
Tri thức chuyên ngành
Khám phá 5 tính năng mới của Mountain Lion
Submitted by nlphuong on Wed, 01/08/2012 - 07:27(ICTPress) - Có 5 tính năng mới của Mountain Lion đang di chuyển Mac thành một gã khổng lồ, thậm chí iPhone đắt hơn.
(ICTPress) - Khi các thiết bị di động như điện thoại thông minh và máy tính bảng đều đều bổ sung thêm nhiều tính năng, và các hệ điều hành máy tính để bàn và xách tay tiếp tục nỗ lực để đơn giản hóa mọi việc, đó là 2 con đường phải đi.
![]() |
Hệ điều hành Mountain Lion - hệ điều hành mới nhất của Mac OS X, hiện đã hiện diện trên cửa hàng ứng dụng Mac. Có 5 tính năng mới của Mountain Lion đang di chuyển Mac thành một gã khổng lồ, thậm chí iPhone đắt hơn.
Trung tâm thông báo
Khi iPhone cập nhật hệ điều hành iOS 5, nó đã chấm dứt các cảnh báo tự động hiện lên và đối với tất cả. Hiện nay, tất cả những gì diễn ra trên điện thoại của bạn - gồm nhắn tin văn bản, các thư điện tử, và các cập nhật mạng xã hội - xuất hiện trên một menu kéo trượt. Với Mountain Lion, máy Mac của bạn cũng diễn ra tương tự.
Bạn có thể tùy biến trung tâm thông báo (notification center) của bạn để trình diễn các cập nhật cho các ứng dụng khác nhau gồm Facetime và Trung tâm Game, cũng như các lời nhắc lịch trình và các thông báo thư điện tử. Bạn có thể thậm chí đăng tải lên các trang xã hội như Twitter hay Facebook ngay từ cửa sổ thông báo. Tính năng mới này hoàn toàn thuận tiện, nhưng nó cũng phủ nhân việc cần thiết phải trình duyệt web theo cách bạn đã sử dụng cho tới nay đó là Mac của bạn luôn có hướng di động.
Chính tả
Thư ký ảo Siri trên iPhone 4S cực kỳ hữu ích cho việc tìm kiếm thông tin và sáng tạo tin nhắn mà không cần phải chạm tay tới điện thoại thông minh của bạn, và trong khi trải nghiệm Siri toàn diện không có trong Mountain Lion, tính năng chính tả thoại này là một bước đột phá đối với Mac của bạn.
Sử dụng tính năng chính tả cho phép bản viết các ghi chú, viết thư, và trả lời các trao đổi chat đơn giản bằng cách nói rat hay cho việc bạn phải ngồi gõ chữ. Các lợi ích của việc sử dụng tính năng này trên một thiết bị di động là khá rõ ràng - bạn có thể nói nhanh hơn bạn có thể gõ những phím ảo nhỏ bé - nhưng không thể dự báo bao nhiêu người sẽ thực sự sử dụng tính năng này trên Mac của họ, khi bạn có bàn phím đặt trước mặt bạn.
Tích hợp mạng xã hội
Theo cách tương tự thì iOS 5 đã đưa mọi thứ lên iPhone tức thời có thể chia sẻ được qua Facebook và Twitter, Mountain Lion cho phép bạn đẩy mọi thứ thực tế trên màn hình của bạn sang mạng xã hội bạn lựa chọn. Tìm một trang web mà bạn bè Twitter của bạn thích hoặc một tấm ảnh mà bạn muốn dán lên hồ sơ Facebook của bạn? Sẽ có các nút bấm có sẵn để làm được việc này.
Bạn có thể cập nhật nhanh chóng các tài khoản xã hội mà không thực sự phải vào viếng thăm trang hồ sơ riêng của bạn, điều này có thể gây ra ngắt kết nối chốc lát đối với người sử dụng thường xuyên cập nhật, nhưng ít khi kiểm tra các trả lời. Chức năng Twitter có sẵn hiện đã sẵn sàng, trong khi người người hâm mộ Facebook sẽ phải đợi vài tháng trước khi mạng xã hội ưa thích được bổ sung cho Mountain Lion.
iCloud
Việc giới thiệu iCloud là một tin tức tuyệt vời đối với những người sử dụng iPhone muốn đồng bộ mọi thứ như là những lời nhắc (reminder), và các văn bản qua nhiều thiết bị khác nhau. Với Mountain Lion, việc đồng bộ không phải nỗ lực như nhau có thể đến với Mac. Với iCloud, thông tin của bạn sẽ còn mãi mãi trên tất cả các thiết bị của bạn, có nghĩa là bạn có thể làm nhiều thứ như cập nhật lịch iPhone của bạn, các thông báo và các liên hệ ngay từ máy để bàn của bạn hoặc MacBook.
iMessage
Trong thời đại gõ chữ, nhắn tin di động là một tính năng được hàng triệu người sử dụng hàng ngày, và với việc giới thiệu iMessage cho Mac, Mountain Lion cho phép bạn chat với các bạn bè có iPhone mà không cần phải chạm đến máy di động của bạn.
Một khi bạn đăng nhập vào iMessage trên máy Mac của bạn, bạn có thể gửi các tin nhắn chat đến bất cứ ai có iPhone hay iPad. Và không hề phải chạm đến các phím màn hình cảm biến nhỏ bé, thay vào đó bạn có thể để tay bạn lên bàn phím Mac. Tất nhiên, trong khi khả năng để gõ chữ từ máy tính xách tay của bạn hay máy tính để bàn rất thuận tiện, tính năng này chỉ cho phép bạn liên lạc với người khác khi họ đang sử dụng thiết bị iMessage tương thích, mà hiện mới mới chỉ có trên iPhone, iPad và iPod Touch chạy hệ điều hành iOS 5.
Do đó tương lai sẽ nắm giữ điều gì, hiện nay các hệ điều hành di động và máy tính có vẻ sẽ xung đột? Khó có thể nói trước. Nếu xu hướng hiện nay của Apple là giới thiệu các tính năng mới trên iOS trước khi di chuyển chúng tới OS X tiếp tục, chúng ta chỉ cần xem iOS 6 để biết phiên bản kế tiếp của phần mềm Mac sẽ cung cấp điều gì.
Quang Minh


10 công nghệ thú vị nhất tại Olympic London 2012
Submitted by nlphuong on Fri, 27/07/2012 - 08:34(ICTPress) - Chúng ta hãy cùng xem Lễ khai mạc Olympic được diễn ra hôm nay tại London và sẽ thấy thú vị hơn nhiều khi bạn biết những câu chuyện công nghệ.
(ICTPress) - Chúng ta hãy cùng xem Lễ khai mạc Olympic được diễn ra hôm nay tại London và sẽ thấy thú vị hơn nhiều khi bạn biết những câu chuyện công nghệ.
![]() |
Biết được các công nghệ được ứng dụng tại Thế vận hội có lẽ cũng là một sự lôi cuốn của Thế vận hội. Dưới đây là 10 câu chuyện thú vị về các công nghệ ứng dụ tại Olympic London:
Các máy ảnh kiểu người máy: Getty Images lắp đặt các máy ảnh như người máy tại một vài địa điểm ở Thế vận hội. Các máy ảnh này có thể được kiểm soát từ xa và quay 360o. “Sự trợ giúp lớn nhất sẽ đến từ các máy ảnh được dấu trong các đèn pha, nóc nhà và các giằng trong và xung quanh các địa điểm Olympic để cung cấp các hình ảnh từ các nơi mà những người nhiếp ảnh không thể tiếp cận vì các lý do không gian và an ninh, Trong một video YouTube về công nghệ ảnh mới, Getty cho biết máy ảnh này sẽ chụp một số hình ảnh 3D Olympic.
Âm thanh được cải tiến: Nếu bạn thích tin vào phim Tooth Fairy (Chàng tiên răng), không nên đọc câu tiếp theo: nhiều âm thanh bạn nghe trên tivi trong Olympic không thật - ít nhất cảm giác đó là một số âm thanh đã không được ghi trong khi sự kiện diễn ra. Một số âm thanh đã được ghi trước, trong các điều kiện tối ưu, và sau đó được thêm vào khi phát, trang web Atlantic viết. Trang web này đưa ra ví dụ về môn bắn cung, mà một kỹ sư âm thanh Olympic cho biết được dựa trên âm thanh anh này nghe khi xem "Robin Hood." Anh đã lấy âm thanh nằm bằng cách đặt một mic đặc biệt lên mặt đất giữa người bắn cung và mục tiêu, mà như Alexis Madrigal chỉ ra, tạo nên một âm thanh mà không ai thực tế đã nghe thấy tại chỗ.
Đường rãnh hai bên giày chạy: Hãy xem Ma, không đi giày có đinh! Một bề mặt mới trên sân Olympic ở London có nghĩa là người chạy không phải đi giày có đinh. “Không giống như các thiết kế có rãnh khác kết hợp khả năng bám đất và thẩm thấu ở lớp trên của các hột cao su nhỏ, rãnh Mondo tách biệt hai chức năng này, với một lớp lót chống va chạm và một lớp trên cứng tối ưu chống trượt, kéo và dai. Thiết kế này không cần đến đinh trên giày chạy của vận động viên để tập trung vào bề mặt chạy”, BBC cho biết.
Chân giả: được gọi là "Blade Runner" và “những người chạy nhanh nhất mà không có chân”, Oscar Pistorius người Nam Phi sẽ là người đầu tiên cạnh tranh ở Olympic sung sức sử dụng chân giả. Sau khi có một số tranh cãi về liệu lắp đặt các bộ phận cơ thể giả có nên được cho phép thi đấu ở Olympic, Pistorius sẽ chạy 400m và tiếp sức 4x400m nhờ chân lắp giá được làm bằng sợi carbon đặc biệt.
Trí óc dữ liệu của vận động viên: Một số người đang gọi Thế vận hội này là “thế vận hội của Twitter”. Một số khác nói kỳ thế vận hội này là “Olympic dữ liệu”. Nhiều vận động viên đang sử dụng các thiết bị theo dõi giấc ngủ và các hệ thống nắm bắt chuyển động để hiểu, với một mức độ chính xác mới, về cơ thể họ đang hoạt động ra sao. Theo Financial Times, một số công ty thiết bị sinh trắc học đang trao đổi với các vận động viên sự tham gia của họ để lấy dữ liệu mà họ có thể sử dụng để nâng cao các thiết bị theo dõi cơ thể.
Đạp xe ảo: Các vận động viên đua xe đạp đang tập luyện trong một khóa đạp xe của London thậm chí nghĩ rằng đi được hàng ngàn dặm nhờ sử dụng công nghệ ảo. Hãng thông tấn Australia ABC cho biết trong một tin video về công nghệ, những vận động viên đua xe xem một màn hình giống như một trò chơi video nhưng sự thực là một “sự nghỉ ngơi dặm này nối tiếp dặm kia, đồi nối tiếp đồi của khóa học đạp xem đường trường Olympic London”.
