là trình tự đầu tiên được ưu tiên áp dụng trong giải quyết tranh chấp kết nối. Thậm chí, có ý kiến cho rằng đây là trình tự duy nhất tại Việt Nam có thể áp dụng để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông. Rõ ràng là còn có nhiều cách hiểu không thống nhất, và nguyên nhân một phần được cho là do có nhiều trình tự giải quyết tranh chấp cùng môt lúc đều có khả năng điều chỉnh, trong khi giữa các Văn bản pháp luật không có quy định rõ về mối quan hệ này.

Thứ ba, đặc thù trong lĩnh vực Viễn thông đòi hỏi phải có những trình tự, thủ tục đặc biệt, không áp dụng chung với các tranh chấp thương mại thông thường. Việc áp dụng chung cả Tố tụng dân sự, tố tụng cạnh tranh sẽ dẫn đến những bất hợp lý. Ví dụ như:

- Trong tố tụng cạnh tranh, tố tụng dân sự có những quy định cho phép CQQL cạnh tranh chuyển hồ sơ đến cơ quan điều tra để xử lý hình sự nếu phát hiện thấy dấu hiệu tội phạm trong vụ tranh chấp đồng thời, bên vi phạm luôn đối mặt với nguy cơ bị xứ lý hành chính. Có thể những quy định này là phù hợp với các DN kinh doanh thương mại khác, nhưng trong lĩnh vực Viễn thông, những quy định như vậy, một mặt gây tâm lý e ngại cho các DN Viễn thông, mặt khác dẫn đến tình trạng “sứt mẻ”, thậm chí cắt đứt hẳn quan hệ giữa các bên tranh chấp kết nối, do đó không phù hợp với mục tiêu cần đạt được trong việc giải quyết tranh chấp kết nối, đó là: Hai bên hiểu biết và phối hợp, tạo điều kiện cho nhau một cách chặt chẽ hơn để đảm bảo tính thông suốt của thông tin liên lạc, bảo vệ quyền lợi chính đáng của NSD dịch vụ. 

- Theo quy định của Luật Cạnh tranh, Bộ luật tố tụng dân sự, những phần Quyết định giải quyết tranh chấp chưa có hiệu lực hoặc bị khiếu nại thì chưa được thi hành. Quy định này không phù hợp với lĩnh vực Viễn thông. Trong lĩnh vực Viễn thông, trước tiên phải đảm bảo liên lạc thông suốt, không bị gián đoạn, ngay kể cả trong giai đoạn giải quyết tranh chấp nguyên tắc này cũng không được phá vỡ. Quy định như Luật Cạnh tranh trên đây sẽ không đảm bảo được nguyên tắc kể trên.

- Nhiều chế tài xử phạt hành chính trong Luật cạnh tranh không phù hợp trong lĩnh vực Viễn thông như: Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; Tịch thu tang vật, phương tiện được dùng để vi phạm pháp luật cạnh tranh, thu hồi giấy phép .v.v…Việc tịch thu một tổng đài điện thoại, một hệ thống mạng lưới truyền dẫn giữa tổng đài và NSD trong một khu vực nào đó là điều không thể. Hơn nữa, để cơ cấu lại DN lớn trong lĩnh vực Viễn thông như VNPT không chỉ đơn giản thông qua một phán quyết của Cơ CQQL cạnh tranh. Đây là chiến lược của Quốc gia, liên quan mật thiết tới toàn bộ nền kinh tế cũng như an ninh, quốc phòng.

Kinh nghiệm một số nước cho thấy, bên cạnh tố tụng trọng tài, dân sự, cạnh tranh dành cho những tranh chấp thương mại thông thường, để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông, các nước thường xây dựng một trình tự, thủ tục đặc thù riêng.

Tại Mỹ, Hiệp hội trọng tài (AAA) và Hiệp hội Viễn thông, Internet (CTIA) đã cùng nhau xây dựng trình tự, thủ tục giải quyết riêng cho tranh chấp kết nối Viễn thông. Thủ tục giải quyết của AAA với tranh chấp kết nối Viễn thông chia làm 3 loại: 1/ Regular Track Procedures (áp dụng cho những vụ tranh chấp có trị giá từ 2000 usd -500,000usd); 2/ Fast Track Procedures (áp dụng cho những vụ tranh chấp có trị giá dưới USD 2,000); 3/ Large/Complex Case Track Procedures (áp dụng cho những vụ tranh chấp có trị giá dưới ít nhất từ USD 500,000). Mỗi loại này khác nhau về trình tự giải quyết, về trọng tài viên về việc xem xét lại phán quyết và về thời gian giải quyết.v.v…

Jordan cũng có những quy định tương tự trong pháp luật của mình. Năm 2003, Ủy ban quản lý Viễn thông Jordan (TRC) đã thông qua đạo luật giải quyết tranh chấp kết nối. Nhưng, thay vì quy định trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, đạo luật này lại nhằm đến những quy định hướng dẫn các bên tiến hành thỏa thuận bằng việc ban hành văn bản hướng dẫn: “Guidelines for negotiations between the parties or disputants in the dispute to propose a solution himself or by means of a mediator or persons appointed for this purpose..”. Theo quy định pháp luật Jordan, việc các bên tự thỏa thuận giải quyết tranh chấp kết nối trước khi trình vụ việc lên TRC là một thủ tục bắt buộc và trước khi thụ lý, TRC phải chắc chắn rằng, các bên đã qua thủ tục thỏa thuận này. Luật Jordan cũng quy định rõ việc cho phép các bên lựa chọn trọng tài thay vì TRC để giải quyết tranh chấp. Trường hợp vụ việc được trình lên TRC, TRC có thể sẽ ủy quyền, chỉ định cho một bên trung gian như chuyên gia, trọng tài khác để giải quyết vụ việc và chi phí này sẽ do các bên tự gánh chịu1. Tại Ấn Độ, Tòa án giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông (TDSAT) có đầy đủ thẩm quyền của một tòa án dân sự như lại không buộc phải tuân theo mọi trình tự, thủ tục chặt chẽ và dài dòng của Tòa dân sự mà chỉ phải tuân theo luật hợp lý, tự nhiên2.

Tại Australia, Quy trình giải quyết được quy định trong Trade Practice Act 1974 (sửa đổi năm 1997) và được bổ sung bằng Telecommunication Act 1997 và Telecommunication  Competition Act 2002. Trên cơ sở những đạo luật trên, ACCC ban hành những hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục để giải quyết một vụ tranh chấp Viễn thông. Theo đó, quy trình giải quyết được chia ra làm 3 giai đoạn. Trong giai đoạn thứ nhất (Preliminary phase), ACCC sẽ xác định những vấn đề nào là vấn đề trọng tâm của tranh chấp, bên tranh chấp bao gồm những ai, tìm kiếm, lựa chọn bên thứ ba hỗ trợ, tìm kiếm chuyên gia tư vấn thích hợp.v.v…Giai đoạn thứ hai (Substantive phase) ACCC bắt tay vào  xem xét từng vấn đề trong tranh chấp, tìm kiếm thông tin, kể cả thông tin do các bên cung cấp, tìm kiếm tư vấn của các chuyên gia.v.v…Giai đoạn cuối cùng (Determination phase): ACCC sẽ đưa ra quyết định giải quyết vụ việc. ACCC được giao toàn quyền trong việc quyết định thời gian giải quyết đối với từng vụ tranh chấp cụ thể trên cơ sở công bằng và hợp lý nhưng không quá 10 tuần. Quyết định giải quyết của ACCC có thể được xem xét lại nếu một trong các bên tranh chấp có đơn yêu cầu Tòa cạnh tranh liên bang (Australia Competition Tribunal) xem xét lại. Thời gian nộp đơn yêu cầu là trong vòng 21 ngày kể từ ngày có Quyết định giải quyết của ACCC. Tòa cạnh tranh quốc gia có thể xem xét và giải quyết lại vụ việc như ACCC. Ngoài ra, Quyết định của ACCC còn có thể bị kiện lên Tóa án liên bang trong vòng 28 ngày kể từ ngày có Quyết định của ACCC để được xem xét lại theo trình tự quy định tại Administrative Decision Act 1977. Tòa án liên bang không giải quyết lại vụ việc, chỉ xem xét quyết định của ACCC có tuân thủ đúng quy trình pháp lý hay không. 

Tại Việt Nam, hiện nay, thủ tục giải quyết tranh chấp trong Pháp lệnh BCVT, Nghị định 160/2004/NĐ-CP và Quyết định 12/QĐ-BBCVT được coi là thủ tục hợp lý nhất và cũng được các DN Viễn thông áp dụng nhiều nhất trên thực tiễn.

 

1 (ITU Jordan Mini Case Study 2003: Dispute Resolution and Consensus Building in Interconnection at http://www.itu.int/ITU-D/treg/Case_Studies/Disp-Resolution/Jordan.pdf).

2 (Tham khảo bài phát biểu của Mr. Justice D.P.Wadhaw, Chủ tịch của TDSAT ngày 2 tháng 12 năm 2004 tại Hội thảo khu vực châu Âu về giải quyết tranh chấp tổ chức tại Geneva).

Tài liệu tham khảo

[1]. Resolution of telecommunication access disputes - a guide, March 2004, Australia Compatative and Comsumer Commmision

[2]. ITU Jordan Mini Case Study 2003: Dispute Resolution and Consensus Building in Interconnection at http://www.itu.int/ITU-D/treg/Case_Studies/Disp-Resolution/Jordan.pdf.

[3]. Bài phát biểu của Mr. Justice D.P.Wadhaw, Chủ tịch của TDSAT ngày 2 tháng 12 năm 2004 tại Hội thảo khu vực châu Âu về giải quyết tranh chấp tổ chức tại Geneva).

[4]. Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003

[5]. Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2005.

[6]. Luật cạnh tranh năm 2005

[7]. Pháp lệnh Bưu chính viễn thông và các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh.

[8]. Pháp luật Viễn thông các nước: Australia, Anh, Mỹ, Canada.

[9]. Pháp luật kết nối Viễn thông Australia, Mỹ, Botswana, Phần Lan, Đức, Tây Ban Nha, Guantemala, Sigapore.

[10]. Dispute Resolution in the Telecommunications Sector: Current Practices and Future Directions, ITU-World Bank, 2004.

[11]. Reflections on Regulation and Dispute Resolution in the Indian Telecommunication Sector, Rory Mac Millan, Journal of the Indian Law Institute, Vol. 47:1 (2005).

[12]. Ban Giá cước – VNPT, Đề tài Khoa học cấp Tổng Công ty: “Xây dựng nội dung, quy trình đàm phán và mẫu thoả thuận cung cấp dịch vụ Viễn thông giữa Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam và các doanh nghiệp khác

 

Pháp luật giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam hiện nay (Bài 3)

Dương Quốc Huy, Nguyễn Thúy Quỳnh, Trần Hoài Văn

 - Về hình thức trọng tài

Các bên trong tranh chấp kết nối Viễn thông có thể lựa chọn Trọng tài vụ việc (ad-hoc) hoặc Trọng tài thường trực (hoạt động thường xuyên). Điều 19, Pháp lệnh quy định: “Các bên có quyền lựa chọn Trung tâm Trọng tài hoặc Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo quy định về tố tụng trọng tài của trung tâm này”. Hình thức trọng tài ad-hoc khá đơn giản, thời gian tiến hành tố tụng có thể nhanh chóng và ít tốn kém, phù hợp với tranh chấp nhỏ, giữa các bên đương sự có am hiểu về luật pháp, dày dạn trên thương trường và có kinh nghiệm tranh tụng và không bị giới hạn về phạm vi lựa chọn trọng tài viên. Bên cạnh trọng tài ad-hoc, còn có loại hình trọng tài thường trực. Xét về bản chất, trọng tài thường trực là sự pha trộn giữa toà án và trọng tài vụ việc. Cũng được quyền lựa chọn trọng tài viên như trọng tài vụ việc nhưng các DN Viễn thông chỉ được lựa chọn trong danh sách có sẵn của Trung tâm trọng tài (Điều 25, Pháp lệnh trọng tài thương mại). Mặt khác đối với trọng tài thường trực các DN Viễn thông buộc phải tuân theo các quy chế xét xử của từng Trung tâm  trọng tài.

