Syndicate content

Tri thức chuyên ngành

Nội dung Luật tần số vô tuyến điện (Phần 2)

Tần số vô tuyến điện (VTĐ) đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi và có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Luật tần số VTĐ có hiệu lực từ 1/7/2010. Phần 2 này xin giới thiệu đến bạn đọc nội dung chương IV của Luật Tần số VTĐ.

Ảnh minh họa: Internet

IV. Chương 4. Cấp giấy phép và sử dụng tần số VTĐ

Chương này gồm 18 Điều (từ Điều 16 đến Điều 33), trong đó quy định về các loại giấy phép tần số VTĐ; nguyên tắc, phương thức cấp phép tần số (cấp trực tiếp, thong qua việc đấu giá hoặc thi tuyển quyền sử dụng tần số), điều kiện cấp, gia hạn, sửa đổi bổ sung nội dung giấy phép; thu hồi giấy phép tần số VTĐ; chuyển quyền sử dụng tần số; cho thuê, mượn thiết bị VTĐ; sử dụng chung tần số VTĐ; các trường hợp được miễn cấp phép; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được cấp phép; lệ phí, phí tần số VTĐ; chứng chỉ VTĐ viên; sử dụng tần số trong trường hợp khẩn cấp.

1.      Các loại giấy phép sử dụng tần số VTĐ

Có 3 loại giấy phép tần số:

a. Giấy phép sử dụng tần số và thiết bị VTĐ

Đây là hình thức giấy phép được sử dụng nhiều nhất, dùng để cấp phép cho hầu hết các đài phát sóng vô tuyến như viba, bộ đàm taxi, đài phát thanh, truyền hình…

Riêng trong năm 2010, Cục Tần số đã cấp mới và gia hạn tổng cộng gần 29.000 giấy phép sử dụng tần số và thiết bị VTĐ cho các loại (bao gồm các mạng phát thanh truyền hình, cố định vệ tinh, lưu động dùng riêng, viba, đài tàu, tàu cá, truyền thanh không dây).

Giấy phép này được cấp sau khi đã ấn định tần số thành công và quy định chi tiết các điều kiện sử dụng đối với VTĐ được cấp phép. Đây là loại giấy phép truyền thống, có thể cấp cho từng thiết bị hoặc mạng thông tin VTĐ.

b. Giấy phép sử dụng băng tần: Đây là loại hình giấy phép đã được áp dụng theo quy định của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông trước đây. Giấy phép này chủ yếu áp dụng cho các hệ thống thong tin di động, cho phép các doanh nghiệp chủ động trong việc lập kế hoạch sử dụng và thay đổi tần số, kịp thời giải quyết nhiễu nội bộ trong băng tần được cấp phép mà không phải xin cấp giấy phép trong từng trạm gốc (BTS) như trước đây.

Các giấy phép băng tần đã được cấp cho các mạng điện thoại di động thế hệ 2 (2G) của Mobifone, Vinaphone, Viettel ở băng tần 900 MHz và 1800 MHz, SFone và HTC ở băng tần 800 MHz, Công ty Viễn thông điện lực ở băng tần 450MHz, GTel băng 1800 MHz. Hiện nay cũng đã hoàn tất cấp giấy phép băng tần cho mạng thong tin di động 3G trong năm 2009.

c. Giấy phép sử dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh: được cấp cho tổ chức, doanh nghiệp để khai thác đài không gian tại vị trí quỹ đạo vệ tinh xác định. Đây là loại giấy phép mới do Luật Tần số VTĐ quy định, tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý việc sử dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh của Việt Nam.

2.  Thời hạn tối đa của các loại giấy phép tần số VTĐ

Luật Tần số VTĐ đưa ra thời gian tối đa tương ứng với giấy phép sử dụng thiết bị và tần số VTĐ là 10 năm, giấy phép băng tần là 15 năm và giấy phép sử dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh là 20 năm sau khi đã tham khảo kinh nghiệm quốc tế và lấy ý kiến đóng góp của các Bộ, ngành.

3.  Nguyên tắc cấp giấy phép

Khi cấp mới, gia hạn, sửa đổi, bổ sung nội dung giấy phép đều phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:

- Công khai, minh bạch, đúng pháp luật

- Phù hợp với quy hoạch tần số VTĐ

- Đáp ứng yêu cầu hội tụ công nghệ và dịch vụ VTĐ

- Bảo đảm khả thi, hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm, đúng mục đích: bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng dịch vụ VTĐ

- Nghiệp vụ chính được ưu tiên hơn nghiệp vụ phụ

- Đáp ứng nhu cầu sử dụng tần số VTĐ phục vụ lợi ích công cộng và thực hiện nhiệm vụ công ích của nhà nước.

- Việc cấp giấy phép sử dụng tần số VTĐ cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam, đoàn đại biểu cấp cao nước ngoài đến thăm Việt Nam được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao tuân theo quy luật có đi có lại.

Điều kiện quan trọng nhất để cấp được giấy phép là phải ấn định được tần số.

4. Phương thức cấp giấy phép:

Gồm 3 phương thức: xét cấp, đấu giá và thi tuyển.