Máy chạy bộ của NASA: Vận động viên chạy của Mỹ Shannon Rowbury, trong khi đó đã tập với một máy chạy bộ mô phỏng không trọng lượng. AlterG sử dụng công nghệ chống trọng lực được NASA xây dựng để cho người chạy cảm giác chỉ thấy 20% cân nặng thực sự. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của công ty, Rowbury cho biết chiếc máy này giúp cỗ bắt đầu chạy nhanh hơn sau một chấn thương.
Các bộ đồ bơi công nghệ thấp: Chúng tôi có xu hướng nghĩ Olympic đang trở nên công nghệ cao hơn bao giờ, nhưng các công nghệ mới dĩ nhiên mang lại những tranh cãi và các vấn đề về liệu bao nhiều thì giúp vận động viên nhận được từ các tài liệu khoảng cách tuổi tác và thiết bị. Các bộ đồ bơi Speedo công nghệ cao, được gọi là LZR Racer, được tin cậy là giúp các vận động viên bơi lội phá vỡ các kỷ lục thế giới trong năm 2008. Nhưng các bộ đồ bơi này sẽ bị cấm tại Olympic London, giấy lên các câu hỏi các vận động viên bơi lội sẽ bơi nhanh như thế nào nếu không có sự trợ giúp của công nghệ. Tại một hội nghị tin tức, Michael Phelps, người dành 8 huy chương bạc ở Bắc Kinh cho biết các kỷ lục sẽ giảm ở London vì không có công nghệ. Nếu ai đó muốn có kỷ lục thì điều này sẽ khó thực hiện.
Các vật chặn điện tử: Omega, đồng hồ bấm giờ chính thức của Thế vận hội, lần đầu tiên giới thiệu thiết bị báo xuất phát mới cho các môn bơi lội và và điền kinh ở London. Các vật chặn theo dõi sự xuất phát được điện tử hóa lần đầu tiên. Trước đây, các công nghệ những năm 1970 yêu cầu các vận động viên lùi các khối lại 5 mm để đăng ký khởi động. Các khối xuất phát dành cho bơi lội hiện nay sẽ phát sáng để thông báo ai về vị trí đầu tiên, thứ hai và thứ ba.
Các bộ cảm biến nhảy đá (jump-kick): Taekwondo đã từng gặp phải vấn đề là sẽ bị loại khỏi Olympic nhưng công nghệ đăng ký sức nặng và sự chính xác của các cú ra đòn sẽ giữ môn này ở lại với Olympic. “Tôi nghĩ rằng Taekwondo sẽ thực sự hưởng lợi nhờ công nghệ bởi vì nó đảm bảo các huy chương được trao cho các vận động viên xuất sắc nhất, mà không phải ai khác do lỗi từ trọng tài. Đây là một cơ hội tuyệt vời cho Taekwondo tiếp tục có mặt ở Olympic. Không có nhiều môn thể thao có được công nghệ này. Công nghệ này sẽ chấm dứt lỗi của con người trong Taekwondo”, Chủ tịch liên đoàn Taekwondo Choue Chung-won cho Reuters biết.
Quang Minh

iPhone 5: lộ diện 6 ưu điểm mới
Submitted by nlphuong on Mon, 23/07/2012 - 08:37(ICTPress) - iPhone 4S vẫn bán chạy nhưng những rò rỉ về những tính năng iPhone kế tiếp đã bắt đầu. iPhone 5 (nếu có thể gọi là như thế) sẽ có thiết kế mới lại toàn diện, và có thể tấn công thị trường vào tháng 10.
(ICTPress) - Một thân máy mới phẳng, một màn hình 4 inch, và các khả năng cho thẻ tín dụng chỉ là vài tính năng được truyền thông về chiếc máy iPhone kế tiếp của công ty khổng lồ công nghệ Apple.
![]() |
IPhone kế tiếp được cho là có màn hình lớn hơn, pin tốt hơn và khả năng sử dụng máy như là một thẻ tín dụng |
iPhone 4S vẫn bán chạy nhưng những rò rỉ về những tính năng iPhone kế tiếp đã bắt đầu. iPhone 5 (nếu có thể gọi là như thế) sẽ có thiết kế mới lại toàn diện, và có thể tấn công thị trường vào tháng 10, theo các các nguồn tin bên trong cùng với chuỗi cung cấp của Apple. Dưới đây là 6 tính năng được dự báo là sẽ xuất hiện trong chiếc điện thoại bán chạy nhất.
1. Một thân máy kim loại mới
iPhone kế tiếp của Apple có thể được “bọc trong kim loại lỏng” gồm titanium, zirconium, nickel, đồng và các kim loại khác. Hợp chất “không có hình dạng nhất định” này có thể được đổ vào một cái khuôn giống như nhựa để làm những phần siêu mỏng. Khi cứng lại, kim loại lỏng có khả năng bền, chống chịu cao, chống xước và chịu được va đập, và có một tỷ lệ sức bền - trọng lượng cao. Trông nhẹ nhàng và mượt như chất lỏng và có thể nói rằng iPhone mới đặc biệt hợp thời trang. Trong khi kim loại lỏng là “vô cùng bền”, nhưng nó không nhạy cho các tần số vô tuyến. Bạn có nhớ lại vụ việc anten? Tuy vậy cũng không phải quá lo lắng, Ed Oswald ở PC World cho biết. Một số bức ảnh cho thấy một thân nhôm giống như loại sử dụng trong MacBooks. Kim loại trọng lượng nhẹ này, âm thanh kép có thể bao phủ tới 80% phía dưới của máy để chống vỡ.
2. Một màn hình lớn hơn
iPhone kế tiếp có thể có màn hình lớn hơn nhiều - có thể là 4,6 inch so với 3,5 inch hiện nay - và Apple đã bắt đầu đặt hàng các nhà cung cấp, hãng tin Reuters cho biết. Điều này có vẻ thú vị, “một màn hình 4,6 inch có nghĩa là kích cỡ của chính iPhone sẽ lớn hơn nhiều so với hiện tại. Và có vẻ như không thực tế lắm. Có thể: Apple đang thực hiện một màn hình 4 inch để “phù hợp với iPhone có kích thước như hiện nay. Duy trì kích thước như hiện tại có vẻ giống với sự dịch chuyển của Apple. Một thiết bị kích thước cũ nhưng có màn hình khá lớn hơn sẽ cho phép thêm một hàng ứng dụng nữa? Thật là thú vị!
3. Ít kính hơn
Màn hình cảm biến của iPhone hiện nay sử dụng hai lớp kính riêng rẽ để đạt được tới hiệu ứng: Một lớp cảm biến và một lớp màn hình LCD, được xếp chồng lên nhau. Nhưng Apple cho biết sẽ giới thiệu “các panel cảm biến trong điện thoại trên iPhone mới. Điều đó có nghĩa là hai lớp kính riêng rẽ ép lưng vào nhau sẽ được hợp nhất thành một. Không phải chỉ tích hợp các cảm biến vào LCD để làm cho máy mỏng hơn, mà còn làm “tăng chất lượng các hình ảnh được hiển thị”. Một bổ sung khác là iPhone sẽ tiêu thụ ít nguồn hơn nhiều. Ít ánh sáng hơn sẽ cần ít nguồn hơn, được xem là một lợi thế kéo dài tuổi thọ pin của điện thoại.
4. Các jắc cắm mới
Những bức ảnh rò rỉ cho thấy Apple đang sắp xếp lại các jắc cắm. Jắc tai nghe đang được chuyển xuống đáy (iPhone trước), và sẽ sạc nguồn nhờ sử dụng một jắc chuyển đổi (dock connector). Apple đã xác định là chuyển đổi từ một cổng 30 chân sang cổng 19 chân. Ba nhà sản xuất khác nhau cho biết cổng bạn sử dụng để cắm điện thoại của bạn vào máy tính hoặc ổ cắm nguồn sẽ khác hẳn so với những iPhone trước. Các fan sưu tầm các phụ kiện bên thứ 3 cho iPhone và iPad sẽ phải quen với các kết nối mới, như cáp HDMI và đầu sạc.
5. 4G LTE... và pin tốt hơn
Apple đã giới thiệu “mạng tốc độ cao trên iPad mới” và điều này có thể thực hiện với iPhone. Nhưng vấn đề chính với LTE là nó có xu hướng làm giảm tuổi thọ pin. Nếu Apple đã muốn đưa tính năng này vào iPhone 4S, thì Apple đã phải “tăng độ dày của iPhone” để đủ cho cục pin lớn hơn. Hiện nay Apple đã gọt bớt vài millimet ở một số chỗ, iPhone kế tiếp có thể đạt được khả năng pin lớn hơn và tốt hơn để xử lý các mạng nhanh hơn.
6. iWallet
Vào ngày 6/3, Apple đã giành được một “sáng chế” quan trọng cho công nghệ với tên gọi "iWallet”, cho phép người sử dụng “kiểm soát toàn diện các tài khoản tài chính chi nhánh của họ trên iPhone. Công nghệ này sử dụng công nghệ giao tiếp trường gần (Near-Field Communication - NFC) để thực hiện các giao dịch thẻ tín dụng bắng cách giữ thiết bị gần với một bàn phím thanh toán, chuyển iPhone thành một cái ví số hết sức hiệu quả.
QM

Khi nào con bạn được phép dùng ĐTDĐ?
Submitted by nlphuong on Wed, 18/07/2012 - 08:03(ICTPress) - Dù bạn có quan tâm tới mong muốn giao tiếp xã hội của con bạn hay không, ý tưởng cho con một chiếc điện thoại riêng cũng nên được quan tâm.
(ICTPress) - Vào thời điểm này trong lịch sử, điện thoại di động (ĐTDĐ) là một thứ không thể thiếu.
![]() |
Ảnh: Axel Bernstorff/Getty Images |
Không chỉ là thứ luôn mang theo bên mình để giữ liên lạc với mọi người, mà điện thoại thông minh hiện nay đang bùng nổ rất thuận tiện trong làm việc. Chúng là những chiếc máy tính nhỏ bé có thể luôn mang theo, mà không cần quá nhiều thời gian để tìm hiểu hệ điều hành phức tạp. Khi bạn bật điện thoại lên và với chỉ vài nút bấm bạn đã có thể sẵn sàng lướt trong thế giới phẳng.
Điện thoại thông minh như iPhone và Samsung Galaxy S III không còn cái gì đó quá mới mẻ hiện nay nữa, mọi người đều muốn sở hữu một chiếc, trong đó có cả con bạn vì cho rằng không thể không có, tất cả bạn bè của con đã có - và bạn không muốn từ chối con?
Dù bạn có quan tâm tới mong muốn giao tiếp xã hội của con bạn từ tuổi thanh thiếu niên hay không, ý tưởng cho con một chiếc điện thoại riêng cũng nên được quan tâm.
Tại sao con bạn cần một chiếc ĐTDĐ?