Ảnh minh họa: telecoms.com

Để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông bằng trọng tài, các bên phải tuân theo trình tự, thủ tục sau đây:

Bước 1: Nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi Trung tâm trọng tài. Kèm theo đơn kiện là bản chính hoặc bản sao thoả thuận trọng tài, bản chính bản sao các tài liệu chứng cứ, bản sao phải có chứng thực hợp lệ.

Bước 2: Trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện của nguyên đơn và những tài liệu chứng cứ kèm theo mà nguyên đơn đã gửi (trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ khi nhận được đơn kiện).

Bước 3: Bị đơn gửi cho Trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ (Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn kiện và các tài liệu có liên quan).

Bước 4: Nguyên đơn phải nộp tạm ứng phí trọng tài, nếu các bên không có thoả thuận khác. Bước 5: Thành lập hội đồng trọng tài và lựa chọn trọng tài viên.

Bước 6: Giải quyết vụ việc.

Trọng tài viên có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, ngoài ra có thể nghe các bên trình bày ý kiến, yêu cầu các bên cung cấp chứng cứ, các bằng chứng và tài liệu khác có liên quan hoặc cũng có thể tìm hiểu sự việc từ người thứ ba. Trong trường hợp cần thiết, hội đồng trọng tài có thể tự mình thu thập chứng cứ, mời giám định theo yêu cầu của một hoặc các bên (Điều 31, 32 Pháp lệnh). Trong quá trình hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của các bên bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn đến toà án cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 33, Pháp lệnh). Ngoài ra, trong quá trình tố tụng, các bên cũng có thể tự tiến hành hoà giải hoặc yêu cầu hội đồng trọng tài tiến hành hoà giải, nếu hoà giải thành thì chấm dứt quá trình tố tụng (Điều 37 Pháp lệnh).

Phiên họp giải quyết tranh chấp là nơi diễn ra quá trình tranh tụng, theo đó các bên tranh chấp phải phát biểu và trả lời các câu hỏi của hội đồng trọng tài. Phiên họp giải quyết tranh chấp không công khai, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Các bên có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền mời nhân chứng, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự phiên họp. Trường hợp được các bên yêu cầu, hội đồng trọng tài có thể căn cứ vào hồ sơ để giải quyết tranh chấp mà không cần sự có mặt của các bên. Hội đồng trọng tài phải lập biên bản phiên họp giải quyết tranh chấp, đây là văn bản ghi nhận tiến trình của thủ tục trọng tài, cũng như nội dung của quá trình tranh luận (Điều 38, 39, 40, 43 Pháp lệnh). Hội đồng trọng tài phải đảm bảo đủ thời gian để tranh luận, các bên có thể trình bày quan điểm và đưa ra chứng cứ chứng minh cho lập luận của mình. Hội đồng trọng tài có thể đặt câu hỏi để làm rõ một số điểm. Phiên họp giải quyết tranh chấp là một thủ tục bắt buộc của quá trình tố tụng. Vì vậy, việc hội đồng trọng tài từ chối tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp có thể bị coi như sự vi phạm quy tắc giải quyết và có thể dẫn đến việc toà án từ chối công nhận hoặc thi hành quyết định trọng tài.

Quyết định trọng tài là quyết định do hội đồng trọng tài đưa ra để giải quyết mâu thuẫn trong vụ tranh chấp. Quyết định trọng tài được lập theo nguyên tắc đa số (trừ trường hợp do trọng tài viên duy nhất giải quyết). Quyết định trọng tài có thể được công bố ngay tại phiên họp cuối cùng hoặc sau đó, nhưng chậm nhất là 60 ngày, kể từ ngày kết thúc phiên họp cuối cùng (Điều 45 Pháp lệnh).

Thi hành quyết định trọng tài: Khoản 1, Điều 57 Pháp lệnh quy định, sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài, nếu một bên không tự nguyện thi hành, cũng không yêu cầu huỷ theo quy định tại Điều 50 của Pháp lệnh này, bên được thi hành quyết định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở của bên phải thi hành, thi hành quyết định trọng tài.

Một điểm cần lưu ý khi đưa vụ tranh chấp kết nối Viễn thông ra Trọng tài là quá trình giải quyết của Trọng tài có vai trò hỗ trợ và giám sát của Tòa án. Trọng tài vốn không phải là cơ quan tư pháp của nhà nước, nên không có thẩm quyền cưỡng chế. Vì vậy, nếu không có sự hỗ trợ của toà án, thì trọng tài nhất định không thể giải quyết tranh chấp tốt, thậm chí quyết định trọng tài cũng khó có thể thi hành được. Mặt khác, sự giám sát của toà án với tư cách là cơ quan công quyền đối với hoạt động trọng tài có thể làm cho các bên trong tranh chấp yên tâm hơn khi lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp. Hoạt động hỗ trợ của Toà án thể hiện ở một số mặt sau đây:

Thứ nhất, Toà án hỗ trợ trong việc thi hành thoả thuận trọng tài. Khi vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại toà án thì toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu (Điều 5 Pháp lệnh). Trong trường hợp sau khi thụ lý vụ án, toà án mới phát hiện được vụ tranh chấp đó các bên đã có thoả thuận trọng tài, thì toà án căn cứ vào quy định tương ứng của pháp luật tố tụng ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trả lại đơn kiện và các tài liệu gửi kèm theo cho đương sự (Nghị quyết 05/2003/NQ-HĐTP).

Thứ hai, Toà án hỗ trợ các bên trong việc lựa chọn trọng tài viên. Việc lựa chọn này là quyền của các bên. Tuy nhiên, không phải lúc nào các bên cũng có thể tự lựa chọn được hoặc cùng nhau thống nhất lựa chọn một trọng tài viên hay lựa chọn trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch hội đồng trọng tài. Trong những trường hợp như vậy, để các bên có thể thành lập hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp, thì sự hỗ trợ của toà án đối với các bên trong việc lựa chọn là hết sức cần thiết. Ngoài ra, trong quá trình tố tụng, các bên có yêu cầu thay đổi trọng tài viên và họ phải  từ chối giải quyết vụ tranh chấp trong các trường hợp do pháp luật quy định (khoản 1, Điều 27). Trong trường hợp không quyết định được hoặc nếu hai hay trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết thì đối với vụ tranh chấp do hội đồng trọng tài được các bên thành lập giải quyết, theo yêu cầu của nguyên đơn, toà án tỉnh nơi bị đơn có trụ sở quyết định và quyết định này là chung thẩm (Điểm b, Khoản 4 Điều 27, Pháp lệnh).

Thứ ba, Toà án xem xét lại quyết định của hội đồng trọng tài về tính hợp pháp của thoả thuận trọng tài, về thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp (Điều 30 Pháp lệnh). Trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau, không phải mọi thoả thuận trọng tài đều được thể hiện một cách chuẩn xác theo đúng các quy định của pháp luật, do đó các bên không tránh khỏi các tranh chấp phát sinh liên quan đến hiệu lực của thoả thuận trọng tài như tranh chấp không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu. Trong trường hợp đó, Toà án là cơ quan thực hiện nhiệm vụ giải quyết. Điều 30 Pháp lệnh, trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, nếu có đơn khiếu nại của một bên về việc hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp; vụ tranh chấp không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu, hội đồng trọng tài phải xem xét, quyết định với sự có mặt của các bên, trừ trường hợp các bên có yêu cầu khác. Trong trường hợp không đồng ý với quyết định của hội đồng trọng tài, trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định của hội đồng trọng tài, các bên có quyền yêu cầu toà án cấp tỉnh, nơi hội đồng trọng tài đã ra quyết định, xem xét lại quyết định của hội đồng trọng tài. Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, Chánh án toà án giao cho một Thẩm phán xem xét, giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 10, kể từ ngày được giao, Thẩm phán phải xem xét, quyết định.

Thứ tư, Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều 33, Pháp lệnh có quy định, trong quá trình hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các bên có quyền làm đơn đến toà án cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời như: Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ hoặc có nguy cơ bị tiêu huỷ; Kê biên tài sản tranh chấp; Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp; Cấm thay đổi kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ; Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ; Phong toả tài khoản tại ngân hàng.

Thứ năm, Toà án có quyền huỷ quyết định trọng tài. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trọng tài, nếu một trong các bên không đồng ý với quyết định trọng tài thì có quyền làm đơn gửi toà án cấp tỉnh, nơi hội đồng trọng tài ra quyết định trọng tài, yêu cầu huỷ quyết định trọng tài (Điều 50 Pháp lệnh). Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thụ lý, Chánh án toà án chỉ định một hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán, trong đó có một Thẩm phán làm chủ tọa và phải mở phiên toà xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài. Tòa án ra quyết định huỷ quyết định trọng tài, nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng hội đồng trọng tài đã ra quyết định trọng tài thuộc một trong các trường hợp sau: Không có thoả thuận trọng tài; Thoả thuận trọng tài vô hiệu theo quy định tại Điều 10 Pháp lệnh; Thành phần hội đồng trọng tài, tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên theo quy định của Pháp lệnh này; Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài; Bên yêu cầu chứng minh được trong quá trình giải quyết tranh chấp trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ pháp luật quy định; Quyết định trọng tài trái với lợi ích công cộng của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.

Thứ sáu, Toà án hỗ trợ trọng tài trong việc lưu giữ hồ sơ. Đối với việc giải quyết vụ tranh chấp do Trung tâm trọng tài tổ chức thì đương nhiên hồ sơ, quyết định trọng tài, biên bản hoà giải.v.v…được lưu trữ tại Trung tâm. Tuy nhiên, đối với hình thức trọng tài vụ việc, sau khi giải quyết tranh chấp, hội đồng trọng tài tự giải tán, vì vậy cần phải có một cơ quan lưu giữ hồ sơ của vụ tranh chấp này. Cơ quan đó chính là toà án cấp tỉnh, nơi hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết tranh chấp. Khoản 2, Điều 48 Pháp lệnh có quy định, đối với việc giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng tài do các bên thành lập, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày công bố quyết định trọng tài hoặc biên bản hoà giải, hội đồng trọng tài phải gửi quyết định trọng tài, biên bản hoà giải kèm theo hồ sơ giải quyết vụ tranh chấp cho toà án cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài ra quyết định trọng tài hoặc lập biên bản hoà giải để lưu trữ.

- Thi hành quyết định trọng tài về việc giải quyết vụ tranh chấp kết nối

Trọng tài là cơ quan tài phán phi chính phủ, các quyết định của trọng tài không nhân danh quyền lực nhà nước, vì vậy không đương nhiên được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Tuy nhiên, khi Nhà nước đã thừa nhận sự tồn tại của trọng tài thì Nhà nước cần phải có cơ chế bảo đảm việc thực thi các quyết định trọng tài.

Tại Việt Nam, Pháp lệnh trọng tài thương mại quy định, quyết định trọng tài không những có tính chất chung thẩm, mà còn được cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh cưỡng chế thi hành khi bên thua kiện không thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự nguyện, mà không cần phải thông qua thủ tục toà án phê chuẩn. Điều 57 Pháp lệnh quy định: “Sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài, nếu một bên không tự nguyện thi hành, cũng không yêu cầu huỷ theo quy định tại Điều 50 của Pháp lệnh, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết định trọng tài.” Như vậy, DN Viễn thông được thi hành quyết định giải quyết tranh chấp kết nối của Trọng tài có quyền yêu cầu thi hành án cấp tỉnh cưỡng chế thi hành.

Một số ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông bằng trọng tài đó là: Tính mềm dẻo trong việc giải quyết, sự đảm bảo bí mật kinh doanh, thời gian giải quyết được rút ngắn và đặc biệt là sau khi giải quyết các bên vẫn giữ được mối quan hệ tốt. Điều này phù hợp với một trong những đặc điểm nổi bật của tranh chấp kết nối Viễn thông so với tranh chấp thương mại thông thường: Tranh chấp để cùng tồn tại, hợp tác và phát triển. Tuy nhiên, cũng cùng chung tình trạng với Bộ luật tố tụng dân sự và Luật cạnh tranh, Pháp lệnh trọng tài thương mại, cho đến thời điểm này, chưa có vụ tranh chấp kết nối Viễn thông nào được đưa ra giải quyết tại Trọng tài.