Xét cấp trực tiếp là cấp phép căn cứ theo hồ sơ đề nghị, theo nguyên tắc đến trước, cấp trước. Đây là phương thức truyền thống từ trước tới nay đang áp dụng.

Đấu giá và thi tuyển là 2 phương thức mới được đưa vào Luật. Việc cấp phép theo hình thức đấu giá hoặc thi tuyển được thực hiện khi “cung” không đáp ứng được “cầu”, thường áp dụng đối với các băng tần có giá trị thương mại cao, như các băng tần để cung cấp dịch vụ thông tin di động.

Việc đưa đấu giá vào là hình thức cấp phép mới tức là chấp nhận việc thị trường hóa lĩnh vực viễn thông và tần số. Điều này là một tất yếu theo xu hướng chung của thế giới và Việt Nam không thể đứng ngoài. Việc từng bước thị trường hóa trong lĩnh vực viễn thông và tần số VTĐ sẽ giúp ta lựa chọn những doanh nghiệp xứng đáng nhất, có thể triển khai sử dụng một cách tốt nhất phổ tần số VTĐ, đồng thời làm tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp mà lợi ích cuối cùng mà nó mang đến là sự đa dạng về dịch vụ, hạ thấp giá thành, phục vụ đông đảo lợi ích cho khách hàng sử dụng dịch vụ.

Trong văn bản Luật của các nước thường không quy định cụ thể trường hợp nào thì đấu giá, trường hợp nào thì thi tuyển. Tiếp thu kinh nghiệm này, trong Luật này để việc quyết định trường hợp nào, điều kiện nào thì đấu giá hoặc thi tuyển sẽ căn cứ vào chính sách viễn thông của Việt Nam tại thời điểm đó, tình hình phát triển công nghệ, nhu cầu của thị trường... Thủ tướng Chính phủ quyết định băng tần nào được đưa ra đấu giá, thi tuyển và quy định chi tiết về đấu giá, Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết về thi tuyển quyền sử dụng tần số sau khi xem xét tổng thể các yếu tố liên quan nhằm đảm bảo đe lại lợi ích tối đa cho đất nước.

5. Đối tượng được cấp giấy phép

Tổ chức, cá nhân hoạt động hợp pháp tại Việt Nam đáp ứng điều kiện để được cấp giấy phép tương ứng với từng loại. Riêng giấy phép sử dụng băng tần và giấy phép sử dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh, đối tượng được xem xét cấp phép không phải là cá nhân.

6. Điều kiện được cấp giấy phép

Về nguyên tắc chung, giấy phép sử dụng tần số VTĐ chỉ được cấp cho tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực đặc biệt như viễn thông, phát thanh – truyền hình, thông tin vệ tinh sau khi đã được Bộ TT&TT cấp giấy phép hoạt động báo chí, giấy phép viễn thông tương ứng hoặc tuân theo các điều kiện quy định khi gia nhập WTO.

Thiết bị VTĐ đề nghị cấp giấy phép phải phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật về phát xạ VTĐ, an toàn bức xạ VTĐ và tương thích điện từ.

Sử dụng tần số phải tiết kiệm, hiệu quả và phù hợp quy hoạch.

Tổ chức, cá nhân đề nghị cấp giấy phép phải cam kết thực hiện quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, kiểm tra, giải quyết nhiễu có hại và có bảo đảm người trực tiếp khai thác thiết bị VTĐ phải có Chứng chỉ vô tuyến điện viên theo quy định.

Đối với trường hợp đấu giá hoặc thi tuyển quyền sử dụng tần số VTĐ, điều kiện cấp phép là doanh nghiệp phải thắng trong đấu giá hoặc trúng tuyển trong thi tuyển.

7. Gia hạn, sửa đổi, bổ sung giấy phép sử dụng tần số VTĐ

Việc gia hạn giấy phép phải căn cứ vào nguyên tắc cấp giấy phép. Điều kiện để được gia hạn giấy phép là tổ chức cá nhân đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định và khi thời hạn hiệu lực của giấy phép còn ít nhất 30 ngày đối với giấy phép sử dụng tần số và thiết bị VTĐ; 60 ngày đối với giấy phép sử dụng băng tần; 90 ngày đối với giấy phép sử dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh.

Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ đề nghị gia hạn không đúng quy định này sẽ không được gia hạn giấy phép và phải làm hồ sơ nhu thủ tục cấp mới giấy phép. Nếu hồ sơ gửi khi giấy phép đã hết hạn sử dụng, tổ chức, cá nhân có thể phải sử dụng tần số mới nếu tần số được cấp giấy phép trước đây đã được ấn định cho đơn vị khác.

Tổng thời hạn cấp lần đầu và các lần gia hạn không vượt quá thời hạn tối đa quy định cho từng loại giấy phép. Nếu lần đầu tiên đã được cấp với thời hạn tối đa thì chỉ được gia hạn tiếp theo 1 năm nữa để tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân có thời gian thu xếp triển khai mạng thông tin mới nếu cần thiết. Hết thời hạn này, tổ chức, cá nhân phải làm thủ tục cấp mới giấy phép nếu còn nhu cầu sử dụng vào mục đích khác.