Một trong những lý do chính mà cha mẹ nên cho con một chiếc ĐTDĐ là bạn có thể biết con bạn đang ở đâu vào bất cứ thời điểm nào - nếu không phải là bạn muốn biết con bạn đang ở đâu thì ít nhất cũng biết con bạn không sao. Nếu con bạn trả lời điện thoại, có nghĩa là con bạn ổn. Đối với phần lớn các bậc phụ huynh thì sẽ xem xét sự sẵn sàng của con bạn và mức độ trưởng thành. Nếu con bạn đủ lớn (và điều này là khác nhau giữa các gia đình) để đi đến những nơi cùng với bạn bè mà không phải có người đi kèm thì lúc đó có thể cho phép con bạn sở hữu một chiếc ĐTDĐ riêng.
Điều gì sẽ đi cùng với trách nhiệm của đứa trẻ khi sẵn sàng phải trả lời điện thoại của cha mẹ vào bất cứ lúc nào. Bạn cần phải ra quy định rất rõ và không thỏa hiệp. Nếu con bạn không muốn trả lời điện thoại, thì bạn không nên cho con ĐTDĐ.
Có thể cho rằng sẽ nảy sinh vấn đề là con bạn gặp phải việc gì đó. Cọn bạn sẽ có thể nói: “Bố mẹ không tin con? Con sẽ không thể làm bất cứ thứ gì mà con không được phép, con ngượng khi phải nói chuyện với bố mẹ khi con đang ở cùng các bạn”. Tuy nhiên, ý kiến này phải làm rõ cả hai phía. Nếu con bạn thực sự đáng tin cậy và hiểu lo lắng của bạn, con bạn sẽ không ngại trả lời điện thoại mọi lúc.
Một thỏa thuận tối ưu là nên ra một quy định phải trả lời bằng tin nhắn, nếu gọi không nghe. Theo cách này, thì các bạn của con không phải nghe cuộc gọi. Để chắc chắn hơn thì hãy lập một mật khẩu chỉ cho bố mẹ và con để thực hiện xác nhận nhân thực của con bạn. Bạn sẽ biết con bạn sẽ trả lời, chứ không phải là một người bạn đang muốn thực hiện hành vi lừa dối.
Nhiều ứng dụng
Một xem xét khác là khả năng của con bạn để tiết chế việc sử dụng điện thoại riêng. Khả năng sử dụng vượt sự cho phép mỗi tháng là khá cao với con. Bạn hãy sử dụng chương trình của nhà mạng, nếu không muốn có những hóa đơn phiền toái.
Nói chuyện với con trước khi mua chiếc điện thoại mới bổ sung vào kế hoạch hiện nay của bạn để tìm ra chi tiết thời gian sử dụng cho phép mỗi tháng. Đây là một kiểm tra sự trưởng thành của con bạn và khả năng để quản lý trách nhiệm khá hay.
Điều này cũng áp dụng cho các ứng dụng. Hiện có khá nhiều ứng dụng và các trò chơi thú vị và có thể tải tất cả về máy - các ứng dụng rất rẻ. Thậm chí các ứng dụng dưới 1 USD, tuy nhiên nếu không kiểm tra và con bạn không nghĩ điện thoại như là một nguồn cung cấp vô số các trò tiêu khiển. Những giới hạn này nên được thảo luận và được lắng nghe trước khi điện thoại được trao vào tay con bạn.
Điện thoại thông minh hay điện thoại thường?
Nên nhớ rằng không phải vì bạn có iPhone, Windows Phone, hay Android, thì có nghĩa là con bạn sẽ phải có một chiếc. Nếu lý do chính con bạn muốn một chiếc điện thoại để liên lạc, thì bất cứ ĐTDĐ nào cũng có thể làm được.
Tuy nhiên, hiện nay, việc lựa chọn các ứng dụng giáo dục thì chiếc điện thoại thông minh lại là một lựa chọn đáng xem xét. Một số điện thoại có thể tương tác gia đình thuận tiện, như khả năng FaceTime của iPhone.
Cũng nên biết rằng theo dõi GPS là một con phố hai chiều. Bạn muốn duy trì chức năng này để theo dõi con bạn đang ở đâu. Khả năng GPS cũng có nghĩa là cho phép con bạn hiển thị vị trí của con bạn nhờ việc sử dụng các ứng dụng trong đó có các thông tin như một phần của thông tin trạng thái hay siêu dữ liệu trong các bức ảnh. Nếu đây là mối quan ngại, nên chắc chắn bạn biết cách làm thể nào để tắt các dịch vụ vị trí trên điện thoại của con bạn.
Trao chiếc ĐTDĐ đầu tiên cho con bạn có thể làm bạn vui và là một cách tốt để dạy cho con bạn một số trách nhiệm. Hãy cùng trao đổi với con về những gì bạn muốn từ những kinh nghiệm, sau đó cùng đi ra cửa hàng mua một chiếc điện thoại mới.
Akela Talamasca (Tecca)

4 nguy cơ Internet bị “sập”
Submitted by nlphuong on Thu, 12/07/2012 - 08:28(ICTPress) - Phần mềm độc hại “DNSChanger” hôm 9/7 đã ảnh hưởng đến 200.000 máy tính, mặc dù đã có cường điệu nhưng cho thấy những nguy cơ. Bài viết trình bày 4 nguy cơ kết nối Internet có thể bị ngắt trên diện rộng.
(ICTPress) - Internet được thiết kế để trở thành sức mạnh, giải quyết sự hỏng hóc và phân tán, nhưng công nghệ vẫn đang còn ở vào thời kỳ đầu.
![]() |
David Eagleman tin rằng chúng ta cần một kế hoạch an ninh dự phòng để tăng cường Internet |
Thực tế là Web đã không ngừng hoạt động trong các thập kỷ đầu, đôi khi cho chúng ta thấy không bao giờ có lỗi. Nhưng như bất kỳ hệ thống nào, sinh học hoặc nhân tạo, Internet có khả năng bị hỏng.
Phần mềm độc hại “DNSChanger” hôm 9/7 đã ảnh hưởng đến 200.000 máy tính, mặc dù đã có cường điệu nhưng cho thấy những nguy cơ. Dưới đây là 4 nguy cơ kết nối Internet có thể bị ngắt trên diện rộng.
1. Thời tiết trong vũ trụ
Khi bạn nghĩ đến lướt Web, bạn có thể không lo lắng về điều gì đang diễn ra trên bề mặt trái đất cách mặt trời 92 triệu dặm. Nhưng bạn nên nghĩ tới. Ánh sáng mặt trời là một trong những mối đe dọa nhất đối với các hệ thống thông tin liên lạc của chúng ta.
Hãy xem xét các lỗi vệ tinh. Một buổi chiều năm 1998, Galaxy IV, một vệ tinh trị giá 250 triệu USD nằm cách trái đất 35.000 km, bỗng dưng nằm ngoài tầm kiểm soát. Lý do chính được cho là do ánh sáng mặt trời: Mặt trời đã gây làm hỏng Galaxy IV vào thời điểm đó, và nhiều vệ tinh khác của Đức, Nhật Bản, NASA và Motorola, tất cả đều bị lỗi cùng lúc.
Những tác động là ngay tức thời và toàn thế giới. 80% máy nhắn tin lập tức bị lỗi. Các nhà vật lý, quản lý và những người bán thuốc trên toàn nước Mỹ nhớ lại và nhận thấy họ không nhận được cái tin nhắn. NPR, CBS, Direct PC Internet và hàng chục dịch vụ khác cũng không thể hoạt động. Theo ước tính trong những năm gần đây có ít nhất 12 vệ tinh đã biến mất do những tác động của thời tiết trong vũ trụ.
Nhưng không chỉ có vệ tinh làm chúng ta phải lo lắng. Khi một quầng ánh sáng mặt trời mạnh phát ra, nó còn gây ra những cơn bão từ trên trái đất. Sự phát xạ mặt trời lớn nhất được ghi lại cho tới nay là vào năm 1859. Được gọi là vệt ánh sáng Carrington, đã làm nổ đường dây điện báo khắp châu Âu và Mỹ và trở thành một vụ nổ kinh hoàng.
Từ lúc đó, công nghệ phủ lên trái đất đã thay đổi đôi chút. Nếu chúng ta gặp phải kiểu quầng ánh sáng đó vào lúc này, thì điều gì sẽ xảy ra? Đối với các nhà vật lý vũ trụ và các kỹ sư điện câu trả lời là rõ ràng: nó sẽ quét bay các máy biến thế và làm tan chảy các hệ thống máy tính của chúng ta. Trong một vụ việc nhỏ hơn vào năm 1989, một trận bão từ đã làm mất nguồn điện phần lớn Quebec và làm dán đoạn thị trường chứng khoán Toronto trong 3 giờ.
Một vệt ánh sáng mặt trời lớn về lý thuyết có thể làm tan chảy toàn bộ Internet. Động đất, bom và khủng bố không thể tàn phá trong khoảnh khắc như khả năng của quầng mặt trời.
Dù trông cậy các hệ thống liên lạc của hành tinh chúng ta, cả hệ thống vệ tinh và mặt đất, thì vẫn có một nỗ lo. Các trận bão từ lớn kế tiếp sẽ đỉnh điểm vào chu kỳ quầng đen mặt trời vào giữa năm 2013. Chúng ta cùng theo dõi.
2. Chiến tranh mạng
Những cuộc chiến tranh trong tương lai không phải là những cuộc chiến tranh trên chiến trường giữa những người lính khỏe mạnh mà là bởi những đứa trẻ thông minh ngồi trước máy tính uống nước ngọt. Do đó sự phụ thuộc của chúng ta vào mạng, cũng có thể gặp phải những đe dọa.
Tương lai này có thể nhận thấy trong mối quan hệ chặt chẽ giữa các cuộc xung đột vật chất và tấn công mạng. Có thể thấy các cuộc xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan, người Israel và Palestin hay các bên trong sự tan rã của Nam Tư, sự leo thang thô bạo của thế giới thực lập tức được không gian mạng phản ánh.
Các mục tiêu chính trong chiến tranh mạng chủ yếu là các mục tiêu quân sự, nhưng ngày càng có nhiều công ty đa quốc gia cũng trở thành những mục tiêu. Hãy lấy một ví dụ, thậm chí tạm thời, thì bạn đã thấy có nhiều đe dọa tới khả năng kinh tế của đối thủ hơn chứ không phải số người lính hy sinh.
Kể từ khi bắt đầu kỷ nguyên máy tính, những năm 1960, đã có rất nhiều virus máy tính: các chương trình xâm nhập vào một hệ thống chủ để tự tái sản xuất và gửi đi các sao chép mới. Ngay như trong sinh học, khi các máy tính đã phát triển đến phức tạp, sẽ có những virus cùng gia tăng. Và con cháu của virus, “sâu”, thậm chí không cần một hệ thống chủ mà còn nhân lên rất lan tràn qua các mạng.
Dẫu có những phòng vệ tại chỗ, thì những kẻ ăn bám này có phải là mối quan ngại nhỏ nhoi hay không? Quả thực là không nhỏ. Hãy xem con con “sâu” Stuxnet đã khuấy động trong năm 2010. Con “sâu” này đã đi con đường zíc zắc để xâm nhập vào các hệ thống ngành của Iran, lập trình lại các hệ thống này, che dấu những dấu vết của mình và phá hoại các hoạt động nhà máy. Không biết đến từ đâu, Stuxnet đã tự cho thấy là một “kẻ” hủy diệt, không thể ngăn chặn.