4. Pháp lệnh BCVT và những văn bản hướng dẫn thi hành - Pháp luật chuyên ngành giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông

Pháp lệnh BCVT được Quốc Hội thông qua ngày 07/6/2002, là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất trong lĩnh vực Viễn thông hiện nay. Pháp lệnh BCVT không chỉ chứa đựng những quy định mang tính hình thức, mà bao gồm cả những quy định về nội dung kết nối. Thực tiễn giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông thời gian qua cho thấy, Pháp lệnh BCVT và Nghị định 160/2004/NĐ-CP là hai văn bản duy nhất được các bên áp dụng vào giải quyết tranh chấp phát sinh.

Liên quan đến trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kết nối mạng Viễn thông, Điểm c, Khoản 2, Điều 43, PL BCVT quy định: “Các DN Viễn thông tiến hành đàm phán, ký kết thoả thuận kết nối...; trường hợp các bên không đạt được thoả thuận kết nối theo thời hạn quy định hoặc có tranh chấp trong việc thực hiện thoả thuận kết nối, thể theo đề nghị của một trong các bên tham gia kết nối, CQQL nhà nước về BCVT tổ chức hiệp thương giữa các bên, nếu sau hiệp thương các bên vẫn không đạt được thoả thuận thì CQQL nhà nước về BCVT xem xét, quyết định”. Với tư cách là một thứ “hiến pháp” trong lĩnh vực Viễn thông, liên quan đến tranh chấp kết nối mạng Viễn thông, Pháp lệnh BCVT chỉ đưa ra những nguyên tắc chung về giải quyết tranh chấp mà không quy định cụ thể trình tự, thủ tục, do vậy, việc áp dụng vào vụ tranh chấp là không thực tế.

Để chi tiết hoá Pháp lệnh BCVT, ngày 03/9/2004, Chính phủ ban hành Nghị định 160/2004/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết Pháp lệnh BCVT về Viễn thông (NĐ160). NĐ160 gồm 12 Chương, 65 Điều, chủ yếu hướng dẫn các nội dung liên quan đến khía cạnh kỹ thuật Viễn thông, Internet... Liên quan đến trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp về kết nối Viễn thông, NĐ 160 đã hướng dẫn chi tiết hơn một số vấn đề đã được đề cập trong Pháp lệnh BCVT. Cụ thể là, tại Chương X, Nghị định 160/2004/NĐ-CP (Điều 59 và Điều 60) quy định về “Giải quyết tranh chấp”, trong đó chứa đựng những quy định về giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông:

Một là, hình thức giải quyết tranh chấp bao gồm: 1/ Thương lượng (Khoản 1, Điều 59, NĐ 160); 2/ Hiệp thương (Điều 60, NĐ 160); 3/ Khiếu nại (Điểm b, Khoản 2, Điều 60, NĐ 160); 4/ Khởi kiện (Điểm b, Khoản 2, Điều 60, NĐ 160).

Hai là, Bộ BCVT (Khoản 1, 2, Điều 60, NĐ 160) hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (Khoản 2, Điều 59, NĐ 160) là những cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.

Ba là, thủ tục giải quyết liên quan đến thỏa thuận kết nối được quy định tại  Điều 60 NĐ 160, theo đó, các bên có quyền yêu cầu Bộ BCVT giải quyết; Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị giải quyết tranh chấp của DN, Bộ BCVT phải xem xét vụ việc. Nếu không giải quyết, Bộ BCVT có trách nhiệm giải trình rõ lý do. Trường hợp giải quyết thì tiến hành theo các bước sau đây: 1/ Trong thời hạn chậm nhất 60 ngày, kể từ ngày quyết định giải quyết tranh chấp, Bộ BCVT phải tổ chức hiệp thương; 2/ Sau khi hiệp thương, nếu các bên không thỏa thuận được với nhau, Bộ BCVT sẽ quyết định vụ việc trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày kết thúc hiệp thương; 3/ Nếu chưa thỏa đáng, các bên có thể tiếp tục yêu cầu giải quyết tranh chấp hoặc đưa vụ việc ra tòa.

Những quy định trong Pháp lệnh và NĐ 160 trên đây đã được áp dụng để giải quyết một số vụ tranh chấp. Tuy nhiên, quá trình giải quyết này bộc lộ nhiều bất cập, do vậy, ngày 26/4/2006, Bộ trưởng Bộ BCVT đã ký quyết định số 12/2006/QĐ-BBCVT ban hành kèm theo Quy định về việc thực hiện kết nối giữa những mạng Viễn thông công cộng, trong đó có chi tiết hóa trình tự giải quyết tranh chấp kết nối. Quyết định gồm 5 Chương: Quy định chung; Đảm bảo dung lượng kết nối; Báo cáo việc thực hiện kết nối; Giải quyết tranh chấp và điều khoản thi hành. Kèm theo Quyết định là 5 Phụ lục, đưa ra những tiêu chí làm cơ sở cho quá trình xem xét giải quyết tranh chấp, đó là: Phương pháp tính tổng dung lượng kết nối liên mạng; Mẫu biểu báo cáo đột xuất theo các hướng kết nối hoặc tại một điểm kết nối cụ thể; Mẫu biểu báo cáo định kỳ hàng quý, hàng năm về tình hình thực hiện các Hợp đồng cung cấp dung lượng kết nối với các doanh nghiệp khác; Tiêu chí xác định mức độ sử dụng hiệu quả tuyến trung kế kết nối và quy trình xác định năng lực dư thừa của tổng đài kết nối, tiến độ bổ sung cổng kết nối dư thừa chống nghẽn kết nối; Tiêu chí xác định nghẽn kết nối và quy trình, tiến độ thực hiện bổ sung dung lượng kết nối. Theo quy định của ba văn bản pháp luật kể trên, Hiệp thương được thừa nhật là một trong những hình thức giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Để vụ việc được giải quyết theo trình tự này, trước tiên DN Viễn thông yêu cầu phải có Hồ sơ đề nghị giải quyết tranh chấp gửi Tổ Kết nối, Bộ BCVT (Nay là Bộ TT&TT). Hồ sơ bao gồm: Công văn đề nghị giải quyết tranh chấp; Các chứng cứ, tài liệu về kinh tế, kỹ thuật liên quan kèm theo; Các kiến nghị, đề xuất (Điều 11, QĐ 12/2006/QĐ-BBCVT). Trên cơ sở Hồ sơ này, Tổ Kết nối quyết định tiến hành giải quyết tranh chấp hoặc từ chối giải quyết tranh chấp trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được Hồ sơ khiếu nại hợp lệ hoặc văn bản đề nghị giải quyết tranh chấp của DN. Trường hợp nội dung Hồ sơ đề nghị giải quyết tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Tổ Kết nối, Tổ Kết nối có trách nhiệm trả lời DN bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do và các hướng dẫn (nếu có) cho DN. Trường hợp quyết định giải quyết tranh chấp, Tổ Kết nối sẽ tiến hành theo 4 bước sau: Bước 1: Xác minh tính hợp lệ, các nội dung trong Hồ sơ đề nghị giải quyết tranh chấp; Bước 2: Tổ Kết nối tổ chức hiệp thương giữa các bên; Bước 3: Tổ Kết nối ra thông báo hoặc quyết định giải quyết tranh chấp; Bước 4: Thi hành thông báo và quyết định giải quyết tranh chấp.

Trường hợp DN không nhất trí với nội dung được yêu cầu trong thông báo và quyết định giải quyết tranh chấp của Tổ Kết nối, DN có thể tiếp tục yêu cầu giải quyết tranh chấp hoặc kiến nghị lên Bộ trưởng Bộ TT&TT để được xem xét, giải quyết. Trong thời gian tiếp tục yêu cầu và chờ đợi việc giải quyết tranh chấp tiếp theo, các bên có trách nhiệm chấp hành quyết định giải quyết tranh chấp của Tổ Kết nối. Nếu DN không nhất trí với quyết định giải quyết tranh chấp của Bộ TT&TT, DN có thể tiếp tục yêu cầu giải quyết tranh chấp hoặc khởi kiện ra toà để được giải quyết theo các quy định của pháp luật (Khoản 3, Điều 60 NĐ 160/NĐ-CP). Trong thời gian tiếp tục yêu cầu giải quyết tranh chấp hoặc khởi kiện ra toà hai bên vẫn phải chấp hành quyết định giải quyết tranh chấp của Bộ TT&TT.

Như vậy, hiệp thương thực chất là hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba. Là trường hợp đặc biệt của hình thức trung gian hòa giải, trong đó, bên tổ chức hiệp thương (bên đứng ra hòa giải) là CQQL nhà nước về Viễn thông - Bộ TT&TT.

Trên thế giới, hoà giải tranh chấp kết nối Viễn thông thường xuất hiện ba dạng. Thứ nhất là CQQL về Viễn thông trực tiếp đứng ra hoà giải (như trường hợp hiệp thương tại Việt Nam hiện nay), thứ hai là CQQL nhà nước về Viễn thông chỉ định, tìm kiếm hoặc thuê một bên hoà giải thứ ba để giải quyết tranh chấp và thứ ba là những tổ chức, cá nhân hoà giải độc lập được các bên đồng ý đề nghị tham gia quá trình giải quyết tranh chấp. Tại một số nước, vụ tranh chấp kết nối không được cơ quan giải quyết thụ lý nếu các bên chưa tiến hành tìm kiếm một bên đứng ra hòa giải vụ việc. Trong giải quyết tranh chấp thông qua trung gian hoà giải, bên trung gian thường kéo các bên về với bản chất của tranh chấp và những mâu thuẫn cơ bản nhất cần giải quyết, trên cơ sở hài hoà hoá lợi ích giữa các bên khi mâu thuẫn được giải quyết, bên trung gian sẽ đề xuất phương án tối ưu nhất để các bên lựa chọn.

Ưu điểm của hình thức hiệp thương giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông thể hiện ở một số điểm dưới đây:

Thứ nhất, Bộ TT&TT dựa trên lợi ích của các bên liên quan để giải quyết thay vì dựa vào vị thế. Những động cơ tiềm ẩn bên trong, những mâu thuẫn về tài chính, về nhân sự, về điều hành hay cơ cấu tổ chức sẽ được làm sáng tỏ, tạo cơ sở cho việc đưa ra những giải pháp đúng đắn, phù hợp với các bên. Thông thường, Bộ TT&TT sẽ chỉ rõ cho các bên thấy được lợi ích của giải pháp giải quyết tranh chấp thay vì chi phí cả hai sẽ phải bỏ ra nếu tiếp tục kéo dài thời gian tranh chấp. Đây là khác biệt cơ bản giữa hình thức thoả thuận và hình thức hiệp thương. Trên cơ sở lợi ích của các bên, Bộ TT&TT sẽ đưa ra phương án giải quyết vừa phù hơp với quy định pháp luật, vừa đảm bảo lợi ích các bên và lợi ích chung toàn xã hội. Có lẽ đây cũng là điểm mà bên tranh chấp, đặc biệt là DN mới tham gia thị trường kỳ vọng vào vai trò của Bộ BCVT.

Thứ hai, chi phí mà các bên phải trả so với chi phí ra trọng tài, hoặc toà án hay CQQL cạnh tranh là thấp hơn rất nhiều.

Thứ ba, việc giải quyết được thực hiện theo 2 cấp: Tổ công tác kết nối và Bộ trưởng Bộ TT&TT.

Thứ tư, nghĩa vụ chứng minh, giải quyết vụ việc sẽ do các bên và Tổ kết nối cùng thực hiện.