Việc sửa đổi, bổ sung cũng phải căn cứ vào nguyên tắc cấp giấy phép và chỉ sửa đổi, bổ sung trong thời hạn còn hiệu lực của giấy phép.

8. Thu hồi giấy phép sử dụng tần số VTĐ

Tổ chức, cá nhân sử dụng tần số chống lại Nhà nước, gây hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; sử dụng không đúng quy định của giấy phép gây thiệt hại nghiêm trọng đến Nhà nước và tổ chức, cá nhân khác cũng như việc gây nhiễu có hại trái phép, sử dụng tần số dành cho quốc phòng, an ninh, cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn vào mục đích khác gây hậu quả nghiêm trọng bị thu hồi giấy phép.

Tổ chức, cá nhân không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về phí sử dụng tần số và các nghĩa vụ tài chính như thuế chuyển quyền, đấu giá… hoặc không triển khai thực tế các nội dung quy định trong giấy phép trong vòng 2 năm kể từ ngày được cấp giấy phép thì cơ quan quản lý có trách nhiệm thu hồi giấy phép để tránh lãng phí về tần số.

Thu hồi tần số VTĐ đã được quy định chi tiết tại Thông tư số 24/2010/TT-BTTTT.

9. Chuyển nhượng quyền sử dụng tần số VTĐ

Luật tần số VTĐ quy định chỉ thực hiện việc chuyển quyền sử dụng kênh tần số, băng tần số đối với các giấy phép được cấp thông qua đấu giá.

Hầu hết các nước trên thế giới đều chỉ cho phép chuyển quyền sử dụng đối với hình thức đấu giá. Vì vậy, việc cho phép chuyển quyền sử dụng tần số là phù hợp với quốc tế và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Việc chuyển quyền thực hiện khi giấy phép vẫn còn hiệu lực và đối tượng nhận chuyển quyền phải thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người được cấp phép, kể cả quyền lợi và trách nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan. Điều này sẽ làm hạn chế đến mức tối thiểu các mối liên hệ giữa các bên sau khi chuyển quyền và đảm bảo việc không xảy ra tranh chấp khi chuyển quyền.

Việc chuyển quyền chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của Bộ TT&TT. Quy định cụ thể về chuyển quyền do Thủ tướng Chính phủ quy định.

10.  Cho thuê, cho mượn thiết bị VTĐ

Luật tần số VTĐ cho phép: Tổ chức, cá nhân là chủ phương tiện giao thông có trang thiết bị VTĐ, chủ đài VTĐ nghiệp dư có thể cho tổ chức, cá nhân khác thuê, mượn thiết bị VTĐ đã được cấp phép của mình để khai thác.

Luật quy định việc cho thuê, cho mượn thiết bị VTĐ để xác lập cơ sở pháp lý cho phép bên thứ ba có thể sử dụng một phần tần số, thiết bị của bên được cấp giấy phép theo các giới hạn nhất định, trong thời hạn tối đa bằng thời hạn của giấy phép. Việc quản lý và kiểm soát cho thuê, cho mượn được thực hiện thông qua quy định chi tiết về đối tượng, điều kiện, thủ tục thực hiện, trách nhiệm của các bên liên quan… của Bộ TT&TT.

11.  Sử dụng chung tần số VTĐ

Tài nguyên tần số VTĐ ngày càng khan hiếm, đặc biệt tại các băng tần có mật độ sử dụng cao. Do vậy, đối với trường hợp sử dụng tần số với lưu lượng thấp hoặc lưu động trong phạm vi rộng, để đảm bảo sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên tần số, nhiều nước đã áp dụng giải pháp dùng chung tần số cho các đối tượng này (như Mỹ, Anh, Úc, Đức,…), tạo hiệu quả cao trong việc tái sử dụng tần số. Ví dụ: công ty du lịch A có nhu cầu sử dụng các bộ đàm cầm tay công suất thấp dưới 10w trên toàn quốc, trong trường hợp này, công ty A sẽ phải dùng chung tần số với các công ty khác có mục đích sử dụng tương tự.

Để giảm thiểu xung đột, nhiễu có hại khi sử dụng chung tần số, dự thảo Luật (Điều 26) quy định Bộ TT&TT xây dựng quy định chi tiết về việc dùng chung (như: đối tượng, điều kiện, quy trình khai thác trên các tần số dùng chung, vấn đề mã hóa….).

12.  Miễn phí giấy phép sử dụng tần số VTĐ

Ngày nay, thông tin vô tuyến được ứng dụng rộng rãi trong cuộc sống. Các thiết bị vô tuyến nhỏ gọn, có công suất nhỏ, tầm liên lạc ngắn ngày càng được sử dụng khắp nơi, từ đồ chơi điều khiển bằng vô tuyến, chìa khóa vô tuyến mở cửa ô tô, gara, điện thoại kéo dài, các thiết bị cảnh báo, báo động…. Do đó công suất thấp, tầm làm việc hạn chế nên khả năng gây ra can nhiễu cho các hệ thống thông tin vô tuyến truyền thống là ít.