Không ai ngạc nhiên khi chiến tranh mạng tương lai sẽ không chỉ liên quan đến quân sự và các mục tiêu ngành mà còn liên quan đến các mục đích dân sinh. Nếu bạn muốn ngăn chặn đối thủ, hãy bắt đầu bằng chia nhỏ mạng của mình.
3. Yếu tố chính trị
![]() |
Trong cuộc bạo loạn trước bầu cử ở Iran năm 2010, chính phủ đã ngắt kết nối Internet |
Đối mặt với sự bạo loạn trước bầu cử 2010 ở Iran, chính phủ lúc đó đã ngắt kết nối Internet 45 phút, được cho là để thiết lập lọc YouTube, Twitter và các trang khác. Ai Cập đã thực hiện việc tương tự trong cuộc cách mạng đầu 2011. Trung Quốc đang tích cực theo đuổi khả năng cắt Internet của mình theo cách này.
Nhưng không chỉ các nước như Iran và Trung Quốc nghĩ đến cách kiểm soát này đối với Web. Ngày 24/6/2010, một ủy ban An ninh nội địa ở Thượng viện Mỹ đã thông qua một dự luật cho phép văn phòng tổng thống thi hành việc ngắt kết nối Internet. Dự luật Bảo vệ không gian mạng này là một Đạo luật Sở hữu quốc gia (National Asset Act - PCNAA), cho phép tổng thống “quyền khẩn cấp ngắt kết nối các mạng khu vực tư nhân hoặc chính phủ trong trường hợp bị tấn công mạng diện rộng hay có tổn thất về con người”.
Quy định ngắt kết nối đột ngột này đã được bỏ ra khỏi phiên bản của dự luật an ninh mạng trước quốc hội hiện nay.
Gần như tất cả các nhà phân tích an ninh Internet cảm thấy đóng cửa Web sẽ mang lại tác hại nhiều hơn là lợi ích, chẳng hạn mức độ phụ thuộc vào Web để kịp thời nắm tin tức, liên lạc với những người thân và việc lan truyền thông tin khủng hoảng có thể đoán trước.
Một chuyên gia có uy tín về an ninh Bruce Schneier xác định ít nhất có 3 vấn đề nảy sinh đối với ý tưởng ngừng Internet. Đầu tiên là hy vọng xây dựng được một đường công sự điện tử sẽ không hoàn thiện bởi vì luôn có hàng trăm cách cho kẻ địch tác chiến vòng ngoài. Không có quốc gia hay nghị định pháp lý nào có thể bít được tất cả các lỗ thủng.
Vấn đề lớn thứ hai là chúng ta sẽ hoàn toàn không thể dự báo các tác động của việc đóng cửa Internet có chủ đích. Schneier cho biết: “Internet là một người máy phức tạp nhất được xây dựng và những khu vực ngừng Internet sẽ có tất cả các loại tác động phụ thuộc không lường trước được”.
Vấn đề chính thứ 3 là lỗ hổng an ninh hiện hữu. Một khi việc ngắt kết nối Internet trong nước đột ngột đã được thực hiện, tại sao một kẻ tấn công mạng lại không tập trung vào việc gì khác?
Dẫu rằng rố người có thể sử dụng Internet vì mục đích tốt trong tình hình khủng hoảng được cho là vượt xa số người có mục đích xấu, nhưng tốt nhất vẫn là cắt đứt truy cập vào Web khi mọi thứ đang trở nên tồi tệ. Dẫu một cuộc thăm dò gần đây của Unisys cho biết 61% người Mỹ đồng ý khái niệm ngắt kết nối Internet đột ngột, nhưng vấn đề này sẽ cần sự thận trọng chắc chắn.
4. Cắt cáp
Mặc dù vệ tinh được sử dụng đáp ứng một lưu lượng Internet nhất định, nhưng hơn 99% lưu lượng Web toàn cầu phụ thuộc vào mạng lưới cáp quang biển được được xem như là một hệ thống thần kinh. Đây là một mục tiêu lớn trong các cuộc chiến tranh, đặc biệt là các điểm nhạy cảm trên hệ thống. Và đây không phải là một dự báo lý thuyết đơn thuần, các trận đánh dưới nước cũng đang diễn ra khốc liệt.
![]() |
Những kỹ thuật viên đang lắp cáp quang vào tháng 10/2011 cho phép Gabon và 22 quốc gia châu Phi có kết nối Internet |
Có đến 3/4 liên lạc quốc tế giữa Trung Đông và châu Âu được thực hiện nhờ hai tuyến cáp quang biển: SeaMeWe-4 và cáp xuyên Á - Âu FLAG của FLAG Telecom. Ngày 30/1/2008, cả hai tuyến cáp này bị cắt, ảnh hưởng nghiêm trọng tới lưu lượng Internet và điện thoại quốc tế từ Ấn Độ đến Ai Cập.
Đến nay vẫn chưa rõ cáp này bị cắt như thế nào và ai cắt và vẫn chưa rõ bao nhiêu cáp đã bị cắt: một số thông tin cho biết có ít nhất là 8. Những nghi ngờ ban đầu là do mỏ neo của tàu, nhưng một phân tích video đã sớm cho thấy không có tàu ở khu vực này từ 12 giờ trước cho đến 12 giờ sau khi vụ việc xảy ra.
Vụ cắt cáp này chỉ là mở đầu. Một vài ngày sau, ngày 1/2/2008, một cáp FLAG Falcon ở vịnh Péc-xích đã bị cắt cách bờ biển Dubai 55 dặm. Ngày 3/2, một cáp giữa Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất vài Qatar lại bị cắt. Ngày 4/2, Thời báo Khaleej cho biết không chỉ những cáp này, mà còn nhiều vụ cắt cáp nữa, một cáp ở vịnh Péc-xích gần Iran, và một cáp SeaMeWe4 xa bờ biển Malaysia.
Những vụ việc này đã dẫn tới việc Internet bị gián đoạn trên diện rộng, đặc biệt là ở Iran. Những nghi ngờ cho thấy việc phá hoại này xuất phát từ một lý do không hề nhỏ: phần lớn tất cả các cáp bị cắt ở khu vực biển Trung Đông là gần các quốc gia hồi giáo. Ai có thể làm việc này? Không ai biết.
Dù sự thực nào đằng sau việc này, chúng ta thấy nếu một chính phủ hay một tổ chức muốn phá hoại viễn thông theo vệt rộng là có thể làm được. Những cáp biển mới đang rất cần thiết để bảo vệ nền kinh tế toàn cầu bởi vì các doanh nghiệp trên toàn thế giới có thể rủi ro do các điểm nhạy cảm của các liên lạc nằm dưới biển.
Dù là khủng bố, chính phủ hay cướp biển, những điểm yếu này trong chuỗi nên được chúng ta cập nhật.
Web dường như là một công nghệ quan trọng đã được phát minh. Chúng ta ở vào thế hệ may mắn được chứng kiến sự khởi đầu, và chúng ta hiện là những người có trách nhiệm đối với sự bảo vệ Internet.
David Eagleman, tác giả được yêu thích của Thời báo New York



Người châu Á phụ thuộc thiết bị di động cao hơn đáng kể so với thế giới
Submitted by nlphuong on Thu, 05/07/2012 - 13:37(ICTPress) - Sự phụ thuộc vào các phương tiện truyền thông cá nhân diễn ra mạnh mẽ với 59% đối tượng khảo sát người châu Á thừa nhận họ không thể không truy cập các mạng xã hội và 67% không thể không nhắn tin SMS trong một ngày.
(ICTPress) - Fortinet® (FTNT), công ty chuyên về lĩnh vực bảo mật mạng hiệu năng cao vừa tiến hành khảo sát toàn cầu mức độ thách thức đối với hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) của doanh nghiệp (DN) bởi hiện tượng thế hệ người dùng đầu tiên Mang Thiết bị Cá nhân (Bring Your Own Device - BYOD) đến nơi làm việc, với mong muốn sử dụng các thiết bị di động của riêng mình.
![]() |
Ảnh minh họa (Nguồn: OBCW) |
Khảo sát cho thấy những nhân viên sử dụng các thiết bị riêng chưa được quan tâm đúng mức đến an ninh, thậm chí có thực tế đáng lo ngại là hầu hết 1 trong 2 nhân viên người châu Á sẽ phản đối chính sách bảo mật của DN về việc cấm sử dụng các thiết bị cá nhân phục vụ công việc tại công sở. Nhìn chung, những phát hiện này nhấn mạnh tính cấp thiết trong việc các DN nên phát triển các chiến lược bảo mật để bảo vệ và quản lý thành công hoạt động BYOD.
Cuộc khảo sát toàn cầu này được tiến hành tại 15 vùng lãnh thổ: Ấn Độ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Nhật, Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Ba Lan và các tiểu vương quốc Ả Rập, kéo dài từ tháng 5 - 6/2012, khảo sát trên 3.800 nhân viên ở độ tuổi 21 - 31 về quan điểm của họ đối với hoạt động BYOD, ảnh hưởng của việc này đối với môi trường làm việc và cách xử lý của họ về vấn đề bảo mật CNTT của DN và cá nhân. Trong số các đối tượng được khảo sát, người châu Á là 1443.
Phụ thuộc lớn vào phương tiện truyền thông cá nhân, BYOD sẽ diễn ra thường xuyên
Xét về phương diện nhân khẩu học của cuộc khảo sát, những người đại diện cho thế hệ quản lý và những người sẽ đưa ra quyết định trong tương lại xem BYOD như một hoạt động chủ đạo. Hơn 3/4 (85%) đối tượng khảo sát người châu Á thường xuyên gắn kết với hoạt động này trong thực tế. Quan trọng hơn nữa, hơn một nửa (55%) đối tượng khảo sát người châu Á xem việc sử dụng thiết bị của họ tại nơi làm việc như một “quyền” hơn là một “đặc ân”.
Đứng ở góc độ người dùng, yếu tố đầu tiên tác động đến hoạt động BYOD là các cá nhân có thể liên tục truy cập các ứng dụng ưa thích của mình, đặc biệt là các phương tiện truyền thông cá nhân và xã hội. Sự phụ thuộc vào các phương tiện truyền thông cá nhân diễn ra mạnh mẽ với 59% đối tượng khảo sát người châu Á thừa nhận họ không thể không truy cập các mạng xã hội và 67% không thể không nhắn tin SMS trong một ngày. Trên thực tế, người dân châu Á phụ thuộc vào các thiết bị di động cao hơn đáng kể so với mức trung bình trên toàn cầu là 35% đối với các mạng xã hội và 47% đối với SMS .