Thứ năm, thời gian giải quyết tối đa theo quy định tại NĐ 160 là 120 ngày (30 ngày thụ lý Hồ sơ, 60 ngày hiệp thương, 30 ngày Quyết định vụ việc). Theo quy định trong QĐ 12, thời gian thụ lý hồ sơ giảm xuống còn 10 ngày, do đó, tổng thời gian giải quyết giảm xuống còn 100 ngày. Quy trình 100 ngày có thể được lặp lại không giới hạn hoặc đưa ra Tòa án.

Những ưu điểm này đảm bảo tính chặt chẽ, khách quan, nhanh chóng và chuyên nghiệp hơn so với hình thức trung gian hòa giải khác hoặc so với hình thức thoả thuận. Cho đến thời điểm này, tất cả các vụ tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam đều được DN Viễn thông lựa chọn trình tự này để giải quyết như phương án lựa chọn đầu tiên và duy nhất.

5. Thỏa thuận để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam

Thoả thuận là hình thức giải quyết tranh chấp không có sự xuất hiện của bên thứ ba (trừ trường hợp bên thứ ba tham gia với tư cách đại diện cho một trong hai bên). Trong tiếng Anh, người ta sử dụng từ “Negotiation” để diễn đạt hình thức giải quyết tranh chấp này. Tuy nhiên, khi chuyển tải sang tiếng Việt chưa có sự thống nhất, có tài liệu, văn bản pháp luật dịch là thoả thuận, có tài liệu dịch là thương lượng. Trên thực tế, thương lượng và thoả thuận đều có nghĩa như nhau, cùng diễn tả hình một thức giải quyết tranh chấp, trong đó chỉ có sự tham gia của các bên trong tranh chấp.   

Ưu điểm của hình thức thoả thuận thể hiện ở sự đơn giản, chủ động trong thủ tục, nhanh chóng, tiết kiệm chi phí và đảm bảo bí mật kinh doanh. Giải quyết tranh chấp bằng hình thức thoả thuận, nếu được sự nhất trí của các bên, cam kết sẽ được tôn trọng thực hiện triệt để và giữ được mối quan hệ hòa khí với nhau. Một ưu điểm nữa của hình thức thoả thuận là các bên có thể chủ động về thời gian, nhân lực.v.v..trong quá trình giải quyết tranh chấp, điều này cũng rất có ý nghĩa đối với một chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Tuy nhiên, không phải tranh chấp nào cũng có thể giải quyết bằng thỏa thuận, điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: mối quan hệ thân thiện của các bên từ trước đến nay, tính chấp của tranh chấp (phức tạp hay đơn gian, căng thăng hay bình thường) v.v... Bên cạnh ưu điểm, giải quyết tranh chấp kết nối thông qua hình thức thoả thuận thường mắc phải một số điểm hạn chế như: Do thiếu chuyên gia pháp lý, nhiều trường hợp việc giải quyết không phù hợp với quy định pháp luật; Bên chiếm vị thế thường lợi dụng để đưa ra những thoả thuận có lợi cho mình; Tính pháp lý của cam kết không cao; các bên phải thiện chí.v.v…    

Trong các văn bản pháp luật về giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam, thỏa thuận luôn được coi là nguyên tắc đầu tiên và được khuyến khích. Điều 55, Pháp lệnh BCVT quy định khi xảy ra tranh chấp, trước tiên các bên tiến hành thỏa thuận, trường hợp không thỏa thuận được mới giải quyết bằng các hình thức khác. Tinh thần này cũng được ghi nhận tương tự trong Bộ Luật tố tụng dân sự, Luật cạnh tranh và Pháp lệnh trọng tài thương mại. Ngay kể cả khi thủ tục tố tụng đã được mở, hoặc thậm trí ngay tại phiên tòa (tố tụng dân sự) hoặc phiên điều trần (tố tụng cạnh tranh) nếu các bên đã thỏa thuận được với nhau, hoặc tự nguyện thực hiện thì cơ quan tiến hành tố tụng cũng công nhận sự thỏa thuận này và đình chỉ việc giải quyết. Không chỉ Việt Nam, thỏa thuận cũng được thừa nhận như một trong những hình thức giải quyết mang tính thay thế (Alternative Dispute Revolution - ADR) trong hệ thống pháp luật nhiều nước trên thế giới. Việc thỏa thuận giải quyết có thể do các bên tự nguyện, hoặc cũng có thể thông qua việc ký kết một hợp đồng. Và cũng giống như Việt Nam, cơ quan có thẩm quyền các nước cũng thường yêu cầu các bên tự giải quyết trước khi vụ việc được đưa ra giải quyết tại cơ quan đó.3

Thoả thuận đòi hỏi các bên phải thực sự tôn trọng, tự giác và hiểu biết lẫn nhau.

Tài liệu tham khảo

[1]. Đạo luật Viễn thông của Mỹ năm 1996

[2]. Dispute Resolution in the Telecommunications Sector-Current Practices and Future Directions-2004-McCarthy Tétrault LLP.

[3]. Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003

[4]. Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2005.

[5]. Luật cạnh tranh năm 2005

[6]. Pháp lệnh Bưu chính viễn thông và các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh.

Pháp luật giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam hiện nay (Bài 2)

Dương Quốc Huy, Nguyễn Thúy Quỳnh, Trần Hoài Văn

 Để giải quyết một vụ tranh chấp, người ta phải căn cứ vào những quy phạm nội dung và những quy phạm hình thức. Quy phạm nội dung là căn cứ để xác định quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia tranh chấp. Quy phạm hình thức giúp cho việc giải quyết tranh chấp tuân thủ theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, đảm bảo tính khách quan, chính xác. Các văn bản pháp luật tham gia giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông vì vậy cũng được chia làm hai nhóm. Nhóm các văn bản quy định về kết nối, bao gồm: Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông (BCVT), Nghị định 160/2004/NĐ-CP và Quyết định 12/2006/QĐ-BBCVT. Nhóm các văn bản quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kết nối, trong đó có Bộ luật tố tụng Dân sự, Luật Cạnh tranh và Pháp lệnh trọng tài thương mại. Bên cạnh đó, để phù hợp tính chất đặc thù của lĩnh vực Viễn thông, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kết nối còn được quy định tại Pháp lệnh BCVT, Nghị định 160/2004/NĐ-CP hướng dẫn Pháp lệnh BCVT về Viễn thông và Quyết định 12/2006/QĐ-BBCVT của Bộ trưởng Bộ BCVT (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông).

Bài viết này tập trung chủ yếu vào phân tích thực trạng và bước đầu đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa những quy định pháp luật để giải quyết vụ việc tranh chấp kết nối Viễn thông mà không đi sâu vào những quy định mang tính nội dung của kết nối.

Ảnh minh họa: WATblog

1. Áp dụng Bộ luật Tố tụng dân sự để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông

Bộ luật tố tụng dân sự bao gồm 36 Chương, 418 Điều, được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực từ 01/01/2005. Ngay trong Điều 1, Bộ luật tố tụng dân sự đã nêu rõ, Bộ luật quy định trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp kinh doanh, thương mại; Trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về kinh doanh, thương mại tại Tòa án. Bằng quy định này, kể từ ngày 01/01/2005, mọi tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại đều có thể được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Toà án nhân dân. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho phép các bên trong tranh chấp kết nối Viễn thông khởi kiện yêu cầu toà án giải quyết. Như vậy, khẳng định rằng, khởi kiện ra tòa là một trong những hình thức giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam hiện nay. Khi vận dụng Bộ luật tố tụng Dân sự vào giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông, cần lưu ý một số quy định cơ bản sau đây:

- Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự

Về xét xử sơ thẩm, hiện nay, tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án nhân dân cấp tỉnh đều có thẩm quyền giải quyết đối với tranh chấp kết nối Viễn thông. Bộ luật tố tụng Dân sự quy định, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (tòa án cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại liên quan đến hoạt động cung ứng dịch vụ giữa tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận (Điều 29, Điều 33, Bộ luật Tố tụng dân sự). Tranh chấp kết nối là tranh chấp giữa các nhà cung cấp dịch vụ Viễn thông với nhau, đều hướng đến mục tiêu lợi nhuận, do vậy, tranh chấp kết nối có thể được coi là vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. Theo Khoản 2, Điều 34, Bộ luật tố tụng Dân sự, tòa án cấp huyện có thẩm quyền thụ lý xét xử sơ thẩm nếu Tòa cấp tỉnh không lấy lên để giải quyết. Cũng tại cấp sơ thẩm, tòa án nhân dân  tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thể giải quyết những vụ tranh chấp kết nối Viễn thông, nếu tranh chấp ấy không thuộc thẩm quyền của tòa cấp huyện hoặc trong trường hợp tòa cấp tỉnh nhận thấy cần thiết lấy lên để giải quyết (Điều 34, Bộ luật tố tụng Dân sự) hoặc vụ tranh chấp kết nối viễn thông ấy có yếu tố nước ngoài (Khoản 2, Điều 20, Bộ luật tố tụng Dân sự).  

Về xét xử phúc thẩm, trường hợp có kháng cáo, kháng nghị, tòa án nhân dân cấp trên trực tiếp của cấp xét sử sơ thẩm sẽ xét xử theo thủ tục phúc thẩm tranh chấp kết nối Viễn thông. Như vậy, chỉ có tòa án cấp tỉnh và tòa án tối cao mới có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo thủ tục phúc thẩm các vụ tranh chấp kết nối Viễn thông. 

Với thủ tục giám đốc thẩm vụ tranh chấp kết nối Viễn thông, thẩm quyền thuộc về: Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị; Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị; Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa phúc thẩm, Tòa kinh tế của Tòa án nhân dân tối cao bị kháng nghị; Tòa án có thẩm quyền cấp trên đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của các cấp Tòa án khác nhau (Điều 291, Bộ luật tố tụng Dân sự).

Thủ tục tái thẩm vụ tranh chấp kết nối Viễn thông thuộc thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm tòa án nhân dân cấp Tỉnh và Tòa tối cao (309, Bộ luật tố tụng dân sự).

Tóm lại, nếu vụ tranh chấp kết nối Viễn thông được giải quyết theo con đường tòa án, thì với quy định như hiện nay trong Bộ luật Tố tụng Dân sự, tòa án nhân dân cấp Huyện trở lên đều có khả năng thụ lý, giải quyết.

- Thủ tục khởi kiện vụ tranh chấp kết nối Viễn thông theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Dân sự

Để vụ việc được tòa án giải quyết, doanh nghiệp (DN) viễn thông có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm phải tiến hành khởi kiện (Ðiều 162, Bộ luật tố tụng Dân sự). Đơn khởi kiện tuân thủ đầy đủ nội dung hướng dẫn tại Điều 164, Bộ luật tố tụng Dân sự như: Tên, địa chỉ người khởi kiện, những vấn đề cần giải quyết, tài liệu chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.v.v… Đơn được nộp trực tiếp tại Tòa hoặc gửi theo đường Bưu điện. Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Tòa án sẽ thông báo ngay cho DN Viễn thông khởi kiện biết để đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí. Tòa án thụ lý vụ án khi DN khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Thủ tục khởi kiện kết thúc. 

- Hòa giải trong tố tụng dân sự

Trong xét xử theo thủ tục tố tụng dân sự vụ án kinh doanh thương mại nói chung và tranh chấp kết nối Viễn thông nói riêng, hòa giải vừa là nguyên tắc, vừa là một bước quan trọng của tiến trình giải quyết vụ việc. Ðiều 10, Bộ luật tố tụng dân sự quy định, Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này. Về nguyên tắc, sau khi thụ lý, Tòa án có quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp kết nối trong trường hợp các bên đã tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án (Điều 192). Thủ tục hòa giải cũng có khi được tiến hành tại giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm thông qua phiên hòa giải do thẩm phán chủ trì, hoặc tại phiên sơ thẩm và phúc thẩm thông qua việc chủ tọa phiên tòa hỏi về việc các bên có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ tranh chấp hay không (Điều 220, 260, 268). Tranh chấp kết nối Viễn thông là dạng tranh chấp đặc thù, trong đó các bên vẫn phải quan hệ, hợp tác chặt chẽ với nhau sau khi tranh chấp, do vậy, hòa giải luôn là một hình thức cần thiết để phù hợp với đặc thù đó.

- Xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm

Sau khi thụ lý, vụ việc chuyển sang giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trong giai đoạn này, Tòa sẽ tiến hành hòa giải các bên, trường hợp hòa giải không thành, sẽ chuyển sang xét xử.

Theo quy định tại Bộ luật tố tụng Dân sự, vụ án kinh doanh thương mại, trong đó có tranh chấp kết nối Viễn thông sẽ được xét xử theo hai cấp. Xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Xét xử sơ thẩm là việc tòa án có thẩm quyền xem xét và giải quyết lần đầu tiên vụ tranh chấp. Nhìn chung, về cơ bản việc xét xử tại phiên tòa sơ thẩm được tiến hành qua các bước như: Thủ tục trước khi bắt đầu, Thủ tục bắt đầu phiên tòa, Thủ tục hỏi, Thủ tục tranh luận, cuối cùng là Nghị án và tuyên án.

Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị đối với phán quyết tại phiên sơ thẩm, vụ tranh chấp được xét xử phúc thẩm. Phán quyết tại phiên phúc thẩm là chung thẩm và các bên buộc phải thi hành và chuyển sang giai đoạn thi hành án. Về thủ tục tại phiên Phúc thẩm, nhìn chung, giống như phiên sơ thẩm.

Đối với những bản án đã có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện những tình tiết mới hoặc có sai sót trong quá trình xét xử, bản án sẽ được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Thủ tục tại phiên tòa Tái thẩm và Giám đốc thẩm có nhiều điểm tương đồng, về cơ bản như sau: Sau khi chủ tọa khai mạc phiên tòa, một thành viên của Hội đồng trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, quyết định của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các căn cứ, nhận định của kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị. Ðại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về quyết định kháng nghị. Các thành viên của Hội đồng thảo luận và phát biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án. Ðại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án.

- Thi hành án

Bản án, phần bản án đã có hiệu lực pháp luật sẽ được thi hành. Trường hợp các bên không tự nguyện thi hành, bên được thi hành có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án các cấp ra quyết định thi hành án. Bên yêu cầu phải có đơn yêu cầu thi hành án hoặc trực tiếp đến cơ quan thi hành án nêu rõ nội dung yêu cầu và các thông tin liên quan đến việc thi hành án kèm theo bản án hoặc quyết định có yêu cầu được thi hành. Công tác thi hành án do Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp chỉ đạo, đôn đốc.

- Thời gian giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng dân sự

Từ khi nộp đơn khởi kiện đến thi hành án (sau phúc thẩm, chưa kể tái thẩm và giám đốc thẩm) là khoảng hơn 600 ngày (thụ lý, bổ sung đơn kiện, phân công thẩm phán, chuẩn bị xét xử, hoãn phiên tòa, gửi quyết định sang thi hành án, chưa kể quá trình thi hành án). Thời gian ngắn nhất để một vụ tranh chấp kết nối viễn thông có thể được giải quyết theo thủ tục tố tụng quy định trong Bộ luật tố tụng Dân sự là 120 ngày, xảy ra khi các bên thỏa thuận được với nhau và được tòa án công nhận ngay trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. 

Trên đây là một số điểm đáng lưu ý trong trường hợp các bên có ý định đưa vụ tranh chấp kết nối viễn thông ra giải quyết tại Tòa án theo quy định pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn tranh chấp và giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam thời gian qua cho thấy, chưa có vụ việc nào được giải quyết bằng con đường khởi kiện tại Tòa án, mặc dù giải quyết bằng con đường tòa án có những ưu điểm như: Độc lập, chặt chẽ, khách quan trong trình tự giải quyết, tính bắt buộc thực hiện phán quyết vụ việc..v.v…

2. Áp dụng Luật Cạnh tranh giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông

Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03/12/2004 gồm 6 Chương, 123 Điều, có hiệu lực từ ngày 1/7/2005.

Điều 56, Luật Cạnh tranh quy định, việc giải quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh thực hiện theo quy định của Luật này. Về nguyên tắc, kể từ ngày 1/7/2005, tranh chấp kết nối Viễn thông giữa các DN Viễn thông mang dấu hiệu của hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể được giải quyết theo tố tụng cạnh tranh quy định tại Luật cạnh tranh. Như vậy, hiện nay, khiếu nại lên cơ quan quản lý cạnh tranh là một trong những hình thức được lựa chọn để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam.

Theo tinh thần các quy định trong Luật cạnh tranh, khi một bên tham gia tranh chấp kết nối Viễn thông xét thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi vi phạm quy định của Luật cạnh tranh như: Có dấu hiệu cho thấy, tranh chấp kết nối là hệ quả của một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; Phân bổ cơ sở hạng tầng mạng không công bằng; Phân biệt giá cước kết nối nhằm hạn chế việc gia nhập thị trường; Tranh chấp kết nối nhằm mục đích hạn chế sự phân phối dịch vụ hoặc ngăn cản việc gia nhập thị trường của DN Viễn thông mới; Áp dụng cước kết nối cao hơn cước áp dụng cho DN thành viên hoặc DN khác; Buộc phải thực hiện các nghĩa vụ không liên quan đến kết nối; Từ chối dịch vụ; Lạm dụng các biện pháp kỹ thuật để ngăn cản dịch vụ của đối thủ .v.v…thì DN Viễn thông có quyền khiếu nại đến cơ quan quản lý cạnh tranh, yêu cầu giải quyết theo trình tự, thủ tục của tố tụng cạnh tranh. 

Hồ sơ khiếu nại phải được gửi kèm chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm. Thời hiệu khiếu nại là 2 năm, kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện (Điều 58, Luật Cạnh tranh). Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ khiếu nại, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho bên khiếu nại về việc thụ lý hồ sơ. Bên khiếu nại nộp tạm ứng án phí cho việc xử lý (Điều 59, Luật cạnh tranh).

Sau khi thụ lý Hồ sơ khiếu nại, Cơ quan quản lý (CQQL) cạnh tranh, trong 30 ngày điều tra sơ bộ, quyết định có điều tra chính thức hay không (Điều 86). Nếu có cơ sở để quyết định điều tra chính thức thì thời hạn tối đa cho phép thực hiện điều tra chính thức là 360 ngày (chính thức, gia hạn và điều tra bổ sung). Những nội dung căn bản cần làm sáng rõ trong điều tra chính thức bao gồm: Xác minh thị trường liên quan; Xác minh thị phần trên thị trường liên quan của bên bị điều tra; Thu thập và phân tích chứng cứ về hành vi vi phạm. Trường hợp qua điều tra phát hiện vụ việc cạnh tranh có dấu hiệu tội phạm, điều tra viên phải kiến nghị ngay với Thủ trưởng CQQL cạnh tranh xem xét chuyển hồ sơ đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.

Sau khi nhận được báo cáo điều tra và toàn bộ hồ sơ vụ việc cạnh tranh, Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh quyết định thành lập Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Hội đồng này có 30 ngày để ra quyết định mở Phiên điều trần xem xét, xử lý vụ việc. Phiên điều trần được tổ chức sau đó chậm nhất là 15 ngày. Phiên điều trần có thể được mở công khai hoặc xử kín. Tham gia Phiên điều trần có thể bao gồm: Thành viên Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, thư ký phiên điều trần; Bên bị điều tra; Bên khiếu nại; Luật sư; Điều tra viên đã điều tra vụ việc cạnh tranh; Những người khác được ghi trong quyết định mở phiên điều trần.

Sau khi nghe những người tham gia phiên điều trần trình bày ý kiến và tranh luận, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh tiến hành thảo luận, bỏ phiếu kín và quyết định theo đa số. Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày kể từ ngày ký nếu trong thời hạn đó không bị khiếu nại.

Trường hợp không nhất trí một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên có quyền khiếu nại lên Hội đồng Cạnh tranh. Trường hợp không nhất trí một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Thủ trưởng CQQL cạnh tranh, các bên có quyền khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ Thương mại. Những phần của quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh bị khiếu nại thì chưa được đưa ra thi hành. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ khiếu nại, Hội đồng cạnh tranh hoặc Bộ trưởng Bộ Thương mại có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thẩm quyền; Trường hợp đặc biệt phức tạp, thời hạn giải quyết khiếu nại có thể được gia hạn, nhưng không quá 30 ngày.

Hội đồng cạnh tranh có quyền: 1/ Giữ nguyên quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nếu xét thấy việc khiếu nại là không đủ căn cứ; 2/ Sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nếu quyết định này không đúng pháp luật; 3/ Hủy quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và chuyển hồ sơ vụ việc cạnh tranh cho Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh giải quyết lại trong các trường hợp: Chứng cứ chưa được thu thập và xác minh đầy đủ; Thành phần Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh không đúng quy định của Luật này hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về tố tụng cạnh tranh.

Khi xem xét, giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của CQQL cạnh tranh, Bộ trưởng Bộ Thương mại có các quyền: 1/ Giữ nguyên quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nếu xét thấy việc khiếu nại là không đủ căn cứ; 2/ Sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nếu quyết định này không đúng pháp luật; 3/ Hủy quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và yêu cầu CQQL cạnh tranh giải quyết lại trong trường hợp chứng cứ chưa được thu thập và xác minh đầy đủ.

Quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ký. Trường hợp không nhất trí với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên liên quan có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với một phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại ra Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền. Những phần của quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không bị khởi kiện ra Tòa án vẫn được tiếp tục đưa ra thi hành.

Đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, DN Viễn thông vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính: Cảnh cáo; Phạt tiền. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, DN Viễn thông vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: 1/ Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; 2/ Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Ngoài các hình thức xử phạt quy định trên đây, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị: Cơ cấu lại DN lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; Chia, tách DN đã sáp nhập, hợp nhất; buộc bán lại phần DN đã mua; Cải chính công khai; Loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh; Các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi vi phạm. Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh là những chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh.

DN Viễn thông có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Cũng giống như Bộ luật tố tụng dân sự, thực tiễn về tranh chấp và giải quyết tranh chấp trong thời gian qua cho thấy, tố tụng cạnh tranh chưa được sử dụng như một hình thức giải quyết tin cậy đối với các DN Viễn thông. Trên thực tế, mặc dù nhiều DN Viễn thông ý thức được về khả năng lựa chọn Luật cạnh tranh để giải quyết tranh chấp, tuy nhiên, các DN Viễn thông cũng không có ý định khiếu nại lên CQQL cạnh tranh để xử lý vụ việc (quan điểm của một số chuyên gia phụ trách kết nối và giải quyết tranh chấp kết nối tại một số DN lớn).

3. Áp dụng Pháp lệnh trọng tài thương mại giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông

Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 gồm 8 Chương, 63 Điều, có hiệu lực từ ngày 01/7/2003. Điều 1 Pháp lệnh quy định, Pháp lệnh này quy định về tổ chức trọng tài, tố tụng trọng tài để giải quyết những tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo sự thoả thuận của các bên. Như vậy, trường hợp các bên trong tranh chấp kết nối Viễn thông có sự thoả thuận thống nhất đưa vụ tranh chấp ra trọng tài để giải quyết thì những quy định về trình tự, thủ tục trong Pháp lệnh này sẽ là cơ sở pháp lý để giải quyết vụ việc tranh chấp. Với quy định này, Trọng tài là một trong những hình thức giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam hiện nay. 