Do yếu tố thiết bị công suất nhỏ, khả năng gây nhiễu thấp, sử dụng phổ biến nên việc sử dụng các thiết bị này được miễn giấy phép sử dụng tần số và thiết bị. Tuy nhiên, cơ quan quản lý quy định rõ điều kiện sử dụng các thiết bị này, như băng tần làm việc, công suất (EIRP, ERP), giới hạn phát xạ ngoài băng (out-of-band emisssions), phát xạ giả (spurious emissions).

Người sử dụng các thiết bị này không phải xin cấp giấy phép khi sử dụng nhưng phải đảm bảo tuân thủ các điều kiện khai thác, sử dụng chung theo quy định của Bộ TT&TT để các thiết bị có thể hoạt động ổn định và không gây nhiễu cho các nghiệp vụ VTĐ khác.

Bộ TT&TT sẽ công bố danh mục các thiết bị VTĐ được sử dụng mà không cần giấy phép và quy định điều kiện khai thác, sử dụng đối với từng loại thiết bị cụ thể. Tổ chức, doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu các thiết bị này phải công bố và đảm bảo thiết bị phù hợp với các điều kiện khai thác, sử dụng theo quy định. Cách quản lý này đáp ứng với yêu cầu cải cách hành chính nhưng vẫn đảm bảo khả năng kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý trong việc sử dụng phổ tần số VTĐ. Đây cũng là cách thức quản lý đa số các nước áp dụng.

Quy định mới nhất về danh mục các thiết bị miễn cấp phép kèm điều kiện khai thác, sử dụng là Thông tư số 36/TT-BTTTT ngày 3/12/2009 do Bộ trưởng Bộ TT&TT ban hành.

12. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép sử dụng tần số và thiết bị VTĐ

Ngoài việc quy định những vấn đề mà tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép tuân thủ quy định của pháp luật trong lĩnh vực tần số VTĐ (Ví dụ như nộp phí, lệ phí, sử dụng tần số đúng quy định của giấy phép, tuân thủ thỏa thuận phối hợp quốc tế về tần số VTĐ, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, điểm mới của Luật tần số trong vấn đề này là cho phép tổ chức, doanh nghiệp được trực tiếp phối hợp tần số với tổ chức nước ngoài sử dụng tần số VTĐ và quỹ đạo vệ tinh, được tham gia phối hợp tần số VTĐ với cơ quan quản lý tần số VTĐ của các quốc gia do Bộ TT&TT chủ trì. Điểm mới này trong Luật giúp tăng cương vai trò, trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp trong công tác phối hợp, đăng ký quốc tế về tần số VTĐ và quỹ đạo vệ tinh, đồng thời tạo thêm nguồn lực trong lĩnh vực hợp tác quốc tế (Điều 27, 29, 30, 42, 43, 44) để bảo vệ tốt hơn lợi ích về tần số VTĐ của các quốc gia.

13. Phí sử dụng tần số VTĐ, lệ phí cấp giấy phép sử dụng tần số VTĐ

Tần số là một tài nguyên đặc biệt, không nhìn thấy được, tồn tại vĩnh viễn và không thay đổi, không hao hụt trong quá trình sử dụng, nhưng chỉ có thể sử dụng được nhờ hoạt động quản lý và thông qua các ứng dụng khoa học công nghệ. Nhà nước chỉ trao cho các tổ chức, cá nhân quyền sử dụng tần số VTĐ trong một thời hạn nhất định, sau thời hạn đó, tần số được thu hồi về nguyên vẹn. Điều này tạo nên sự khác biệt giữa tài nguyên tần số với các tài nguyên khác như dầu, than, khoáng sản…

Việc sử dụng tần số VTĐ chỉ có thể hiệu quả, không bị nhiễu và không gây nhiễu có hại cho các hệ thống VTĐ khác nhờ có hoạt động quản lý của nhà nước thông qua công tác xây dựng quy hoạch tần số VTĐ, tính toán ấn định và cấp phép tần số VTĐ, thanh tra, kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng tần số và phối hợp tần số quốc tế.

Lệ phí cấp phép được thu một lần khi người sử dụng làm hồ sơ đề nghị cấp phép.

Phí sử dụng tần số có thể được thu một lần hoặc hàng năm (đối với loại giấy phép có thời hạn nhiều năm).

14. Chứng chỉ vô tuyến điện viên

Chỉ có ba nghiệp vụ VTĐ là hàng không, hàng hải và VTĐ nghiệp dư yêu cầu người vận hành thiết bị phải có chứng chỉ VTĐ viên vì: tần số VTĐ sử dụng cho 3 nghiệp vụ này không chỉ để liên lạc trong nước mà còn liên lạc với các nước trên thế giới. Thể lệ VTĐ của Liên minh Viễn thông quốc tế có quy định về quy trình khai thác, sử dụng các tần số thuộc 3 nghiệp vụ này và đồng thời quy định người khai thác thiết bị VTĐ thuộc các nghiệp vụ này phải có chứng chỉ VTĐ viên. Vì vậy, để đảm bảo không gây nhiễu trên phạm vi quốc tế, người vận hành thiết bị VTĐ thuộc ba nghiệp vụ này phải có đủ kỹ năng, hiểu biết luật khai thác, sử dụng chung của quốc tế. Cơ quan quản lý tần số VTĐ ở các nước có quyền kiểm tra chứng chỉ này khi các đài VTĐ đặt trên tàu biển, tàu bay của nước ngoài đến lãnh thổ của mình.

