Làm cho thế giới hiểu đúng về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam

(ICTPress) - Hiện nay, tình hình quốc tế có nhiều biến động phức tạp. Những cuộc chiến tranh giữa các nước, các vùng lãnh thổ liên tục xảy ra. Trong đó không ít cuộc chiến tranh, xung đột, đã lợi dụng vấn đề nhân quyền như một chiêu bài (Một nguyên cớ), để những kẻ thù địch, phản động, hiếu chiến… can thiệp và xâm phạm chủ quyền của các quốc gia khác.

Việt Nam vừa trúng cử với số phiếu cao nhất trong số 14 nước và lần đầu tiên trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc. (Phòng họp Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc - Ảnh AP)

Hàng năm, Mỹ tự cho mình quyền công bố “Báo cáo nhân quyền trên khắp thế giới”. Một số nước phương Tây lại tuyệt đối hoá tính toàn cầu, tính phổ cập và đặt vấn đề nhân quyền lên trên biên giới quốc gia, đưa ra luận thuyêt hết sức nguy hiểm rằng: “Nhân quyền cao hơn chủ quyền”.

Gần đây, một vài tờ báo và tổ chức phản động của các nước phương Tây đã lớn tiếng chỉ trích “Việt Nam vi phạm nhân quyền”. Đồng thời phát động chiến dịch tuyên truyền bôi nhọ Việt Nam xung quanh vấn đề Dân chủ và Nhân quyền. Để đáp trả những luận điệu xuyên tạc đó, chúng ta đã nhiều lần công khai trả lời trước các phương tiện thông tin đại chúng về lập trường, quan điểm của Việt Nam đối với vấn đề nhân quyền, dựa trên nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việt Nam trước sau như một, luôn tôn trọng và thực hiện những nguyên tắc đó. Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - nhà nước đầu tiên ở Đông Nam châu Á ngày 2/9/1945 - Hồ Chủ Tịch đã nhắc lại lời Tuyên bố độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Hỳ: “Mọi người sinh ra đều có quyền được sống, trong những quyền ấy có quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Người Việt Nam từ ngàn đời nay vốn nhân đạo, cần cù, giản dị, luôn coi trọng chữ Nghĩa. Xưa kia, đánh giặc giữ nước, giặc thua ta còn cấp lương thảo cho về. Còn đời nay, những kẻ dùng bạo lực quân sự để đàn áp Việt Nam, bắt bớ, ức hiếp dân lành, giết người, cướp của, dùng vũ khí hoá học huỷ diệt sự sống con người và các sinh vật khác lại lớn tiếng cho rằng mình là có nhân quyền và vu cáo chúng ta vi phạm nhân quyền.

Trở lại vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, ngay sau khi giành độc lập dân tộc, một số quyền cơ bản của con người đã được quy định trong hiến pháp 1946 như: Quyền được sống, quyền được mưu cầu hạn phúc, quyền được đi lại… và quyền con người ngày càng được mở rộng trong Hiến pháp 1959. Cho đến Hiến pháp 1980 và gần đây là Hiến pháp 1992, các quyền con người đã được quy định một cách đầy đủ, rộng rãi nhất như: các quyền về kinh tế, văn hoá giáo dục, tôn giáo…

Hiến pháp năm 1992 quy định công dân Việt Nam không phân biệt giới tính, màu da, không phân biệt tôn giáo, dân tộc… mọi người sinh ra đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Mọi công dân Việt Nam đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, tín ngưỡng, tài sản, thư tín, điện thoại… Mọi công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp, tự do sản xuất, kinh doanh, quyền được học tập, quyền được khám chữa bệnh… và nhà nước Việt Nam đảm bảo thực thi các quyền đó. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất do nhân dân trực tiếp lập ra thông qua bầu cử. Quốc hội thay mặt nhân dân giải quyết những công việc hệ trọng của đất nước và giám sát hoạt động của toàn bộ các cơ quan nhà nước khác, chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nhân dân bầu ra các đại biểu quốc hội, song cũng có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với những đại biểu không xứng đáng với trọng trách mà nhân dân giao phó.