Có thể nói, trọng tài là một loại hình giải quyết tranh chấp truyền thống, phổ biến trong lĩnh vực thương mại nói chung và Viễn thông nói riêng, là trường hợp đặc biệt của giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba. Thông thường, người ta chia trọng tài thương mại thành hai loại: Trọng tài thường trực và trọng tài vụ việc. Đối với thủ tục trọng tài, việc lựa chọn trọng tài viên, trọng tài vụ việc hay thường trực .v.v…hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên. Thỏa thuận lựa chọn trọng tài có thể là một điều khoản trong hợp đồng chính (Thỏa thuận kết nối) hoặc lập một thỏa thuận khác. Riêng trong lĩnh vực Viễn thông, nhiều trường hợp việc lựa chọn trọng tài lại xuất phát từ sự khuyến khích hoặc ủy nhiệm trực tiếp của CQQL nhà nước về Viễn thông. Luật Viễn thông 1996 của Mỹ1 cho phép Ủy ban quản lý Viễn thông quốc gia sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông. Australia cũng có quy định tương tự khi cho phép ACCC (Ủy ban người tiêu dùng và tranh chấp Australia) lựa chọn trọng tài tham gia giải quyết vụ tranh chấp Viễn thông đã được các bên yêu cầu ACCC giải quyết. Chính sách trọng tài của Guatemala cho phép các DN Viễn thông được quyền yêu cầu cơ quan quản lý Viễn thông SIT thực hiện thủ tục trọng tài nếu các DN không được thỏa thuận trong vòng 40 ngày kể từ ngày có đề nghị kết nối chính thức.

Khác với một số nước trên thế giới có trình tự, thủ tục giải quyết bằng trọng tài dành riêng cho tranh chấp kết nối Viễn thông, hiện nay, tại Việt Nam việc giải quyết này được vận dụng chung với các tranh chấp thương mại khác. Điều này được thừa nhật tại Khoản 1, Điều 2, Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, theo đó, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận. Bằng việc đưa ra khái niệm “hoạt động thương mại” (Khoản 3, Điều 2),2 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 đã cho phép trọng tài giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, trong đó có tranh chấp kết nối Viễn thông.

- Theo tinh thần các quy định trong Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông bằng trọng tài, phải tuân theo một số nguyên tắc cơ bản sau:

Một là, tranh chấp kết nối Viễn thông chỉ được giải quyết bằng trọng tài nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, các bên có thoả thuận trọng tài.

Hai là, khi giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông, trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư. Nếu không đạt được tiêu chuẩn này, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính đúng đắn, chính xác, khách quan và khả năng thi hành của phán quyết trọng tài.

Ba là, nguyên tắc giữ bí mật phải được tôn trọng thực hiện. 

Bốn là, quyết định trọng tài là chung thẩm, các bên phải thi hành quyết định trọng tài, trừ trường hợp toà án huỷ quyết định trọng tài.

Năm là, nguyên tắc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp. Theo quy định này, đối với vụ tranh chấp giữa các doanh nghiệp Viễn thông của Việt Nam, hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật tương ứng của Việt Nam để giải quyết tranh chấp.

(Còn tiếp)

Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp kết nối Viễn thông (Bài 1)

Tranh chấp kết nối Viễn thông là một dạng tranh chấp đã, đang tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam. Nhưng bản chất của loại tranh chấp này như thế nào? Có gì khác biệt so với các dạng tranh chấp khác? Đây là những câu hỏi cần được giải đáp. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình lập pháp, giúp các nhà làm luật xây dựng được trình tự, thủ tục pháp lý phù hợp, hướng tới một cơ chế ngày càng hoàn thiện hơn để giải quyết triệt để các vụ tranh chấp kết nối Viễn thông. 

Hiện nay, có nhiều tài liệu đề cập đến kết nối Viễn thông như: Những bài viết của chuyên gia pháp lý tại một số công ty luật nổi tiếng trên thế giới, tài liệu hướng dẫn kết nối và giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), Liên minh châu Âu (EU).v.v… Nhưng chưa có tài liệu nào lý giải đầy đủ, khoa học “tranh chấp kết nối Viễn thông” là gì? Tìm hiểu luật Viễn thông của các nước Anh, Mỹ, Úc, Canada, Hàn Quốc, Bungari, Ba Lan, Trung Quốc, Philipin, Macao.v.v…cũng chưa thấy quy định về “tranh chấp kết nối Viễn thông”, cho dù những quy định liên quan đến kết nối Viễn thông và cách giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông luôn được đề cập đến trong pháp luật Viễn thông của những nước này. Thay vì giải thích thuật ngữ “tranh chấp kết nối Viễn thông”, nhiều tài liệu dừng lại ở việc giải thích khái niệm “tranh chấp”. Theo đó, hầu hết các luận điểm đều thừa nhận “tranh chấp” là một dạng “xung đột”.

Ảnh minh họa: inc.com

Trong tiếng Anh, người ta dùng từ “dispute” như một thuật ngữ phổ biến để diễn tả “tranh chấp”, thuật ngữ này được giải nghĩa như một dạng của xung đột (conflict). Theo Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Văn Đạm, NXB Văn hoá Thông tin năm 2001, “tranh chấp” là vận dụng sức (vật chất hay trí tuệ) để lấy hay giữ cho mình cái gì mà người khác cũng muốn có. Một cách tiếp cận khác thì cho rằng1, “tranh chấp” là một dạng xung đột mang tính pháp lý, được giải quyết thông qua con đường thương lượng, trung gian hoà giải hoặc sự giải quyết của bên thứ ba khác, việc giải quyết có thể được tiến hành trực tiếp giữa hai bên hoặc có sự tham gia của bên thứ ba. Có quan điểm lại chỉ khẳng định2,“Tranh chấp”, trên thực tế sẽ không tồn tại nếu không có sự phản đối của một trong các bên.

Vậy, “tranh chấp kết nối Viễn thông” được hiểu như thế nào? Để làm rõ khái niệm này, cần làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện tồn tại của tranh chấp kết nối Viễn thông cũng như bản chất, đặc điểm của tranh chấp kết nối Viễn thông.

1. Nguyên nhân, điều kiện tồn tại của tranh chấp kết nối Viễn thông

Như chúng ta đều biết, Viễn thông là một ngành kinh tế - kỹ thuật đặc thù và nhạy cảm. Điều này thể hiện ở hai điểm cơ bản:

Thứ nhất, thông tin liên lạc Viễn thông luôn gắn liền với yêu cầu đảm bảo An ninh quốc gia. Trong tình trạng khẩn cấp, pháp luật các nước cho phép huy động một phần hoặc toàn bộ mạng Viễn thông để sử dụng vào mục đích bảo vệ an ninh quốc gia. Ngoài ra, việc theo dõi thông tin trên mạng Viễn thông, nhằm đảm bảo an ninh quốc gia và phòng chống tội phạm, là nhiệm vụ mang tính thường xuyên của cơ quan chức năng nhiều nước trên thế giới. Điều này cho thấy tầm quan trọng của Viễn thông trong việc bảo đảm An ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Không chỉ ảnh hưởng tới An ninh quốc gia, sự trục trặc trong thông tin liên lạc còn gây tác động dây truyền tới toàn bộ phần còn lại của nền kinh tế đất nước. Thiệt hại sẽ khó có thể lường hết, nếu một ngày nào đó, hệ thống cáp liên lạc quốc tế của một quốc gia đột nhiên bị cắt đứt. Do tính chất nghiêm trọng của vấn đề, pháp luật hình sự nhiều nước coi hành vi cắt trộm, phá hoại cáp Viễn thông là tội phạm hình sự cần phải xử lý nghiêm.

Thứ hai, chi phí đầu tư vào mạng lưới Viễn thông là rất lớn. Trong tổng đầu tư hạ tầng xã hội, đầu tư vào Viễn thông, đặc biệt là phát triển hạ tầng mạng lưới Viễn thông thường chiếm tỷ trọng đáng kể, không phải tập đoàn kinh tế nào cũng luôn sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu đó. Ngay cả khi Nhà nước trực tiếp là nhà đầu tư, để có được một mạng lưới Viễn thông theo kịp với nhu cầu phát triển cũng cần phải thực hiện theo lộ trình, nhất là với những quốc gia đang phát triển. Chủ thể nắm giữ hạ tầng Viễn thông đồng nghĩa với việc nắm giữ hàng loạt thông tin nhạy cảm, liên quan mật thiết đến bí mật của cộng đồng trong xã hội, bao gồm: bí mật nhà nước, bí mật kinh doanh đến bí mật đời tư của từng cá nhân.v.v…, do vậy, các nước trên thế giới luôn xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ lĩnh vực này, nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia cũng như quyền lợi chính đáng của cộng đồng xã hội.

Với tính đặc thù nêu trên, lịch sử ngành Viễn thông trên thế giới cho thấy, ở mỗi quốc gia, vào thời kỳ đầu của sự phát triển ngành Viễn thông, thường có một chủ thể nắm giữ vị trí độc quyền và thuộc sở hữu Nhà nước.

Xu hướng mở cửa thị trường, tạo sự cạnh tranh, không chỉ giữa các thành phần, chủ thể kinh tế trong nước, mà có sự tham gia của cả các chủ thể nước ngoài đang là xu hướng phổ biến đối với các nền kinh tế, là đòi hỏi mang tính bắt buộc với các nước tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) - sân chơi thương mại lớn nhất trên toàn thế giới. Cùng với xu thế cạnh tranh mang tính tất yếu nêu trên, thị trường Viễn thông xuất hiện những DN Viễn thông mới bên cạnh những DN vốn vẫn giữ thế độc quyền trước đây. Lợi thế về vốn, kinh nghiệm quản lý - kinh doanh, thị phần và đặc biệt là hạ tầng mạng vật lý Viễn thông đã giúp cho các DN giữ thế độc quyền trước đây chuyển sang một vị thế mới mà luật pháp các nước thường định danh là: “DN Viễn thông chiếm thị phần khống chế” hay “DN có vị trí thống lĩnh thị trường” .v.v…

Với mục tiêu hướng tới thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực Viễn thông, một mặt bảo đảm lợi ích người tiêu dùng, chống sự lũng đoạn, chi phối thị trường, nâng cao năng lực kinh doanh của các DN Viễn thông, giảm thiểu chi phí chung của toàn xã hội cũng như phát huy tối đa hiệu quả sử dụng mạng lưới Viễn thông công cộng, pháp luật các nước buộc các Nhà cung cấp dịch vụ (NCCDV) độc quyền trước đây phải chia sẻ hạ tầng mạng lưới của mình cho các chủ thể mới tham gia thị trường bằng cách, cho phép họ kết nối mạng lưới, dịch vụ vào hạ tầng sẵn có của mình. Để xác nhận và tiến hành việc kết nối, các bên cùng nhau ký một thoả thuận, gọi là “Thoả thuận kết nối”. Xét dưới góc độ quản lý nhà nước, điều này là cần thiết, hợp quy luật, mang lại lợi ích lâu dài, tạo động lực phát triển nhanh và bền vững. Tuy nhiên, các NCCDV chiếm thị phần khống chế lại không nghĩ như vậy. Việc kết nối Viễn thông dẫn đến sự chia sẻ về lợi ích. Biểu hiện cụ thể là sự chia sẻ về sử dụng mạng lưới Viễn thông, dùng chung cơ sở hạ tầng, chia sẻ khách hàng, chi phí, giá cước, trình độ quản lý, nhân lực kỹ thuật.v.v… cũng đồng nghĩa với chia sẻ thị trường. “Miếng bánh Viễn thông” nay buộc phải phân chia làm nhiều phần, trong khi năng lực hạ tầng mạng không thể ngay lập tức “nhân đôi, nhân ba”, điều đó cũng có nghĩa là chất lượng dịch vụ phần nào bị giảm sút. Để bảo vệ vị thế của mình, một tình trạng phổ biến xảy ra trên thị trường giai đoạn này là các NCCDV cũ thường có những động thái nhằm ngăn cản, hạn chế bớt sự cạnh tranh của các DN mới. Vì vậy, tranh chấp luôn có nguy cơ và điều kiện để xảy ra, đặc biệt là ở những giai đoạn đầu của sự mở cửa thị trường. Thêm vào đó, ngày nay, công nghệ mới cho phép người sử dụng (NSD) có nhiều sự lựa chọn đối với các dịch vụ Viễn thông cơ bản. Một NSD thuộc DN Viễn thông này có thể dùng những thiết bị đầu cuối như: Điện thoại cố định, máy tính, điện thoại di động .v.v... để liên lạc với NSD hay khách hàng của nhà cung cấp dịch vụ khác. Chỉ có thể thực hiện được như vậy khi có sự kết nối giữa những NCCDV với nhau. Tuy nhiên, đối với các NCCDV lớn, có khả năng chi phối thị trường thì luôn nghĩ ra vô vàn lý do để từ chối, hạn chế hoặc gây khó dễ đối với yêu cầu kết nối này để giữ thị phần. Đây cũng là lý do chính khiến dẫn tới tranh chấp kết nối Viễn thông. 