15. Sử dụng tần số VTĐ trong trường hợp khẩn cấp

Điều luật này cho phép các tổ chức, cá nhân được sử dụng tạm tời tần số và thiết bị VTĐ chưa được cấp giấy phép để gọi cấp cứu trên các tần số dành riêng cho cấp cứu hoặc các tần số không dành riêng cho gọi cứu nạn. Tuy nhiên, việc sử dụng này không được tùy tiện, lạm dụng mà chỉ trong trường hợp khẩn cấp gây nguy hiểm đến tính mạng con người và tài sản.

Điều luật này cũng quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khi nghe thấy tín hiệu cấp cứu phải thực hiện hỗ trợ cần thiết, thông báo cho cơ quan tìm kiếm, cứu nạn.

(Còn tiếp)

Nội dung Luật tần số vô tuyến điện (Phần 1)

Tần số vô tuyến điện (VTĐ) đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi và có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc xây dựng và ban hành Luật tần số VTĐ để điều chỉnh các hoạt động quản lý và sử dụng tần số là một yêu cầu khách quan.

Chương I. Quy định chung

Chương này gồm 9 điều (từ Điều 1 đến Điều 9) quy định những vấn đề có tính nguyên tắc chung, chi phối toàn bộ nội dung của Luật như: phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; Giải thích từ ngữ; Chính sách của nhà nước; Nội dung, trách nhiệm quản lý nhà nước về tần số VTĐ, Cơ quan quản lý chuyên ngành; Thanh tra tần số VTĐ; hợp tác quốc tế về tần số VTĐ và những hành vi bị nghiêm cấm.

1. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng

- Luật này quy định về quản lý, sử dụng tần số VTĐ, thiết bị VTĐ, quỹ đạo vệ tinh và quản lý an toàn bức xạ VTĐ, tương thích điện từ, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia quản lý, sử dụng tần số VTĐ.

- Luật này áp dụng đối với các cơ quan nhà nước trong việc quản lý tần số VTĐ, đồng thời áp dụng với các tổ chức, cá nhân khác là đối tượng chịu sự quản lý về tần số VTĐ.

-  Cụm từ “quản lý, sử dụng tần số vô tuyến điện” được dùng chung trong toàn bộ nội dung của Luật để chỉ: Việc quản lý và sử dụng tần số VTĐ, thiết bị VTĐ, quỹ đạo vệ tinh và quản lý an toàn bức xạ VTĐ, tương thích điện từ; các hoạt động sản xuất, nhập khẩu thiết bị VTĐ cũng thuộc hoạt động quản lý tần số, thiết bị VTĐ.

-  Quỹ đạo vệ tinh gắn chặt với việc sử dụng tần số VTĐ, đây là chủ quyền quốc gia, cần được khẳng định và điều chỉnh trong Luật. Do đó, Luật có một chương quy định về đăng ký, phối hợp quốc tế về tần số VTĐ và quỹ đạo vệ tinh.

-  Luật có các điều khoản quy định về quản lý chất lượng phát xạ VTĐ, thiết bị VTĐ, quản lý tương thích điện từ. Các tổ chức, cá nhân xuất, nhập khẩu thiết bị VTĐ cũng phải chịu sự điều chỉnh của Luật này.

2.  Cơ quan quản lý chuyên ngành tần số VTĐ (Điều 6)

Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) là cơ quan quản lý nhà nước về tần số VTĐ. Để giúp Bộ trưởng thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về tần số VTĐ có Cơ quan quản lý chuyên ngành tần số VTĐ là Cục Tần số VTĐ, trực thuộc Bộ TT&TT. Một số chức năng, nhiệm vụ cơ bản của Cục Tần số là:

- Xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và các quy hoạch tần số;

-  Ấn định và cấp phép sử dụng tần số;

- Thu và nộp ngân sách lệ phí cấp, gia hạn, sửa đổi bổ sung nội dung giấy phép, phí sử dụng tần số VTĐ theo quy định của Bộ Tài chính.

-  Kiểm soát tần số, giám sát hoạt động của các hệ thống VTĐ, ngăn ngừa và loại trừ các nguyên nhân gây nhiễu VTĐ.

-  Kiểm tra, thanh tra xử lý các vi phạm về tần số VTĐ;

-  Phối hợp, đăng ký quốc tế về tần số và quỹ đạo vệ tinh, bảo vệ lợi ích quốc tế gia về tần số VTĐ và quỹ đạo vệ tinh địa tĩnh. Đảm bảo thi hành các cam kết quốc tế về tần số VTĐ mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.

- Thực hiện các nhiệm vụ về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tần số VTĐ theo sự phân công, phân cấp của Bộ trưởng.