Nhân viên làm trái với chính sách của công ty vì các yếu tố rủi ro kinh doanh không được quản lý chặt
Thế hệ những nhân viên sử dụng thiết bị cá nhân ở cơ quan hiểu rõ những rủi ro do hoạt động này gây ra đối với tổ chức của họ. 42% người châu Á trong mẫu khảo sát thực sự tin rằng khả năng mất mát dữ liệu và tiếp xúc với các mối nguy hiểm độc hại CNTT là nguy cơ chủ yếu. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại cho bộ phận CNTT là nhận thức về nguy cơ này không ngăn được các nhân viên đó phớt lờ các qui định của DN. Trên thực tế, gần một nửa (47%) đối tượng khảo sát người châu Á thừa nhận họ đã hoặc sẽ làm trái với qui định của công ty về việc cấm sử dụng các thiết bị thuộc sở hữu cá nhân cho công việc.
Khi được hỏi về các qui định cấm sử dụng các ứng dụng không được phê duyệt, con số vẫn như vậy, với 39% đối tượng khảo sát người châu Á thừa nhận họ đã hoặc sẽ phản đối qui định. Những nguy cơ có thể xảy ra với doanh nghiệp từ các ứng dụng không được phê duyệt được xác định sẽ tăng lên. Thật vậy, hơn ba phần tư (81%) đối tượng khảo sát người châu Á xác nhận họ thích Mang Ứng dụng Riêng (BYOA) của mình đến công sở, nơi mà người dùng tạo ra và sử dụng các ứng dụng tùy thích của riêng họ.
Kết quả khảo sát cũng gợi ý về sự phản kháng liên quan đến việc triển khai bảo mật trên thiết bị của một nhân viên mà các DN có thể đối mặt. Phần lớn các đối tượng khảo sát người châu Á (54%) thấy rằng chính bản thân họ, chứ không phải là công ty, phải chịu trách nhiệm cho sự an toàn của các thiết bị cá nhân mà họ sử dụng cho công việc. Con số này lớn hơn nhiều so với số người tin rằng trách nhiệm cuối cùng thuộc về người chủ sử dụng lao động (35%).
“Cuộc khảo sát cho thấy rõ rằng các DN đang đối mặt với thách thức to lớn về việc dung hòa giữa an ninh và hoạt động BYOD”, ông Patrice Perche, Phó Chủ tịch cấp cao bộ phận Kinh doanh và Hỗ trợ quốc tế tại Fortinet cho biết.
“Trong khi người dùng mong muốn sử dụng các thiết bị của riêng họ cho công việc, phần lớn là vì sự tiện lợi cá nhân, nhưng họ lại không muốn chuyển trách nhiệm bảo mật các thiết bị của mình cho DN. Trong một môi trường như vậy, các DN phải giành lại quyền kiểm soát cơ sở hạ tầng CNTT của mình bằng việc đảm bảo an ninh chặt chẽ các truy cập bên trong và bên ngoài vào mạng lưới của DN, không phải chỉ là triển khai việc quản lý thiết bị di động hoặc“MDM”. Các DN không chỉ dựa vào một công nghệ đơn lẻ để giải quyết các thách thức về an ninh do hoạt động BYOD. Chiến lược an ninh mạng hiệu quả nhất đòi hỏi sự kiểm soát chi tiết không chỉ trên các thiết bị mà còn đối với người dùng và các ứng dụng”, ông Patrice Perche khẳng định.
HY

70% thanh thiếu niên che dấu bố mẹ những hành vi trực tuyến
Submitted by nlphuong on Wed, 27/06/2012 - 08:45(ICTPress) - Bố mẹ giám sát con trẻ một cách bí mật không phải là một ý tưởng hay, bởi vì cuối cùng những đứa trẻ có thể phát hiện ra điều gì đó chúng sẽ chống đối lại và sẽ cắt đứt các sợi dây liên lạc khác
(ICTPress) - Đây là một thông tin shock: Thanh thiếu niên giỏi hơn bố mẹ trong việc sử dụng Internet, và thích che dấu một số hành vi trực tuyến.
Thông tin này là từ một cuộc thăm dò 2.017 người do nhà sản xuất phần mềm an ninh trực tuyến McAfee thực hiện, để phát triển một sản phẩm giúp bố mẹ giám sát con cái trực tuyến.
70% thanh thiếu niên “che dấu bố mẹ hành vi trực tuyến của mình”, theo báo cáo này. Năm 2010 là chỉ 45%.
![]() |
Gần 3/4 thanh thiếu niên “che dấu bố mẹ hành vi trực tuyến”, theo cuộc thăm dò |
Những hành vi che dấu này bao gồm những hành vi có thể dự báo - như tiếp cận bạo lực (43%) hay nội dung hình ảnh khiêu dâm trực tuyến (32%) - nhưng cũng chỉ là vài ngạc nhiên.15% thanh thiếu niên đã tấn công mạng xã hội; 9% tấn công vào các tài khoản thư điện tử; 12% đã gặp gỡ trực tiếp những người mà những thanh thiếu niên này gặp trên Internet; và 16% thanh thiếu niên được thăm dò cho biết đã gọi điện thoại để kiểm tra ở trường học, là những kết quả khác.
McAfee cho biết các bậc phụ huynh thường không thể biết hết những hành vi này.
“Các bậc phụ huynh phải được biết. Kể từ khi những đứa trẻ lớn lên trong một thế giới trực tuyến, chúng nghiện trực tuyến hơn bố mẹ nhưng bố mẹ không thể không biết cách nào. Bố mẹ phải thách thức chính họ để quen hơn với những thách thức của thế giới trực tuyến của con trẻ và phải biết cập nhật nhiều thiết bị khác nhau mà con trẻ đang sử dụng để vào mạng”, Robert Siciliano của McAfee đã viết trên một blog.
“Nếu là bố mẹ của 2 con gái, tôi tích cực tham gia vào các hoạt động trực tuyến và nói chuyện với các con về “các quy định” khi truy cập Internet. Tôi hy vọng báo cáo này giúp các bậc phụ huynh nhận thức để tham gia nhiều hơn và cũng xem xét việc sử dụng công nghệ để bảo vệ con trẻ của mình trên mạng như sản phẩm McAfee Safe Eyes”.
Gần một nửa bậc phụ huynh lắp đặt một số kiểm soát trực tuyến, thăm dò này cho biết. 44% cho biết họ biết mật khẩu của con cái họ và 1 trong số 10 bậc phụ huynh sử dụng một thiết bị giám sát vị trí.
McAfee Safe Eyes, giống như các sản phẩm tương tự khác từ các công ty trực tuyến, cho phép các bậc phụ huynh giám sát các hành vi trực tuyến của trẻ và chặn một số trang web nhất định. Theo một mô tả trực tuyến của sản phẩm, Safe Eyes cho phép phụ huynh đăng nhập các đăng tải truyền thông xã hội và các trao đổi tin nhắn của trẻ.
Tuy nhiên, không phải ai cũng quan tâm tới biệc bảo vệ trực tuyến cho con trẻ.
“Chúng tôi không nghĩ đây là ý tưởng hay cho bố mẹ giám sát con trẻ một cách bí mật, bởi vì cuối cùng những đứa trẻ có thể phát hiện ra điều gì đó chúng sẽ chống đối lại và sẽ cắt đứt các sợi dây liên lạc khác”, Justin Patchin, một giáo sư Tư pháp về tội phạm và đồng giám đốc của Trung tâm Nghiên cứu tội phạm mạng cho biết.
Trong báo cáo, McAfee cũng khuyến khích các bậc phụ huynh nên thông báo trước với con trẻ nếu họ quyết định giám sát các hành vi của con.
“Một nửa thanh thiếu niên cho biết họ suy nghĩ gấp đôi về các hoạt động trực tuyến của các em nếu các em biết cha mẹ các em đang theo dõi”, báo cáo này cho biết.
Báo cáo này do McAfee tài trợ, đã được công ty nghiên cứu TRU tiến hành, thăm dò 1.013 bậc phụ huynh và 1.004 thanh thiếu niên trong độ tuổi 13 đến 17. Những cuộc phỏng vấn đã được tiến hành trực tuyến vào tháng 5.
Báo cáo này có nhan đề: “The digital divide: How the online behavior of teens is getting past parents" (PDF) (Tạm dịch: Khoảng cách số: hành vi trực tuyến nào của trẻ đang qua mặt các bậc phụ huynh”) cũng bao gồm một danh sách “top 10 cách thanh thiếu niên “qua mặt” các bậc phụ huynh.
Dưới đây là danh sách về số phần trăm thanh thiếu niên cho biết các em đã có những cách để che dấu hình vi, theo các kết quả của cuộc thăm dò này:
1. Xóa lịch sử trình duyệt (53%)
2. Đóng/thu hẹp trình duyệt khi cha mẹ đi vào (46%)
3. Ẩn hoặc xóa các thông điệp tức thời (IM) hay các video (34%)
4. Nói dối hoặc bỏ qua các chi tiết về các hoạt động trực tuyến (23%)
5. Sử dụng một máy tính mà các bậc phụ huynh không kiểm tra (23%)
6. Sử dụng thiết bị di động có Internet (21%)
7. Sử dụng các thiết lập bí mật để nội dung nhất định chỉ có bạn bè mới xem được (20%)
8. Sử dụng các phương thức trình duyệt riêng tư (20%)
9. Thiết lập địa chỉ thư điện tử riêng mà cha mẹ không biết (15%)
10. Thiết lập các hồ sơ mạng giả mạo/bản sao (9%)
Quang Minh
Theo CNN

Mua lại và sáp nhập DN - yêu cầu tất yếu khi tái cơ cấu nền kinh tế
Submitted by nlphuong on Mon, 25/06/2012 - 07:38(ICTPress) - Mua lại và sáp nhập (M&A) là xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường đang có yêu cầu phát triển và là yêu cầu tất yếu khi tái cơ cấu nền kinh tế.
Mua lại và sáp nhập doanh nghiệp - Xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường
Những tháng cuối năm 2011, câu chuyện về mua lại hay sáp nhập EVN Telecom đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực của các người làm báo cả trong và ngoài nước. Việc FPT Telecom rút khỏi thương vụ được mua trên 50% cổ phần của EVN Telecom cùng việc kinh doanh thua lỗ của EVN Telecom nói riêng và EVN nói chung đã dẫn đến cuôc tranh chấp về mua lại EVN Telecom giữa Tập đoàn Viễn thông quân đội và Hanoi Telecom.
Trong năm nay, thị trường Bưu chính Viễn thông Việt Nam cũng chứng kiến một số thương vụ mua lại và sáp nhập khác nhỏ hơn như: Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện, một công ty trực thuộc Bưu chính Việt Nam (VNPost) đã được sáp nhập vào Ngân hàng Liên Việt và ngân hàng này đã đổi tên thành ngân hàng Bưu điện Liên Việt. Một thương vụ “giá khủng” khác là việc NTT Docomo (Nhật) chi khoảng 370 tỷ đồng để nắm giữ 25% cổ phần của công ty truyền thông VMG...