Như vậy, nhìn chung, điều kiện tồn tại của tranh chấp kết nối là thị trường tự do cạnh tranh, nguyên nhân cơ bản của tranh chấp kết nối Viễn thông là sự xung đột về lợi ích và vị thế trên thị trường giữa các NCCDV. Theo một tài liệu về giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông3, một số nguyên nhân trực tiếp, phổ biến dẫn đến tranh chấp kết nối Viễn thông được thống kê, bao gồm:

(1) Khi NCCDV chi phối thị trường không ban hành, hoặc không tiêu chuẩn hoá Thoả thuận kết nối mẫu;

(2) Khi các bên không tuân thủ về thời gian kết thúc đàm phán;

(3) Không thoả thuận được về phí kết nối;

(4) Khi chất lượng của dịch vụ kèm theo kết nối không được đảm bảo;

(5) Khi các điều khoản khác trong Thoả thuận kết nối không được tuân thủ;

(6) Bên mới gia nhập thị trường tìm cách lôi kéo khách hàng của NCCDV độc quyền thông qua những hành vi cạnh tranh không lành mạnh;

(7) NCCDV chi phối thị trường hạn chế thông tin về những khách hàng lớn.v.v...

b) Bản chất, đặc điểm của tranh chấp kết nối Viễn thông

Để giành thị phần, các DN Viễn thông phải nâng cao chất lượng dịch vụ và xây dựng chính sách chăm sóc khách hàng tốt. Sự cạnh tranh này diễn ra quyết liệt, không khoan nhượng. Nhưng cũng vì quyền lợi NSD và để mở rộng hơn nữa thị trường, nhiều DN Viễn thông cũng phải tìm cách thỏa thuận, hợp tác thông qua một văn bản gọi là “Thỏa thuận kết nối”, cho phép mạng cùng dịch vụ của các bên được kết nối với nhau. Vì vậy, có thể nói, thoả thuận kết nối Viễn thông mang bản chất của hợp đồng, một dạng hợp đồng đặc biệt. Sự đặc biệt này thể hiện ở động cơ đi đến ký kết hợp đồng. Nếu như trong những hợp đồng thương mại thông thường, các bên đều mong muốn hướng đến vì cả hai đều tìm thấy lợi ích của mình trong đó, nhưng đối với thoả thuận kết nối, dường như là một dạng hợp đồng “bắt buộc”, trong đó động lực của một trong hai bên (thường là bên đang giữ vị thế độc quyền) là không rõ ràng hoặc rất yếu. Chính vì “Thỏa thuận kết nối” là một dạng hợp đồng, do vậy, tranh chấp kết nối, mang bản chất của tranh chấp hợp đồng. Hơn nữa, là tranh chấp hợp đồng kinh tế, thương mại vì: Các bên trong tranh chấp kết nối Viễn thông là những chủ thể kinh doanh; Mục đích của tranh chấp cũng chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận. Căn cứ vào thực tiễn, các quy định pháp lý về Viễn thông của Việt Nam và một số nước trên thế giới, tranh chấp kết nối Viễn thông có một số đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, tranh chấp kết nối Viễn thông nảy sinh trong lĩnh vực Viễn thông. Lĩnh vực Viễn thông bao gồm nhiều quan hệ khác nhau, trong đó có thể phân ra 3 nhóm cơ bản: (1) Quan hệ giữa các chủ thể với cơ quan quản lý Viễn thông; (2) Quan hệ giữa NSD dịch vụ với các NCCDV; (3) Quan hệ giữa những NCCDV với nhau. Tranh chấp kết nối Viễn thông nảy sinh trực tiếp từ nhóm quan hệ thứ ba. Trong quan hệ giữa các NCCDV với nhau, quan hệ quan trọng và phổ biến nhất là quan hệ liên quan đến kết nối mạng và dịch vụ Viễn thông. Chỉ được coi là tranh chấp kết nối Viễn thông khi tranh chấp giữa các NCCDV nảy sinh từ quan hệ kết nối Viễn thông.

Thứ hai, chủ thể trong tranh chấp kết nối Viễn thông luôn là những NCCDV Viễn thông (chủ yếu là thoại cố định và di động), mặc dù, ngoài DN Viễn thông, trong lĩnh vực Viễn thông còn có NSD, chủ mạng Viễn thông dùng riêng, đại lý dịch vụ Viễn thông.v.v…Hiện nay, các NCCDV Viễn thông được phân chia thành nhiều loại khác nhau và căn cứ vào tiêu chí khác nhau có thể có nhiều cách phân loại. Ví dụ: Căn cứ vào dịch vụ cung cấp, người ta chia thành DN cung cấp dịch vụ thoại, DN cung cấp dịch vụ Internet .v.v... Trong các DN cung cấp dịch vụ thoại lại được phân chia nhỏ hơn: DN thoại cố định, thoại đường dài, thoại nội hạt, thoại di động, thoại quốc tế v.v… DN cung cấp dịch vụ Internet được chia thành: DN cung cấp dịch vụ kết nối Internet, dịch vụ truy nhập Internet và dịch vụ ứng dụng Internet .v.v…; NCCDV Viễn thông cũng có thể được phân thành DN chuyên cung cấp hạ tầng mạng Viễn thông (DN được phép đầu tư phát triển mạng lưới đường truyền vật lý và cho các NCCDV khác thuê lại để cung cấp dịch vụ Viễn thông đến khách hàng) và DN chuyên cung cấp dịch vụ Viễn thông. Thông thường, trên thực tế, việc phân loại trên chỉ là tương đối. Ví dụ như Việt Nam: Một NCCDV Viễn thông thường cùng một lúc kinh doanh nhiều loại dịch vụ Viễn thông, kinh doanh và phát triển cả đường trục, cho thuê mạng lưới Viễn thông.v.v…do vậy, đôi khi người ta không phân định rõ ràng khi nào NCCDV hoạt động với tư cách cung cấp dịch vụ Viễn thông, khi nào với tư cách phát triển đường trục .v.v…Về cơ cấu chủ thể của tranh chấp kết nối Viễn thông, cần lưu ý: Để sử dụng được dịch vụ Viễn thông, NSD cũng phải kết nối mạng Viễn thông của mình (thường khá đơn giản như chỉ gồm vài ba chiếc máy điện thoại, hoặc vi tính) với mạng của NCCDV. Về bản chất, đây cũng là thoả thuận kết nối. Tuy nhiên, tranh chấp giữa NSD liên quan đến việc chậm kết nối, hoặc trục trặc về kỹ thuật đường truyền, cước sử dụng hay cổng kết nối .v.v… không được gọi là tranh chấp kết nối Viễn thông. Pháp luật các nước và thông lệ quốc tế nhìn chung chỉ thừa nhận tranh chấp giữa các NCCDV trong quan hệ kết nối mới được coi là tranh chấp kết nối Viễn thông.

Thứ ba, về hình thức giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông.

Cũng giống như việc giải quyết các tranh chấp thương mại nói chung khác, hiện nay, trên thế giới tồn tại một số hình thức giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông phổ biến như: Thương lượng, hòa giải, tòa án, trọng tài. Bốn hình thức này chia làm hai loại.

+ Loại thứ nhất: Tự giải quyết tranh chấp

Tự giải quyết tranh chấp là hình thức các bên trong tranh chấp tự giải quyết mà không cần có sự xuất hiện của bên thứ ba. Hình thức này thường được gọi là Thương lượng”:

Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp không có sự xuất hiện của bên thứ ba. Trong thương lượng, các bên cùng nhau trình bày quan điểm, chính kiến, bàn bạc, tìm các biện pháp thích hợp và đi đến thoả thuận thống nhất để tự giải quyết bất đồng. Thương lượng, nếu thành công sẽ đem lại hiệu quả tức thì. Tuy nhiên, thương lượng đòi hỏi các bên phải có thiện chí, trung thực, hợp tác, và phải am hiểu về chuyên môn pháp lý. Gặp vụ việc phức tạp, các bên có thể chỉ định những chuyên gia, những tổ chức có trình độ chuyên môn thay mặt và đại diện cho mình để tiến hành thương lượng.

Kết quả của quá trình thương lượng là những cam kết, thoả thuận về những giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ vướng mắc, bất đồng phát sinh liên quan đến kết nối. Hình thức pháp lý ghi nhận kết quả thương lượng thường thể hiện bằng biên bản. Nội dung chủ yếu của nó bao gồm: Vướng mắc chính trong kết nối; ý kiến mỗi bên; đề xuất giải pháp và cam kết thực hiện. Khi biên bản thương lượng được lập một cách hợp lệ, những thoả thuận trong biên bản thương lượng được coi là có giá trị pháp lý như hợp đồng và đương nhiên nó có ý nghĩa bắt buộc đối với các bên. Trong trường hợp kết quả thương lượng không được một bên tự giác thực hiện vì thiếu thiện chí, biên bản thương lượng sẽ được bên kia sử dụng như một chứng cứ quan trọng để xuất trình trước cơ quan tài phán, để yêu cầu các cơ quan này thừa nhận và cưỡng chế thi hành những thoả thuận nói trên.

Thương lượng là hình thức khá phổ biến, thích hợp cho việc giải quyết  tranh chấp về kết nối. Hình thức này được các NCCDV ưa chuộng, vì nó đơn giản lại không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý phiền phức, ít tốn kém hơn và nói chung không làm phương hại đến các quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên cũng như giữ được các bí mật kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm như vậy, việc giải quyết tranh chấp bằng hình thức này còn vướng phải một hạn chế, đó là: việc tham gia thương lượng không chỉ đòi hỏi các bên có thiện chí, trung thực, hợp tác mà còn phải có kiến thức cần thiết về chuyên môn và pháp lý, điều này không phải dễ dàng có được đối với mỗi bên tranh chấp.

+ Loại thứ hai: Giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba

Thông qua bên thứ ba là những hình thức giải quyết tranh chấp được sử dụng nhiều nhất hiện nay, bao gồm: Hòa giải, Trọng tài, Toà án.

Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba độc lập, do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định, làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột nhằm chấm dứt tranh chấp bất hoà. Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Hoà giải là việc thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hay xích mích một cách ổn thoả”. Từ điển Luật học Anh-Mỹ của Black định nghĩa: “Hoà giải là một quá trình giải quyết tranh chấp mang tính riêng tư, trong đó hoà giải viên là người thứ ba trung gian giúp các bên tranh chấp đạt được một thoả thuận”.

Hoà giải là giải pháp mang tính chất tự nguyện, tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của các bên. Bên thứ ba với tính chất là trung gian hoà giải phải có vị trí độc lập đối với các bên. Điều đó có nghĩa là, bên thứ ba này không ở vị trí xung đột lợi ích đối với các bên hoặc không có lợi ích gắn liền với lợi ích của một trong các bên liên quan đến vụ việc đang có tranh chấp. Bên thứ ba làm trung gian hoà giải thường là cá nhân, tổ chức có trình độ chuyên môn, kiến thức pháp lý và có kinh nghiệm về những vụ việc có liên quan đến những tranh chấp kết nối. Nhiệm vụ của họ là xem xét, phân tích, đánh giá và đưa ra những ý kiến, nhận định bình luận về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ và những vấn đề khác có thể liên quan để các bên tham khảo; đề ra những giải pháp, những phương án thích hợp để các bên tham khảo, lựa chọn và quyết định. Trên thực tế, có hai hình thức hoà giải: Hoà giải ngoài tố tụng và hoà giải trong tố tụng. Hoà giải ngoài tố tụng là hình thức hoà giải thông qua người thứ ba được các bên lựa chọn giải quyết tranh chấp. Hình thức này thích hợp cho việc giải quyết tranh chấp mà ở đó, ngoài yếu tố thiện chí của các bên, còn có các vấn đề đòi hỏi chuyên môn, mà tự các bên khó có thể xem xét đánh giá chính xác, khách quan được. Hoà giải trong tố tụng là việc bên tài phán trước khi xem xét ra phán quyết yêu cầu các bên tự thoả thuận giải quyết tranh chấp như một nỗ lực, cố gắng cuối cùng trên tinh thần tôn trọng quyền tự quyết của các bên. Hoà giải trong tố tụng là một bước bắt buộc của thủ tục tố tụng. Hoà giải trong tố tụng được tiến hành tại toà án hay trọng tài khi các cơ quan này giải quyết  tranh chấp theo yêu cầu của các bên.