3.  Hợp tác quốc tế về tần số VTĐ

Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tần số VTĐ là hết sức quan trọng để bảo vệ chủ quyền quốc gia về tần số VTĐ và quỹ đạo vệ tinh. Luật quy định một điều riêng về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tần số VTĐ (Điều 8).

Đặc điểm quan trọng của sóng VTĐ là truyền lan không bị hạn chế về biên giới quốc gia. Quốc gia về tần số nhiều khi không chỉ là các quốc gia có chung biên giới. Hoạt động phối hợp quốc tế về tần số và quỹ đạo vệ tinh diễn ra thường xuyên, theo những quy định quốc tế về pháp lý và kỹ thuật cụ thể và luôn được sửa đổi và bổ sung phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ VTĐ.

Công nghệ quản lý, sử dụng tần số VTĐ là công nghệ cao. Mặc dù chúng ta đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận trong những năm gần đây, nhưng vẫn ở trình độ thấp so với các nước phát triển. Do đó, cần tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tần số VTĐ để nâng cao trình độ quản lý và sử dụng tần số, bảo vệ chủ quyền và quyền lợi quốc gia.

II. Chương 2: Quy hoạch tần số VTĐ

Theo luật Tần số VTĐ, hệ thống quy hoạch tần số VTĐ sẽ bao gồm:

- Quy hoạch phổ tần quốc gia

- Quy hoạch băng tần

- Quy hoạch phân kênh tần số

- Quy hoạch sử dụng kênh tần số

1.  Nội dung của các loại Quy hoạch

a) Nội dung của Quy hoạch phổ tần số VTĐ quốc gia

Quy hoạch phổ tần số VTĐ quốc gia là quy hoạch quy định tổng thể việc sử dụng phổ tần số VTĐ cho các nghiệp vụ VTĐ.

Quy hoạch phổ tần số VTĐ quốc gia phân chia phổ tần số VTĐ thành các băng tần và quy định các nghiệp vụ VTĐ thành các băng tần và quy định các nghiệp vụ VTĐ được sử dụng trong mỗi băng tần.

Với một số băng tần, quy hoạch có thể quy định điều kiện sử dụng cụ thể cho từng nghiệp vụ hay hệ thống vô tuyến cụ thể. Các quy định đó thường được để trong các Chú thích (footnote) của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) hoặc của riêng nước đó.

b) Nội dung của Quy hoạch băng tần

Nếu như Quy hoạch phổ tần quốc gia phân chia phổ tần thành các băng tần dành cho một hay một số nghiệp vụ nào đó thì Quy hoạch băng tần quy định chi tiết các điều kiện, mục đích sử dụng một hay một số đoạn băng tần cho một loại nghiệp vụ hay một hệ thống thông tin vô tuyến cụ thể nào đó. Ví dụ, Quy hoạch băng tần cho các hệ thống thông tin di động tế bào trong các dải tần 821 – 960MHz và 1710  - 2200MHz.

Ví dụ, trong Quy hoạch phổ VTĐ quốc gia, chỉ quy định băng tần 824 – 890 MHz được sử dụng cho nghiệp vụ Cố định, Lưu động: 890 – 915 MHz được sử dụng cho nghiệp vụ Lưu động làm nghiệp vụ chính; 915 – 935 MHz được sử dụng cho nghiệp vụ Cố định, Lưu động thì trong Quy hoạch băng tần cho các hệ thống thông tin di động tế bào số của Việt Nam đến năm 2010, băng tần này được quy hoạch chi tiết hơn: các đoạn 882 – 890 MHz/927-935MHz được dành cho hệ thống di động toàn quốc (HT Mobile), đoạn 824 – 829 MHz/869-874MHz dành cho hệ thống CDMA nội tỉnh ở TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nghệ An, Hải Dương đến năm 2010, đoạn băng tần 851 – 866 MHz được phân bổ cho các hệ thống trunking.

c. Nội dung của Quy hoạch phân kênh

Quy hoạch phân kênh thì quy định phân chia mỗi băng tần thành các nhóm kênh tần số dung cho một loại nghiệp vụ VTĐ cụ thể theo một hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật nhất định. Ví dụ, năm 2009 Bộ TT&TT đã ban hành Thông tư 27/2009/TT-BTTTT kèm Quy hoạch phân kênh tần số và các điều kiện kỹ thuật và khai thác kèm theo cho các hệ thống cố định và lưu động mặt đất trong băng tần 30 – 1000MHz và các hệ thống viba một chiều hoặc hai chiều sử dụng kỹ thuật song công phân chia theo tần số (FDD) trong băng tần 1 – 30 GHz.

Quy hoạch phân kênh có mục đích là thiết lập trật tự sử dụng kênh tần số, thống nhất tiêu chuẩn cho các hệ thống thông tin vô tuyến, là cơ sở cho việc cấp phép tần số.

Việc thiết lập trật tự sử dụng kênh tần số có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng phổ tần, hạn chế can nhiễu.

Do mang tính chất tiêu chuẩn nên Quy hoạch phân kênh cũng có vai trò quan trọng trong định hướng cho việc sản xuất, nhập khẩu thiết bị VTĐ.