Năm 2011, trên thị trường ICT thế giới cũng chứng kiến một số vụ sáp nhập có quy mô lớn và gây nhiều tranh cãi. Đó là thương vụ hợp tác giữa Nokia và Microsoft để cho ra đời Windows Phone 7 vào năm 2012 (Microsoft phải trả cho Nokia trên 1 tỷ USD qua thương vụ này) và vụ hãng công cụ tìm kiếm khổng lồ Google mua lại Motorola Mobility với giá 12,5 tỷ USD. Theo các nhà quan sát, thương vụ giữa Nokia và Microsoft là nhằm phát triển hệ điều hành Windows trên điện thoại di động nhằm cạnh tranh với hệ điều hành Android và iPhone. Còn thương vụ mua lại Motorola Mobility của Google là nhằm củng cố phát triển hệ điều hành Android, cạnh tranh mạnh mẽ với iPhone của Apple và sở hữu 17.000 bằng sáng chế của Motorola Mobility.
Tuy nhiên cũng cần nói thêm rằng, những vụ mua lại và sáp nhập như vậy không phải chỉ mới diễn ra trong năm 2011 mà nó đã xảy ra hàng chục năm nay. Theo ước tính của Forrester Research, trong năm 2004 thế giới đã chứng kiến nhiều thương vụ mua lại sáp nhập của trên 2000 các công ty trên khắp các châu lục với chi phí lên tới gần 70 tỷ USD. Còn năm 2007 lại được gọi là năm kỷ lục của các vụ mua lại và sáp nhập. Theo thống kê của Hãng thông tin tài chính Thomson Financial có trụ sở tại Mỹ cho thấy năm 2007 tổng giá trị của các vụ mua lại và sáp nhập đạt 4400 tỷ USD, tăng 21% so với mức 3600 tỷ USD của năm 2006.
Như vậy mua lại và sáp nhập (M&A) là xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường đang có yêu cầu phát triển và là yêu cầu tất yếu khi tái cơ cấu nền kinh tế của nước ta. Vì vậy, cần hiểu rõ và đầy đủ thuật ngữ mua lại và sáp nhập cũng như những nguyên tắc cơ bản của việc mua lại và sáp nhập.
M&A - viết tắt của cụm từ tiếng Anh: mergers and acquisitions là việc mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp (DN) trên thị trường. Theo định nghĩa kỹ thuật của David L.Scott thì:
- Sáp nhập là sự kết hợp của 2 hay nhiều công ty, trong đó có tài sản và trách nhiệm pháp lý của công ty được công ty khác tiếp nhận. Mặc dù hãng mua lại có thể hình thành một tổ chức mới khác đi rất nhiều sau quá trình mua lại, nhưng nó vẫn là thực thể ban đầu.
- Mua lại là quá trình mua lại tài sản như máy móc, nhà xưởng, công nghệ, v.v... một bộ phận hay toàn bộ một công ty.
Tại sao lại xảy ra việc mua lại và sáp nhập?
Có rất nhiều động cơ trong bất cứ một vụ mua lại hay sáp nhập nào. Lý do đầu tiên là để mở rộng và phát triển hơn việc kinh doanh trên thị trường vốn đã rất chật hẹp. Một công ty có tiềm lực lớn hơn và tăng trưởng mạnh hơn có thể cố gắng tiếp quản những đối thủ nhỏ hơn để nâng cao vị thế của mình trên thương trường.
Thời gian qua, tập đoàn Cisco đã tiến hành các vụ mua lại và sáp nhập lớn như mua lại công ty viễn thông Okena với giá 160 triệu USD, hay bỏ ra gần nửa tỷ USD để sáp nhập với Linksys Group (Một công ty thiết bị mạng viễn thông). Chính những thương vụ M&A này đã mở rộng đáng kể vị thế của Cisco trước những đối thủ cạnh tranh như D-link, Netgear, 3 Com... Những vụ sáp nhập khác lại nhằm bảo toàn chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh. HP đã thể hiện rõ mục tiêu này khi sáp nhập với Compaq. Thông qua vụ sáp nhập, riêng trong những tháng đầu tiên, HP đã tiết kiệm được gần 700 triệu USD. Một năm sau ngày sáp nhập tập đoàn HP đã giảm được khoản chi phí lên tới 3,5 tỷ USD. Năm 2006, Nokia và Siemens sáp nhập bộ phận mạng thiết bị di động và cố định của 2 công ty và lấy tên là Nokia-Siemens Networks. Bản thỏa thuận có trị giá hơn 31 tỷ USD sẽ giúp tiết kiệm mỗi năm 1,5 tỷ euro trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển, đạt doanh số 16 tỷ EUR và tạo thêm khoảng 60.000 việc làm.
Trong một vài trường hợp, một số công ty nhỏ có kế hoạch mở rộng thị trường nhưng bị các hàng rào về tài chính và uy tín cản trở. Do đó những công ty này chủ động tìm kiếm những đối tác có tiềm lực lớn hơn để có những khoản vốn đầu tư cần thiết cho việc mở rộng kinh doanh, và đến một thời điểm thích hợp biện pháp sáp nhập là phương án được ưu tiên hàng đầu. USA Networks là một thí dụ, là một công ty mới thành lập và để đẩy mạnh hoạt động của mình trên thị trường thương mại điện tử. USA Networks đã quyết định sáp nhập với Expedia với giá trị lên đến 1,5 tỷ USD. Đây không chỉ đơn thuần là sự kết hợp giữa 2 công ty mà còn là sự sáp nhập để dựa vào nhau mà phát triển.
Ngoài ra còn có nhiều vụ mua lại và sáp nhập mang tính chất phòng thủ, phản ứng lại các cuộc sáp nhập khác đang được tiến hành mà trong tương lai có thể đe dọa đến vị thế cạnh tranh của một công ty.
Vậy khi nào thì các thương vụ mua lại và sáp nhập xảy ra:
Thông thường M&A được thực hiện trong một số trường hợp sau đây:
- Nguyên tắc cơ bản để tiến hành mua lại và sáp nhập một công ty là thương vụ đó phải tạo ra được giá trị mới cho các cổ đông mà việc duy trì tình trạng cũ không đạt được.
- Về mặt giá trị của công ty sau khi tiến hành M&A phải lớn hơn tổng giá trị hiện tại của cả hai công ty khi còn đứng riêng rẽ.
- Về năng lực cạnh tranh, sau khi thực hiện M&A công ty mới phải có năng lực cạnh tranh cao hơn, đạt hiệu quả tốt về chi phí, chiếm lĩnh thị phần lớn hơn, hiệu quả vận hành cũng tốt hơn.
- Có sự đồng thuận cao .Các cổ đông phải đồng ý với thương vụ M&A này với đa số phiếu thuận. Vụ M&A giữa Microsoft và Yahoo đã không thành công do không đạt được sự đồng thuận cần thiết của các cổ đông.
Cũng cần nói thêm rằng: Mỗi khi tiến hành các thương vụ M&A, yếu tố quan trọng hàng đầu mà các nhà đầu tư quan tâm chính là giá trị thị trường của công ty sáp nhập, giá này bao gồm cả giá trị trên sổ sách và những lợi thế về kinh doanh. Sự tăng giá trị đột xuất trên thị trường chứng khoán cũng khiến các vụ M&A trở nên hấp dẫn hơn. Bởi vì sẽ là tương đối dễ dàng để có được một công ty khác bằng việc trả cho họ những cổ phiếu có giá trị qua cuộc sáp nhập. Qua vụ sáp nhập cả 2 bên đều có lợi: Đối với công ty bị sáp nhập thì giá cổ phiếu sẽ tăng lên, hoạt động kinh doanh sẽ được phục hồi; Còn đối với công ty tiến hành sáp nhập thì đây như một món hời lớn bởi lúc này họ mua lại với giá thấp hơn so với giá thực tế. Và rồi khi mọi thứ đi vào ổn định, giá cổ phiếu tăng lên thì người có lợi nhiều nhất đương nhiên là những nhà đầu tư này.
Thông thường sau thương vụ M&A, nếu 2 công ty có cùng quy mô hợp nhất với nhau thì trở thành một DN mới với tên gọi mới. Nokia Siemens Networks là tên gọi mới sau khi bộ phận mạng di động và cố định của Nokia và Siemens sáp nhập với nhau là một thí dụ.
Tuy nhiên trong một số trường hợp, công ty tiến hành mua lại vẫn để công ty bị mua lại tồn tại độc lập với tên cũ. Chẳng hạn như Ebay mua lại Paypal, Skype, Unilever mua lại BestFood vẫn để các công ty bị mua lại này tồn tại độc lập với tên cũ. Lý do thì có nhiều nhưng lý do chính vẫn là sự ưa chuộng của khách hàng đối với những công ty đã có lịch sử tương đối lâu này.
Trong thực tế cũng đã xẩy ra việc một số vụ mua lại và sáp nhập mặc dầu đã đạt được sự thỏa thuận của cả 2 bên mua và bán nhưng vì lý do chính trị như chống độc quyền, bảo vệ an ninh quốc gia v.v... mà Chính phủ có thể ra quyết định đình chỉ thực hiện các thương vụ này. Vừa qua, Chính phủ Mỹ đình chỉ việc Huawei mua cổ phần trị giá 2 tỷ USD cua 3Com là một thí dụ.
Khái quát về cơ sở pháp lý khi thực hiện M&A ở Việt Nam
Trong Luật DN Việt Nam năm 2005 không có khái niệm mua, bán DN mà chỉ có khái niệm hợp nhất và sáp nhập doanh nghiệp. Điều 107 và Điều 108 Luật DN đã định nghĩa việc hợp nhất DN là: “Hai hay một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (gọi là công ty hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các công ty bị hợp nhất”.
Còn sáp nhập là: “Một hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị sáp nhập)có thể sáp nhập vào một công ty khác (gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập”.
Khoản 2 Điều 153 Luật DN năm 2005 quy định thủ tục sáp nhập công ty như sau:
- Các công ty liên quan chuẩn bị hợp đồng sáp nhập và và dự thảo Điều lệ công ty nhận sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải có các nội dung chủ yếu về tên, địa chỉ, trụ sở chính của công ty nhận sáp nhập; tên,địa chỉ, trụ sở chính của công ty bị sáp nhập; thủ tục và điều kiện sáp nhập; phương án sử dụng lao động; thủ tục, thời hạn và điều kiện chuyển đổi tài sản, chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị sáp nhập thành phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty nhận sáp nhập; thời hạn thực hiện sáp nhập.
- Các thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc các cổ đông của các công ty liên quan thông qua hợp đồng sáp nhập, điều lệ công ty nhận sáp nhập và tiến hành đăng ký kinh doanh công ty nhận sáp nhập theo quy định của Luật này. Trong truờng hợp này hồ sơ đăng ký kinh doanh phải kèm theo Hợp đồng sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải được gửi đến tất cả các chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong vòng 18 ngày kể từ ngày thông qua.
- Trường hợp sáp nhập mà theo đó công ty nhận sáp nhập có thị phần từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của công ty thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành sáp nhập trừ trường hợp pháp luật về cạnh tranh có quy định khác.