Giải quyết tranh chấp kết nối bằng toà án là hình thức giải quyết  tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán nhà nước, nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế. Do đó, các bên thường tìm đến sự trợ giúp của toà án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích của mình khi họ thất bại trong cơ chế thương lượng, hoà giải hoặc không muốn lựa chọn trọng tài để giải quyết  tranh chấp.

Có thể nói, việc giải quyết tranh chấp bằng toà án được khẳng định là một hình thức giải quyết có trình tự tố tụng chặt chẽ và tính khả thi của hiệu lực phán quyết. Tuy nhiên, thủ tục này thường mất nhiều thời gian hơn, chi phí cao hơn so với các hình thức giải quyết tranh chấp khác. Thêm vào đó, nguyên tắc xét xử công khai tại toà án không được giới DN đánh giá là nguyên tắc có thể bảo vệ được bí mật kinh doanh và uy tín của họ trên thương trường. Điều đó làm hạn chế khả năng lựa chọn của các DN đối với toà án khi phát sinh tranh chấp. Cũng cần phải nói rằng, kết nối Viễn thông là một lĩnh vực liên quan mật thiết đến kiến thức kỹ thuật, công nghệ cao, do vậy, hiện nay, rất nhiều các thẩm phán không có đủ kinh nghiệm và kiến thức để giải quyết tốt vụ việc.

Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến trên thế giới trong lĩnh vực thương mại nói chung, viễn thông nói riêng. Có hai loại trọng tài, trọng tài thường trực và trọng tài vụ việc. Đặc điểm của giải quyết bằng trọng tài là hoàn toàn do các bên tự quyết định. Trọng tài chỉ có thẩm quyền tham gia theo ý chí của các bên. Trong lĩnh vực tranh chấp Viễn thông, trọng tài được coi là hình thức giải quyết thay thế, bổ sung, bên cạnh hình thức giải quyết chính thức.

Ngoài những hình thức giải quyết phổ biến trên đây, trong lĩnh vực Viễn thông, để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông, các nước cũng hình thành nên một hình thức giải quyết khá đặc biệt, nó là tổng hòa những đặc trưng của giải quyết bằng hình thức tòa án, trọng tài, thỏa thuận, hòa giải, thêm vào đó là những yếu tố có tính kỹ thuật, công nghệ Viễn thông. Sự hòa quyện này cho ra đời một hình thức hòa giải khá linh động, mềm dẻo, phù hợp với đòi hỏi về tính liên tục, thông suốt của thông tin liên lạc. Hình thức này chưa được đặt tên cụ thể, rõ ràng, tuy nhiên, có thể nó được giao cho Cơ quan quản lý Viễn thông quốc gia, một tòa án đặc biệt, trọng tài, hay cơ quan quản lý cạnh tranh đảm nhận. Đây cũng là một nét khác biệt khi nói về đặc thù của giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông.

Thứ tư, như đã trình bày ở trên, tranh chấp kết nối Viễn thông mang bản chất của tranh chấp hợp đồng. Tuy nhiên, không giống như đa phần các tranh chấp hợp đồng khác, tranh chấp kết nối Viễn thông nảy sinh ngay cả khi các bên đang trong giai đoạn đàm phán. Đặc điểm này xuất phát từ quy định pháp lý tồn tại trong hệ thống pháp luật của hầu hết các nước, đó là: Các DN chiếm ưu thế trong thị trường phải chủ động đưa ra một thoả thuận kết nối mẫu làm căn cứ cho việc đàm phán và ký thoả thuận kết nối cho các DN mới bước vào thị trường. Hành vi không ban hành hoặc tiêu chuẩn hoá một thoả thuận kết nối mẫu của các NCCDV cũng là một trong những nguyên nhân phổ biến dẫn đến tranh chấp về kết nối Viễn thông trên thế giới hiện nay. 

Thứ năm, Tranh chấp kết nối Viễn thông không mang tính “một mất, một còn”, mà các bên vừa là đối thủ, vừa là đối tác của nhau. Có thể nói tranh chấp kết nối Viễn thông là sự tranh chấp trong “hoà bình”. Với tranh chấp kết nối Viễn thông, quan hệ giữa các bên vẫn tiếp tục được duy trì, trong nhiều trường hợp, việc giải quyết tranh chấp mới chỉ là thời điểm bắt đầu của một giai đoạn quan hệ mới. Đặc điểm này tác động rất lớn đến quá trình xây dựng các quy định pháp lý liên quan đến giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông. Mọi cơ chế giải quyết không đảm bảo được tính mềm dẻo, linh hoạt và nhanh chóng đều không đáp ứng được yêu cầu. Đồng thời, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp phải hướng đến mục tiêu đảm bảo vẫn gắn kết được mối quan hệ “hậu kết nối” giữa các chủ thể.  

Thứ sáu, tranh chấp kết nối Viễn thông liên quan mật thiết tới quyền lợi các bên thứ ba như: NSD dịch vụ, nhà nước.

Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm: “Tranh chấp kết nối Viễn thông” là một dạng đặc biệt của tranh chấp thương mại, nảy sinh trong lĩnh vực Viễn thông, liên quan đến việc đàm phán, ký kết, thực hiện “Thoả thuận kết nối” giữa các DN cung cấp dịch vụ, nhằm mục tiêu tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ trên cơ sở một “Thỏa thuận kết nối” phù hợp với lợi ích các bên, lợi ích nhà nước và lợi ích của cộng đồng NSD dịch vụ.

2. Phân loại tranh chấp kết nối Viễn thông

Căn cứ vào nội dung của vụ tranh chấp, tranh chấp kết nối Viễn thông có thể phân thành:

- Tranh chấp liên quan đến việc NCCDV chi phối thị trường không ban hành, hoặc không tiêu chuẩn hoá Thoả thuận kết nối mẫu;

- Tranh chấp khi các bên không tuân thủ về thời gian kết thúc đàm phán;

- Tranh chấp khi các bên không thoả thuận được về phí kết nối;

- Tranh chấp khi chất lượng của dịch vụ kèm theo kết nối không được đảm bảo;

- Tranh chấp khi các điều khoản khác trong Thoả thuận kết nối không được tuân thủ;

- Tranh chấp khi NCCDV chi phối thị trường hạn chế thông tin về những khách hàng lớn (thường là những NCCDV khác cùng kết nối vào mạng của NCCDV độc quyền);

Tại Việt Nam, hiện nay theo Quyết định 12/2006/QĐ-BCVT, nội dung tranh chấp thực hiện kết nối bao gồm: Tranh chấp về đăng ký kế hoạch dung lượng kết nối; Tranh chấp về ký kết Hợp đồng cung cấp dung lượng kết nối; Tranh chấp về điều chỉnh kế hoạch dung lượng kết nối; Tranh chấp về thực hiện mở rộng dung lượng kết nối; Những tranh chấp khác khi thực hiện kết nối.

Căn cứ vào chủ thể tham gia tranh chấp, có thể phân thành:

- Tranh chấp kết nối giữa doanh nghiệp cung cấp dịch cố định với DN cung cấp dịch vụ di động.

- Tranh chấp giữa DN di động với nhau

- Tranh chấp giữa DN cung cấp dịch vụ Viễn thông nội hạt với đường dài.

- v.v…

Hiện nay, tại Việt Nam, theo Quyết định 12/2006/QĐ-BCVT, căn cứ vào chủ thể, có tranh chấp giữa các DN Viễn thông kinh doanh mạng Viễn thông cố định (nội hạt, đường dài trong nước, quốc tế) và mạng Viễn thông di động (nội vùng, toàn quốc) với nhau.

3. Tranh chấp kết nối Viễn thông và tranh chấp thương mại thông thường

Tranh chấp kết nối Viễn thông là trường hợp đặc biệt của tranh chấp thương mại, so với tranh chấp thương mại thông thường, tranh chấp kết nối Viễn thông có một số khác biệt cơ bản sau:

Thứ nhất, chủ thể trong tranh chấp thương mại là các thương nhân, bao gồm: Cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên (Khoản 6, Điều 5 Luật Thương mại Việt Nam). Trong khi chủ thể tranh chấp kết nối Viễn thông là các DN Viễn thông, cũng là thương nhân, nhưng bao giờ cũng là pháp nhân mà không bao gồm chủ thể là cá nhân.

Thứ hai, tranh chấp kết nối Viễn thông luôn phát sinh từ thoả thuận kết nối (một dạng hợp đồng thương mại) và phát sinh ngay cả trong giai đoạn các bên chưa ký kết. Trong khi tranh chấp thương mại có thể là tranh chấp phát sinh từ hợp đồng (sau khi ký), ngoài hợp đồng hoặc hành vi vi phạm pháp luật. 

Thứ ba, với tranh chấp thương mại thông thường, việc giải quyết được thực hiện thông qua hình thức thoả thuận, trọng tài, trung gian hoà giải hoặc toà án, nhưng trong tranh chấp kết nối Viễn thông, hình thức hiệp thương thông qua trung gian hoà giải của cơ quan quản lý hành chính nhà nước về Viễn thông vẫn đóng vai trò quan trọng và được thừa nhận như một trong những hình thức giải quyết phổ biến.

Thứ tư, tranh chấp thương mại có thể dẫn đến chấm dứt mối quan hệ giữa các bên (đôi khi mục tiêu của tranh chấp là để chấm dứt quan hệ). Trong khi với tranh chấp kết nối Viễn thông, quan hệ giữa các bên vẫn tiếp tục được duy trì, trong nhiều trường hợp, việc giải quyết tranh chấp mới chỉ là điểm bắt đầu của một giai đoạn quan hệ mới.  

 Thứ năm, trong đa số trường hợp, tranh chấp thương mại chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên tham gia, nhưng trong tranh chấp kết nối Viễn thông còn ảnh hưởng tới quyền lợi của nhà nước và người tiêu dùng.

Dương Quốc Huy, Nguyễn Thúy Quỳnh, Trần Hoài Văn

Tài liệu tham khảo

[1]. Brown and Marriot, ADR Principles & Practice, 2nd Edition, Nov. 1999, Sweet & Maxwell, page 2.

[2]. D. Foskett Q.C. in The Law and Practice of Compromise, quoted in Brown and Marriott, page 2.

[3]. Disputes resolution settlement procedures-Bornholm, October 2003 trong khôn khổ của CEPT- the European Conference of Postal and Telecommunications Administrations.

[4]. Commission Directive 2002/77/EC - 16 September 2002 - on competition in the markets for electronic communications networks and services.

[5]. Directive 2002/21/EC of the European Parliament and of the Council - 7 March 2002 - on common regulatory framework for electronic communications networks and services.

[6]. Luật Viễn thông các nước: Australia, Ba Lan, Anh, Mỹ, Bungary, Canada, Trung Quốc.

[7]. Luật kết nối Viễn thông Đan Mạch, Bỉ, Australia, ITU, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, tanzania, Trung Quốc, Botswana.

[8]. Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông.

[9]. Nghị định 160/2004/NĐ-CP, ngày 3/4/2004, quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông về Viễn thông.

[10]. Quyết định số 12/2006/QĐ-BBCVT ngày 26/4/2006 của Bộ Bưu chính, Viễn thông Quy định về thực hiện kết nối giữa các mạng viễn thông công cộng.

[11]. Luật thương mại Việt Nam