Ví dụ: nếu quy hoạch quy định khoảng cách song công của thiết bị vi ba trong băng tần nào đó là 119MHz thì không thể sản xuất, nhập khẩu và sử dụng thiết bị viba có khoảng cách song công khác.

d. Nội dung của Quy hoạch sử dụng kênh tần số:

Nhằm bố trị và quy định điều kiện sử dụng các kênh tần số đối với một hệ thống cho một loại nghiệp vụ VTĐ cụ thể.

Hiện nay, quy hoạch cho các đài phát thanh – truyền hình thuộc loại này. Các đài VTĐ được phân theo vị trí cụ thể, được phát các kênh tần đã được quy định sẵn trong quy hoạch với các điều kiện cụ thể về vi phạm phủ sóng, công suất phát. Trong thời gian tới, sẽ có thể tiếp tục xây dựng quy hoạch cho các đài bờ, đài thông tin VTĐ phục vụ phòng chống lụt bão,…

Trong số các loại quy hoạch tần số VTĐ thì Quy hoạch phổ tần số VTĐ quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến việc sử dụng tần số của các Bộ, ngành. Đây là cơ sở để các Bộ, Ngành định hướng sử dụng và đầu tư, trang thiết bị kỹ thuật VTĐ. Quy hoạch này đặt nền móng cho việc quản lý, phân bổ, cấp giấy phép tần số VTĐ và thiết lập trật tự thông tin VTĐ.

4. Nguyên tắc xây dựng quy hoạch (Điều 10)

a. Quy hoạch phổ tần VTĐ quốc gia được xây dựng trên cơ sở:

-  Các quy định của Thể lệ VTĐ đối với Khu vực 3, là khu vực Việt Nam nằm trong đó. Quy hoạch của Việt Nam sẽ không mâu thuẫn với quy định trong Thể lệ VTĐ.

-  Đặc thù sử dụng VTĐ của Việt Nam, trong đó ưu tiên hợp lý cho các công nghệ mới, đảm bảo an toàn thong tin và an ninh quốc gia.

Ví dụ:

Băng tần 890 – 924 MHz được ITU phân bổ cho các Nghiệp vụ Lưu động, Cố định, Quảng bá là nghiệp vụ chính ở Khu vực 3. Nhưng tại Việt Nam, do phần lớn băng tần này dùng cho các hệ thống di động GSM (thuộc nghiệp vụ lưu động) nên Quy hoạch phổ tần VTĐ quốc gia của Việt Nam đã bỏ nghiệp vụ quảng bá ra khỏi quy hoạch, đưa nghiệp vụ Cố định thành nghiệp vụ phụ trong các đoạn băng tần của GSM (890 – 915/935-960MHz).

b. Quy hoạch băng tần:

-  Có nhu cầu sử dụng băng tần đó để triển khai một hệ thống, một công nghệ cụ thể nào đó trong phạm vi rộng (khu vực hay toàn bộ lãnh thổ).

- Việc quy hoạch cho hệ thống, công nghệ đó phải phù hợp với Quy hoạch phổ tần số VTĐ quốc gia.

- Thực trạng sử dụng băng tần đó, đảm bảo việc chuyển đổi từ hiện trạng sang quy hoạch với chi phí thấp nhất.

c. Quy hoạch phân kênh được sử dụng trên các sở cứ chủ yếu sau:

- Quy hoạch phổ tần số VTĐ quốc gia

- Các khuyến nghị phân kênh của ITU

-  Thực trạng sử dụng tần số của Việt Nam, đảm bảo việc chuyển đổi từ hiện trạng sang quy hoạch với chi phí thấp nhất

-  Đáp ứng nhu cầu sử dụng kênh tần số trong tương lai gần và khả năng ứng dụng công nghệ mới, linh hoạt trong ấn định tần số.

d. Quy hoạch sử dụng kênh tần số: tương tự như Quy hoạch phân kênh.

5.      Thẩm quyền phê duyệt và thực hiện quy hoạch

a.  Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phổ quốc gia

b. Trên cơ sở Quy hoạch phổ tần số VTĐ quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ TT&TT ban hành các quy hoạch sử dụng kênh tần số.

Ở cấp độ quốc gia, Quy hoạch tần số VTĐ quốc gia là quy hoạch tần số có mức độ pháp lý cao nhất, trong đó quy định việc phân chia phổ tần số VTĐ thành các băng tần dành cho nghiệp vụ VTĐ. Quy hoạch phổ tần số VTĐ quốc gia mới nhất được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là Quyết định 125/2009/QĐ-TTg ngày 23/10/2009.