Các thế lực phản động, thù địch luôn mong muốn giành lại những gì mà chúng đã mất. Vì vậy chúng sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, viện mọi nguyên cớ, dù là nhỏ nhất để nói xấu chế độ ta, đồng thời chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Chúng cho rằng Việt Nam đã vi phạm nhân quyền trong một số lĩnh vực tư pháp, lao động, tôn giáo. Luận điệu của chúng là: Trong hoạt động xét xử của chúng ta vẫn có hình phạt tử hình. Hay trong sử dụng lao động, người lao động vẫn còn hưởng lương thấp… Những luận điệu trên là không có căn cứ bởi lẽ Hiến chương Liên Hiệp Quốc quy định: Mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới đều có lãnh thổ, chủ quyền riêng do chính quốc gia đó lập ra. Các quốc gia khác có nghĩa vụ tôn trọng và bất khả xâm phạm. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 1992 nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu khoa học, được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ. Các khung hình phạt được quy định trong bộ luật, vừa là sự trừng phạt đối với những kẻ phạm tội, đồng thời là biện pháp răn đe, giáo dục đối với người phạm tội nói riêng và đối với xã hội nói chung. Pháp luật Việt Nam không xét xử người vô tội, chỉ tuyên phạt tử hình đối với những tội đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm đến lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội, xâm phạm đến tính mạng và tài sản của người dân… Xuất phát từ một nhà nước, một chế độ nhân đạo, vì vậy pháp luật Việt Nam luôn dành cho những người phạm tội một cơ hội, một lối thoát đó là: Sẵn sàng giảm nhẹ tội (Cho những người phạm tội được hưởng chế độ khoan hồng) nếu như họ biết ăn năn hối cải…Hình phạt tử hình trong bộ luật Hình sự của Việt Nam không phải là một hình phạt ác độc như nước Mỹ thường nói, bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một bộ phận hợp thành chủ quyền và là công việc nội bộ của nhà nước Việt Nam. Vì vậy, mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đang sinh sống, làm việc tại Việt Nam phải có nghĩa vụ chấp hành. Điều này hoàn toàn phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc.

Đối với vấn đề lao động và việc làm hiện nay ở Việt Nam, phần đông người lao động, đặc biệt là các công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp phải làm việc với thời gian nhiều hơn, tiền lương thấp và chế độ đãi ngộ cũng thấp hơn, thậm chí thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực. Nhưng, những người chỉ trích về nhân quyền ở Việt Nam phải hiểu một điều rằng sau hai cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại, nền kinh tế Việt Nam gượng dậy và đi lên từ con số không. Các nhà máy, xí nghiệp, các công trình thuỷ lợi, các khu rừng và thảm thực vật… bị tàn phá nặng nề do bom đạn và vũ khí hoá học…

Trong quá trình xây dựng lại đất nước, một mặt Việt Nam phải đầu tư phát triển kinh tế xã hội, mặt khác hàng năm chúng ta phải dành một lượng lớn ngân sách cho việc khắc phục hậu quả chiến tranh. Đó cũng là nguyên nhân sâu xa tại sao người lao động Việt Nam chưa có được các chế độ vật chất tốt như những nước phát triển. Nhưng không vì thế mà Nhà nước Việt Nam bỏ qua những quyền cơ bản của con người được quy định trong hiến pháp. Để cụ thể hoá các quyền đó, Bộ luật lao động nước CHXHCNVN đã quy định một cách đầy đủ nhất các quyền của người lao động như: Thời gian làm việc, tiền lương, bảo hiểm… Chủ sử dụng lao động và các cá nhân, tổ chức có liên quan có nghĩa vụ thực thi các quyền đó.

Thực tế cho thấy trong thời gian qua, các quyền của người lao động ngày càng được tôn trọng, thời gian làm việc được rút ngắn, tiền lương được nâng lên. Các chế độ đãi ngộ khác được đảm bảo như: Bảo hiểm, y tế, du lịch, khen thưởng… Người lao động cảm thấy hài lòng với vị trí, công việc cũng như chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Sự cố gắng, nỗ lực của Đảng và Nhà nước không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực lao động và việc làm, mà trải rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các hoạt động xoá đói giảm nghèo, giảm tỷ lệ gia tăng dân số, đảm bảo các dịch  vụ chăm sóc y tế cộng đồng, xoá nạn mù chữ, chú trọng đầu tư phát triển kinh tế vùng sâu vùng xa, đảm bảo công bằng xã hội, giữ gìn an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tính mạng tài sản cho người dân… đã được cộng đồng và các tổ chức quốc tế như: FAO, WHO, UNICEF… thừa nhận. Với việc Việt Nam vừa trở thành thành viên của Hội đồng nhân quyền không chỉ cho thấy sự tin cậy và tín nhiệm của Quốc tế đối với chính sách đúng đắn của Việt Nam mà còn phản bác mạnh mẽ những vu cáo xuyên tạc của các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá Việt Nam trong vấn đề nhân quyền.

Tổ quốc Việt Nam vô cùng thiêng liêng trong trái tim mỗi người Việt Nam. Lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc là lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm kết hợp với dựng nước và giữ nước. Biết bao thế hệ người Việt Nam đã ngã xuống để dành lại độc lập tự do cho dân tộc. Khát vọng tự do ấy chính là quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân Việt Nam, đồng thời cũng là ước mơ của toàn nhân loại. Nhưng chỉ có điều chúng ta nên nhớ, quyền tự do tốt đẹp nhất của mỗi con người, của mỗi dân tộc chính là quyền tự do trong pháp luật.

 Trần Bình Tám

Tin nổi bật