“Thiết lập chương trình nghị sự” trong môi trường truyền thông Internet
Sự phát triển của các phương tiện truyền thông mới đã và đang tác động mạnh mẽ đến đời sống truyền thông của con người.
Xu hướng toàn cầu hóa “thiết lập chương trình nghị sự” và tính chất xuyên biên giới quốc gia của mạng Internet đã khiến một số “chương trình nghị sự” vốn của một quốc gia được truyền bá khắp toàn cầu, đồng thời trở thành chương trình nghị sự chung trên mạng Internet. Điều này luôn đặt ra cho các cơ quan báo chí truyền thông phải có đối sách như thế nào để ứng xử một cách linh hoạt trước những dòng chảy thông tin vô hạn trong “biển thông tin” ngồn ngộn trên Internet hiện nay.
Những nghiên cứu về lý thuyết truyền thông
![]() |
Ảnh: NEWS.STV.TV |
Gây sự chú ý nhất trong giới nghiên cứu truyền thông là định nghĩa của Harold Dwight Lasswell (1902-1978) - chuyên gia người Mỹ đó là: “Ai nói cái gì bằng kênh nào với ai hiệu ứng như thế nào” (Who (says) What (to) Whom (in) What Channel (with) What Effect). Trong lĩnh vực chính trị, Harold Dwight Lasswell cho rằng, chính trị là ai được gì bao giờ và bằng cách nào (Politics is who gets what, when, and how). Đây cũng chính là vấn đề được thảo luận sôi nổi nhất trong thời kỳ đó, thậm chí một số nhà nghiên cứu đã tiến hành các nghiên cứu thực nghiệm để chứng minh khả năng tác động trực tiếp của truyền thông đến công chúng. Họ cho rằng, truyền thông như “mũi kim tiêm” (viên đạn thần kỳ), có sức mạnh vạn năng trong việc tác động đến nhận thức và hành vi của công chúng. Về mặt kỹ thuật nghiên cứu truyền thông, điểm nổi bật nhất trong giai đoạn này là việc tinh lọc các kỹ thuật điều tra dư luận bằng bảng hỏi, đánh dấu sự phát triển một số lý thuyết truyền thông như: “dòng chảy hai bước” (Two step Flow) (Paul Lazasfelds 1948). Trong lý thuyết này, hiệu quả truyền thông xác định rõ vai trò của “người lãnh đạo quan điểm” (opinion leader) đã tác động đến công chúng như thế nào. Đến năm 1972, lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự (Agenda Setting Theory) do Maxwell Mccombs và Shaw khởi xướng ra đời. Lý thuyết này mô tả khả năng ảnh hưởng của giới truyền thông đối với công chúng thông qua các phương tiện truyền thông. Trong xã hội, nếu một tin tức nào đó được nhắc tới thường xuyên, liên tục và nổi bật, công chúng sẽ nhớ tới và coi nó quan trọng hơn những thông tin khác.
Do vậy, chức năng “thiết lập chương trình nghị sự” là một giả thiết quan trọng trong các lý thuyết truyền thông. Điểm nổi bật của lý thuyết này là truyền thông đại chúng có một chức năng sắp đặt “chương trình nghị sự” cho công chúng, các bản tin và hoạt động đưa tin của cơ quan báo chí truyền thông ảnh hưởng đến sự phán đoán của công chúng tới những “chuyện đại sự” của thế giới xung quanh và tầm quan trọng của chúng bằng cách phú cho các “chương trình” nét nổi bật khác nhau, từ đó có thể tác động và tạo ra sự dẫn đường trong tương lai.
Lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự”
Năm 1968, khi các phương tiện truyền thông ở Mỹ đưa tin rầm rộ về cuộc bầu cử tổng thống của nước này, Maxwell Mccombs và D.Shaw - hai chuyên gia nghiên cứu truyền thông nổi tiếng đã tiến hành các cuộc điều tra cử tri theo cách tiếp cận của lý thuyết truyền thông.
Khác với các nghiên cứu về hiệu quả truyền thông trước đó, ngay từ đầu, lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” không khảo sát sự ảnh hưởng của cơ quan truyền thông đối với công chúng mà quan tâm công chúng suy nghĩ gì (What to think about) chứ không phải “nghĩ như thế nào” (How to think). Tuy nhiên, sau đó một số chuyên gia đã thay đổi quan điểm và đưa ra nhận định: “Thiết lập chương trình nghị sự là một quá trình, nó vừa có thể ảnh hưởng đến việc người ta đang suy nghĩ gì, đồng thời vừa ảnh hưởng đến việc người ta suy nghĩ thế nào” (1).