- Cấm các trường hợp sáp nhập các công ty mà theo đó công ty nhận sáp nhập có thị phần trên 50% trên thị trường có liên quan, trừ trường hợp pháp luật về cạnh tranh có quy định khác.
Để mua lại một DN có hiệu quả, công ty đi mua phải chú ý cả 3 giai đoạn: Lựa chọn công ty mục tiêu, lựa chọn chiến lược mua lại thích hợp và hòa nhập 2 tổ chức thành một. Lựa chọn công ty mục tiêu thường dựa vào tình hình tài chính, vị trí sản phẩm của công ty đó trên thị trường, môi trường cạnh tranh, năng lực quản lý và văn hóa DN.
Nhiều chuyên gia kinh tế của nước ta còn có ý kiến cho rằng: Mua lại và sáp nhập có thể là hình thức đầu tư ra nước ngoài có hiệu quả cho các nhà đầu tư Việt Nam. Mua lại và sáp nhập có 4 lợi ích cơ bản so với đầu tư mới:
Thứ nhất, công ty có thể nhanh chóng hiện diện tại một thị trường nước ngoài hơn là đầu tư mới.
Thứ hai, bằng hình thức này công ty có thể ngăn cản các đối thủ cạnh tranh, nhất là trên các thị trường toàn cầu hóa nhanh chóng.
Thứ ba, công ty mua lại có thể tăng hiệu quả các công ty được mua lại bằng cách chuyển giao công nghệ, vốn và kinh nghiệm quản lý.
Cuối cùng, M&A có thể ít rủi ro hơn đầu tư mới. Tuy nhiên, dùng hình thức M&A trong đầu tư ra nước ngoài có nhược điểm là bên mua lại thường đánh giá công ty được mua với giá quá cao, do vậy hiệu quả kinh tế đạt thấp.
Để kết thúc bài viết này sẽ là rất thú vị với bạn đọc khi chúng ta cùng nhau trao đổi sơ bộ một vấn đề thời sự đang được các nhà báo, các nhà kinh tế và các nhà quản lý quan tâm sôi nổi: Mobifone và Vinaphone có nên sáp nhập hay không?
Câu hỏi đầu tiên được bạn đọc đặt ra là: MobiFone, Vinaphone đều là công ty thành viên của VNPT, sáp nhập hay không là chuyện của họ, tại sao lại có nhiều ý kiến tham gia vậy?
Vấn đề là ở chỗ ngày 6/4/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 25/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông. Điểm 1, Điều 3 về kinh doanh dịch vụ viễn thông của Nghị định này quy định: Một tổ chức, cá nhân đã sở hữu trên 20% vốn điều lệ hoặc cổ phần trong một doanh nghiệp viễn thông thì không được sở hữu trên 20% vốn điều lệ hoặc cổ phần của doanh nghiệp viễn thông khác cùng kinh doanh trong một thị trường dịch vụ viễn thông thuộc Danh mục dịch vụ viễn thông do Bộ Thông tin và Truyền thông quy định. Do VNPT đang sở hữu 100% vốn tại cả MobiFone và Vinaphone, nên theo Nghị định 25/2011 VNPT phải thoái 80% vốn sở hữu tại 1 trong 2 DN này. VNPT đề xuất 3 phương án: Sáp nhập MobiFone và Vinaphone, cổ phần hóa một trong hai mạng di động trên và cuối cùng là cổ phần hóa toàn bộ Tập đoàn.
Sáp nhập MobiFone và Vinaphone là phương án mang lại hiệu quả sản xuất kinh doanh lớn nhất cho VNPT vì nó giảm được chi phí sản xuất, tiết kiệm được lao động, phát huy được thế mạnh của mỗi công ty thành viên khi sáp nhập, sử dụng chung được hạ tầng mạng v.v... Tuy nhiên nhiều nhà khai thác viễn thông và đặc biệt là một số nhà khai thác thông tin di động và một số nhà đầu tư nước ngoài lại phản đối phương án này, họ cho rằng phương án này vi phạm Điều 6 của Nghị định 25/2011 cũng như trái với quy định về cạnh tranh khi thực hiện M&A trong Luật DN. Họ cho rằng phương án thoái vốn tốt nhất của VNPT là cổ phần hóa một trong 2 DN đó.
VNPT là nhà khai thác Bưu chính Viễn thông lớn nhất và lâu đời nhất ở nước ta với truyền thống trên 65 năm lịch sử, VNPT cũng là nhà khai thác BCVT làm nghĩa vụ công ích lớn nhất của cả nước trong ngành ICT của nước ta. VNPT cũng là DN cung cấp dịch vụ viễn thông lớn nhất trong 5 nhà cung cấp dịch vụ viễn thông mà nhà nước nắm cổ phần chi phối trên 50% theo quyết định 55/2011/QĐ-TTG ngày 14/10/2011 của Thủ tướng chính phủ. Vì vậy, làm thế nào để có sự kết hợp hài hòa giữa chống độc quyền với bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng, trí tuệ và khách quan. Kết luận cuối cùng về sáp nhập hay cổ phần hóa đang chờ câu trả lời từ các nhà quản lý ở cấp cao nhất.
Nguyễn Ngô Hồng

Tại sao New York trở thành thiên đường cho những công ty công nghệ mới
Submitted by nlphuong on Wed, 20/06/2012 - 15:33(ICTPress) - 4 năm qua, đã có 40% công ty mới đổ tiền vào “Đại lộ Silicon” (Silicon Alley) này - cao hơn cả bất cứ đâu ở Mỹ. Bí quyết nào để New York thành công? Các thành phố có thể học tập thành công của New York theo 4 bước.
(ICTPress) - Hỏi những doanh nhân công nghệ mới ở Mỹ về việc họ thích khởi động doanh nghiệp ở đâu thì thường nhận được câu trả lời giống nhau: New York.
![]() |
4 năm qua, đã có 40% công ty mới đổ tiền vào “Đại lộ Silicon” (Silicon Alley) này - cao hơn cả bất cứ đâu ở Mỹ.
Các thành phố trên thế giới đang ngày càng quan tâm nhiều đến New York, chứ không phải là San Francisco hay thung lũng Silicon, như là một mô hình nuôi dưỡng sự tăng trưởng của các công ty mới nhờ hoạch định chính sách và quy hoạch đô thị.
Bí quyết nào để New York thành công? Theo Brad Hargreaves, đối tác thành lập của không gian cộng tác mới General Assembly, câu trả lời có 2 ý là: một nửa là do sự khủng hoảng tài chính 2007/2008 và một nửa là kết quả của việc quy hoạch công thông minh và chính sách của New York.
Hàng ngàn lập trình viên (coder) của thành phố này cho Hargreaves biết, họ đã làm việc cho ngành tài chính khi khủng hoảng bong bóng nổ ra. Các công ty phá sản, những kỹ sư phần mềm này hoặc là ra đi hoặc từ bỏ công ty - một số công ty còn lại đã có không gian để khởi động lại sự bùng nổ các công ty mới ở New York.
“Các lập trình viên phần mềm đã thích nghi để mở các công ty mới. Trong 10 năm qua, chi phí - kịp thời và tiền - để khởi động một công ty mới đã giảm đáng kể. Dù công ty công nghệ đó đang phát triển các sản phẩm mới, bán các sản phẩm đó theo cách thức mới, hoặc giúp đỡ những lập trình viên có cuộc sống ổn định, bước đầu tiên trong phát triển một công ty thường liên quan đến người viết phần mềm - vương quốc của các lập trình viên”, Hargreaves viết trong cuốn sách điện tử Fix Young America.
Viễn cảnh khởi động của New York, mà như Hargreaves miêu tả, là tìm thấy một “sự may mắn” trong sự sụp đổ kinh tế. Tuy nhiên, không thể chính xác tư vấn cho một thành phố muốn sao chép thành công của New York đang hỗ trợ một ngành lớn để hỗ trợ các ngành khác. Thay vào đó, Hargreaves cho biết, bản chất chiến lược của New York nằm ở việc hoạch định chính sách. New York đã đầu tư đáng kể vào văn hóa mới - cả về nghĩa đen và nghĩa bóng, mà có thể được ở đâu đó có thể học tập.
Hargreaves, khuyến nghị các thành phố khác muốn tìm kiếm, học tập thành công của New York, đặc biệt là các thành phố nhỏ hơn, theo 4 bước:
Đầu tiên là tài năng mới - nhà doanh nhân, lập trình viên và những người khác – phải được phát triển và nuôi dưỡng.
Nếu bạn đang tìm kiếm điều này từ phía chính quyền thành phố, một trong những cách hiệu quả nhất là huấn luyện hoặc thu hút nhiều tài năng công nghệ hơn. Việc đào tạo sẽ thúc đẩy vòng quay. Có những tài năng công nghệ và các công ty lớn thu hút nhiều tài năng hơn và nhiều công ty lớn.
Tiếp theo, các thành phố phải làm việc để giữ tài năng đổ về các thành phố như New York, San Francisco hay Boston. Các sinh viên là một đầu tư, và việc chảy máu chất xám có hủy hoại sự đầu tư đó. Một gợi ý từ Hargreaves là tập trung vào đào tạo con người trong độ tuổi 30 và 40 để trở thành các lập trình viên. Họ có thể thiết lập các gốc rễ, và do đó không muốn chuyển đi.
Thứ ba, các doanh nhân, lập trình viên và những người khác trong cộng đồng công ty mới ở địa phương phải bao gồm cả các trường đại học và các tổ chức phát triển kinh tế trong đối thoại về tương lai của thành phố. Các trường đại học có thể xây dựng trung tâm tài năng từ đó các công ty mới có thể thu hút tuyển dụng mới - nếu một thành phố nổi tiếng về các sinh viên công nghệ, thì thành phố đó sẽ thu hút các công ty công nghệ mới.
Cuối cùng quy hoạch đô thị thông minh là quan trọng. Một trong những lý do mà New York đã thành công là mật độ và hệ thống phương tiện công cộng đã tạo điều kiện cho doanh nhân đi từ nơi này đến nơi khác.
Quang Minh
Theo Mashable/CNN

Công nghệ di động nào sẽ bùng nổ vào năm 2017
Submitted by nlphuong on Mon, 18/06/2012 - 08:45(ICTPress) - Lưu lượng dữ liệu di động tăng gần gấp hai lần trong quãng thời gian từ quý 1/2011 tới quý 1/2012. Mức độ tăng trưởng trong một quý, trong khoảng thời gian từ quý 4/2011 tới quý 1/2012 là 19%.
(ICTPress) - Ericsson vừa công bố báo cáo về lưu lượng, thị trường viễn thông và công nghệ đến năm 2017. Báo cáo này vừa được phát hành trong tháng 6 này.
Báo cáo về Lưu lượng và Thị trường của Ericsson công bố vào tháng 6/2012 này cho biết 85% dân số thế giới sẽ được phủ sóng 3G vào năm 2017, 50% dân số thế giới sẽ được phủ sóng 4G vào năm 201; Tới năm 2017, dự kiến sẽ có 3 tỉ thuê bao smartphone; Trên toàn cầu, số lượng thuê bao di động tính tới quý 1 năm 2012 là 6,2 tỉ và số lượng thuê bao di động mới trong một quý là 170 triệu và lưu lượng dữ liệu toàn cầu sẽ tăng gấp 15 lần tính tới năm 2017.
Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương, và nhóm quốc gia này góp phần tạo nên 93 triệu thuê bao mới trong quý 1/2012.
Thuê bao di động tăng trưởng trung bình 60%/năm
Tính tới quý 1/2012, tổng số thuê bao di động là 6,2 tỉ thuê bao, chiếm 87% dân số thế giới. Tuy nhiên số lượng thuê bao thực tế khoảng 4,2 tỉ bởi có người dùng có vài thuê bao một lúc. Tính riêng trong quý 1/2012, số lượng thuê bao mới tăng thêm là 170 triệu.
Mức độ tăng trưởng về số lượng thuê bao trung bình tính theo năm là 12% và theo quý là 35%.
Số lượng thuê bao băng rộng di động tăng trưởng trung bình 60%/năm và đã đạt tới 1,1 tỉ thuê bao.
Việt Nam thuộc châu Á - Thái Bình Dương (không tính Ấn Độ và Trung Quốc) là nhóm quốc gia có mức tăng trưởng thuê bao tính tới quý 1/2012 là 82%.
![]() |
Biểu đồ 1: Số lượng thuê bao theo khu vực, tính tới quý 1/2012. APAC viết tắt cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương. |
![]() |
Biểu đồ 2: Tăng trưởng về thuê bao di động băng rộng từ năm 2008 tới năm 2017 |
Hiện nay, khoảng 75% mạng HSPA trên toàn cầu đã được nâng cấp lên tốc độ 7,2 Mbps và khoảng 40% đã nâng cấp lên tốc độ 21 Mbps. Khoảng 15% mạng HSPA đã nâng tốc độ lên 42 Mbps và một số nơi đã tạo nên đột phá khi nâng tốc độ lên 100 Mbps.
![]() |
Biểu đồ 3: Tỉ lệ các mạng di động 3G/HSPA nâng cấp theo tốc độ |
Công nghệ di động - thuê bao GSM/EDGE giảm sau 2012
GSM/EDGE sẽ tiếp tục đi đầu về mức tăng trưởng trong những năm tới cho dù công nghệ HSPA cũng đang có mức tăng trưởng nhanh chóng. Lý do cho xu hướng này là vì người sử dụng ở nhóm thu nhập thấp tại các quốc gia đang phát triển có xu hướng sử dụng các loại điện thoại giá rẻ đồng thời cần thời gian để nâng cấp hệ thống nền tảng điện thoại. Tuy nhiên, sau năm 2012, xu thế thuê bao GSM/EDGE sẽ giảm.
LTE đang được triển khai ở một số vùng trên thế giới và có khoảng 1 tỉ thuê bao vào năm 2017. Tính tới năm 2017, sẽ có khoảng 9 tỉ thuê bao di động.
![]() |
Biểu đồ 4: Mức tăng trưởng số lượng thuê bao tính theo công nghệ từ 2008 tới 2017 |
Thiết bị đầu cuối - smartphone sẽ đạt 3 tỷ vào 2017
Năm 2011, số lượng thuê bao smartphone là 700 triệu và dự kiến sẽ là 3 tỉ vào năm 2017. Các dòng điện thoại smartphone Lưu lượng cao (High Trafic Smartphones - HT Smartphone) như iPhone, Android và Windows thường tạo ra lưu lượng gấp 5 - 10 lần so với loại thiết bị lưu lượng thấp.
Các yếu tố khác như kích thước màn hình, năm ra đời của thiết bị và sự phổ biến của từng dòng sản phẩm có liên hệ chặt chẽ đối với những người sử dụng tích cực, tạo ra lưu lượng trung bình khoảng 1MB/ngày. Ericsson dự đoán tổng số thuê bao sử dụng các thiết bị lưu lượng lớn sẽ tăng từ 850 triệu năm 2011 lên tới 3,8 tỉ năm 2017, bao gồm smartphone, PC di động và máy tính bảng kết nối mạng di động. Một số PC di động tuy có tính năng kết nối 3G/4G nhưng không có kích hoạt thuê bao di động
![]() |
Biểu đồ 5: Tỉ lệ giữa các loại PC di động cài đặt modem 3G/4G có kết nối hoặc không kết nối thuê bao di động |
Năm 2017, khoảng 1/3 số lượng PC di động sẽ có đăng ký thuê bao 3G/4G, số còn lại sẽ sử dụng Wi-Fi hoặc Ethernet. Đồng thời, khoảng ½ số lượng máy tính bảng sẽ cài đặt sẵn modem 3G/4G. Một số máy tính bảng tuy có tính năng kết nối 3G/4G nhưng không có kích hoạt thuê bao di động.
![]() |
Biểu đồ 6: Tỷ lệ giữa các loại máy tính bảng tablet cài đặt tính năng 3G/4G có kết nối hoặc không kết nối thuê bao di động |
Lưu lượng dữ liệu và thoại chủ yếu tăng ở châu Á - TBD, Trung Đông và châu Phi
Xu hướng tương lai là sự tăng trưởng ổn định của lưu lượng dữ liệu cả trên phương diện số lượng thuê bao sử dụng dữ liệu di động và lưu lượng dữ liệu trung bình của mỗi thuê bao. Sự tăng trưởng này chủ yếu là do số lượng người dùng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Trung Đông và châu Phi. Tuy nhiên mức độ lưu lượng có sự khác biệt lớn giữa các thị trường, khu vực và các nhà mạng.
Lưu lượng dữ liệu di động tăng gần gấp hai lần trong quãng thời gian từ quý 1/2011 tới quý 1/2012. Mức độ tăng trưởng trong một quý, trong khoảng thời gian từ quý 4/2011 tới quý 1/2012 là 19%.
![]() |
Biểu đồ 7: Mức tăng trưởng lưu lượng thoại và lưu lượng dữ liệu từ 2007 tới quý 1/2012 |
Tới cuối năm 2017, lưu lượng dữ liệu di động sẽ tăng 15 lần. Hiện tại, PC di động chiếm tỉ lệ chính về việc tạo ra lưu lượng trong các mạng di động, tuy nhiên trong những năm tới, tỉ lệ này sẽ cân bằng hơn giữa PC di động, máy tính bảng và điện thoại di động (ĐTDĐ).
![]() |
Biểu đồ 8: Mức tăng trưởng của lưu lượng dữ liệu của PC di động/máy tính bảng và ĐTDĐ so với tăng trưởng về thoại |
Lưu lượng trên mỗi thuê bao liên quan tới kích thước màn hình thiết bị đầu cuối. Trung bình PC di động tạo ra lưu lượng gấp 4 lần so với HT smartphone. Tới cuối năm 2011, lưu lượng dữ liệu trung bình theo tháng của mobile PC là 2 GB/tháng và của smartphone là 500 MB. Tới cuối 2017, dự kiến một PC di động sẽ tạo ra 8 GB/tháng và một smartphone sẽ tạo ra trên 1 GB/tháng.
Vùng phủ sóng - 85% dân số phủ sóng WCDMA/HSPA vào 2017
Tới năm 2017, 85% dân số sẽ phủ sóng WCDMA/HSPA.
Hiện tại, công nghệ GSM/EDGE đã phủ hơn 85% dân số thế giới và WCDMA/HSPA phủ sóng 45% dân số. Sự phổ biến WCDMA/HSPA sẽ tăng nhanh hơn khi xuất hiện nhiều điện thoại smartphone giá rẻ và sự tăng trưởng của băng rộng di động tốc độ cao kèm theo chính sách điều hành viễn thông của từng khu vực.
Tới tháng 2/2012, LTE phủ sóng khoảng 315 triệu người trên toàn cầu. Trong 5 năm tới, dự kiến sẽ phủ sóng cho 50% dân số.
![]() |
Biểu đồ 9: Mức độ phổ biến theo từng công nghệ so sánh giữa năm 2011 và tương lai 2017 |
Thuê bao smartphone hài lòng vùng phủ sóng 3G
Sự tăng trưởng smartphone diễn ra nhanh chóng với tỉ lệ trung bình 40% người sử dụng truy cập Internet và các ứng dụng trước khi rời khỏi giường ngủ. 51% người sử dụng smartphone hài lòng với chất lượng mạng di động và chỉ có 3% là không hài lòng. 47% cho rằng tốc độ mạng chậm là nguyên nhân phổ biến nhất cho các vấn đề về truy cập Internet qua smartphone.
Nghiên cứu này tiến hành ở Hà Lan và Phần Lan, được thực hiện trực tuyến với 1.000 người sử dụng smartphone 3G, tuổi đời từ 18 tới 69 với tần suất sử dụng là trên 1 lần/1 tuần.
Nghiên cứu cho thấy một số nhân tố phổ biến dưới đây mang lại sự hài lòng đối với người sử dụng smartphone, đó là vùng phủ sóng mạng 3G, mạng 3G có tốc độ truy cập cao và mức chi phí.
![]() |
Biểu đồ 10: Sự tương quan giữa các yếu tố và mức độ hài lòng của thuê bao smartphone |
Lưu lượng dữ liệu theo hệ điều hành
iPhone và Android tạo ra mức lưu lượng lớn nhất trong các thuê bao. Nguyên nhân chính về sự khác biệt giữa các hệ điều hành là gói giá cước do các nhà mạng quy định.
![]() |
Biểu đồ 11: Lưu lượng trung bình tính trên từng thuê bao đối với các dòng điện thoại có hệ điều hành khác nhau trên các mạng di động khác nhau, trong đó vạch đen ngang chỉ giá trị trung bình. |
Lưu lượng trung bình mỗi thuê bao sử dụng phụ thuộc nhiều vào gói cước và dòng điện thoại mà họ sử dụng. Có một thực tế là người sử dụng nhiều có xu hướng chuyển sang model điện thoại mới hơn. Vì vậy sự gia tăng về mức độ sử dụng phụ thuộc vào cả hai yếu tố thiết bị mới và phân khúc khách hàng mà các hãng hướng tới. Lưu lượng do các điện thoại đang dùng sẽ cao hơn so với loại điện thoại mới ra đời bởi sự khác biệt về gói giá cước dịch vụ đi kèm.
![]() |
Biểu đồ 12: Lưu lượng trung bình tính trên mỗi gói cước theo từng dòng điện thoại khác nhau của cùng một nhà cung cấp |
![]() |
Biểu đồ 13: Lưu lượng trung bình tính trên mỗi gói cước theo từng mẫu iPhone |
Tài liệu tham khảo:
[1]. Phiên bản Báo cáo tiếng Anh đầy đủ: http://www.ericsson.com/res/docs/2012/traffic_and_market_report_june_2012.pdf
[2]. Chuyên trang về báo cáo: http://www.ericsson.com/traffic-market-report
[3]. Thông cáo báo chí tiếng Anh: http://www.ericsson.com/news/1617338