Ngoài ra, lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” còn chỉ ra rằng, việc đưa tin về thế giới bên ngoài của cơ quan truyền thông không phải là sự phản ánh theo kiểu “soi gương”, mà là một hoạt động lựa chọn có mục đích. Các cơ quan báo chí truyền thông dựa vào giá trị quan và mục đích tôn chỉ, đồng thời căn cứ vào môi trường thực tế để “lựa chọn” vấn đề hoặc nội dung mà họ coi là quan trọng nhất để sản xuất và cung cấp cho công chúng những thông tin “đúng sự thật”.
Một số vấn đề rút ra
Thứ nhất, việc đưa tin trên mạng Internet đôi lúc giống như “virus” trong máy tính, có thể sinh sản với tốc độ chóng mặt. Lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” cho rằng, mức độ quan tâm của công chúng đến các vấn đề trong xã hội chủ yếu bắt nguồn từ tần suất và cường độ mà các chủ đề đó được báo chí đưa tin. Và chắc chắn hoạt động truyền thông trên mạng Internet rất dễ gia tăng tần suất cũng như cường độ đưa tin về một sự kiện nào đó.
Năm 1998, thế giới hết sức quan tâm tới vụ scandal tình ái của Tổng thống Mỹ Bill Clinton. Có thể nói, mạng Internet đã sắp đặt một “chương trình nghị sự” rất nổi bật.
Nhưng năm 1996, khi Tổng thống Bill Clinton tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai, các hãng truyền thông lớn đều đặt ra câu hỏi: Có nên tiếp tục đầu tư nguồn nhân lực và kinh phí khổng lồ để tường thuật tại hiện trường, phỏng vấn hiện trường khi hai đảng tổ chức đại hội? Vì nhiều lý do, các hãng truyền thông lớn của Mỹ quyết định cắt giảm thời lượng đưa tin về đại hội của hai đảng, mạng Internet lại trở thành phương tiện truyền thông chủ lực của cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ. Trong thời gian diễn ra bầu cử, mỗi ứng cử viên đều lập website cho mình và xây dựng chiến lược truyền thông trên mạng Internet riêng biệt. Thông qua mạng Internet, họ tuyên truyền chủ trương, quan điểm cá nhân, đăng tải những thông tin và lời kêu gọi về cuộc bầu cử, thu thập kinh phí, tìm kiếm người ủng hộ và công kích đối thủ…
Có chuyên gia Mỹ bình luận rằng: “Hiện tại mạng Internet chỉ là một chiêu trò mới để các chính đảng của Mỹ đùa cợt với dân chủ mà thôi”, mạng Internet cũng khó có thể thay thế vai trò của các phương tiện truyền thông truyền thống một sớm một chiều, tuy nhiên, vai trò và sự thể hiện của mạng Internet trong thời gian diễn ra bầu cử vẫn nói lên được rằng, độ ảnh hưởng trên phương diện thiết lập chương trình nghị sự của nó sẽ càng ngày càng mạnh mẽ.
Vấn đề chúng ta cần phân tích sâu hơn là, so với các phương tiện truyền thông truyền thống, mức độ ảnh hưởng của mạng Internet tới hoạt động thiết lập chương trình nghị sự và vai trò thiết lập chương trình nghị sự của mạng Internet còn hạn chế. Do vậy, trong một khoảng thời gian nhất định, mức độ ảnh hưởng của mạng Internet tới hoạt động thiết lập chương trình nghị sự sẽ không thể “vượt mặt” phương tiện truyền thông truyền thống.
Mặt khác, trong bối cảnh mạng Internet ngày càng đề cao tính “cá nhân hóa” trong các dịch vụ cung cấp thông tin, vai trò thiết lập chương trình nghị sự của mạng Internet cũng giảm đi mức độ nhất định. Vì hiện nay, khi công nghệ web 2.0 phát triển mạnh, công chúng đều đón nhận dịch vụ mang tính “cá nhân hóa”. Mức độ ảnh hưởng trong hoạt động “thiết lập chương trình nghị sự” của cơ quan truyền thông tới những người có vốn kiến thức sâu rộng, mức độ quan tâm về chính trị cao, có vị trí cao trong xã hội lại khá ít. Điều này cho thấy, chức năng thiết lập chương trình nghị sự có giới hạn nhất định.
Nguồn: nguoilambao.vn