Trên cơ sở Quy hoạch phổ tần số VTĐ quốc gia, Bộ TT&TT sẽ xây dựng và ban hành Quy hoạch băng tần, Quy hoạch phân kênh, cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác lien quan đến việc sử dụng, khai thác và quản lý phổ tần số VTĐ. Các quy hoạch, văn bản quy phạm pháp luật này phải tuân thủ và không được trái với Quy hoạch phổ tần số VTĐ quốc gia.

c. Thực hiện Quy hoạch

Sau khi các quy hoạch được cấp có thẩm quyền có ban hành, các tổ chức, cá nhân sử dụng tần số VTĐ và các cơ quan quản lý có liên quan phải chấp hành quy định của các quy hoạch này.

d. Thu hồi quyền sử dụng tần số VTĐ để thực hiện quy hoạch

Trường hợp quy hoạch mới được xây dựng có thay đổi về mục đích hoặc đối tượng được sử dụng các băng tần so với quy hoạch trước đây thì sẽ phải thực hiện thu hồi quyền sử dụng tần số VTĐ đã cấp cho tổ chức cá nhân để thực hiện theo quy hoạch mới. Thu hồi có thể là một phần hay toàn bộ quyền sử dụng băng tần, kênh tần số khi giấy phép có hiệu lực. Các băng tần, kênh tần này sau khi được thu hồi sẽ được chuyển đổi mục đích hoặc đối tượng sử dụng.

Tổ chức, cá nhân bị thu hồi quyền sử dụng tần số VTĐ sẽ được bồi thường theo quy định của pháp luật.

Về phía cơ quan quản lý, sau khi quy hoạch ban hành thì phải có trách nhiệm công bố công khai về thời gian, kế hoạch chuyển đổi tần số, thiết bị VTĐ và đồng thời thông báo cho tổ chức, cá nhân bị thu hồi.

III. Chương 3. Quản lý chất lượng phát xạ VTĐ, an toàn bức xạ VTĐ và tương thích điện từ

Chương này gồm 3 điều (từ Điều 13 đến Điều 15) quy định về quản lý chất lượng phát xạ và tương thích điện từ đối với thiết bị VTĐ; quản lý tương thích điện từ đối với các thiết bị điện, điện tử và đảm bảo an toàn bức xạ VTĐ.

1. Hình thức quản lý

a. Công bố danh mục thiết bị

Các cơ quan quản lý nhà nước công bố Danh mục các thiết bị quản lý. Cụ thể:

  • Bộ TT&TT công bố các danh mục sau:

-  Danh mục thiết bị VTĐ có khả năng gây nhiễu có hại

- Danh mục thiết bị VTĐ, thiết bị ứng dụng song VTĐ có khả năng gây mất an toàn bức xạ VTĐ

- Danh mục thiết bị VTĐ bắt buộc kiểm định về an toàn bức xạ VTĐ;

- Danh mục thiết bị VTĐ, thiết bị viễn thông và thiết bị công nghệ thông tin, thiết bị ứng dụng sóng VTĐ có khả năng gây mất an toàn do không tương thích điện từ.

  • Bộ Khoa học Công nghệ ban hành danh mục sau khi thống nhất với Bộ TT&TT:

- Danh mục thiết bị điện, điện tử có bức xạ VTĐ có khả năng gây mất an toàn do không tương thích điện từ.

b. Thực hiện việc chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy và sử dụng dấu hợp quy đối với các thiết bị thuộc các danh mục trên

Tùy theo từng loại thiết bị có thể phải đảm bảo 1, 2 hoặc cả 3 quy định về chất lượng phát xạ VTĐ, an toàn bức xạ VTĐ và tương thích điện từ. Tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu các thiết bị thuộc danh mục do Cơ quan quản lý công bố phải thực hiện việc chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy và sử dụng dấu hợp quy theo quy định.

c. Chỉ định tổ chức kiểm định:

Bộ TT&TT chịu trách nhiệm chỉ định các tổ chức đủ điều kiện để tổ chức, cá nhân thực hiện các thủ tục về kiểm định tại một trong các tổ chức này.

d. Kiểm định

Các tổ chức được Bộ TT&TT chỉ định có trách nhiệm thực hiện các thủ tục về kiểm định theo quy định.

Thiết bị VTĐ khi được lắp đặt anten, nhà trạm để chuẩn bị cho việc khai thác, sử dụng thì phải được kiểm định về phát xạ và về an toàn bức xạ VTĐ. Việc kiểm định ở đây là việc đo, đánh giá sự phù hợp với các quy định về bức xạ và an toàn bức xạ điện từ của một hệ thống thiết bị VTĐ.

2. Nội dung quản lý

a. Quản lý chất lượng phát xạ VTĐ

Trong lĩnh vực tần số VTĐ, việc quản lý phát xạ VTĐ được áp dụng đối với thiết bị VTĐ.

b. Quản lý an toàn bức xạ VTĐ

Hiện nay xã hội đang rất quan tâm đến vấn đề ảnh hưởng của bức xạ VTĐ đối với sức khỏe người dân. Cơ quan có thẩm quyền cần có giải pháp phù hợp ngăn ngừa những ảnh hưởng này. Lần đầu tiên trách nhiệm quản lý về an toàn bức xạ VTĐ được xác định rõ trong Luật là thuộc về Bộ TT&TT mà không phải thuộc sự quản lý của Bộ Y tế hay Bộ Tài nguyên Môi trường…

Quản lý an toàn bức xạ VTĐ áp dụng cho các đài VTĐ, thiết bị VTĐ, thiết bị ứng dụng sóng VTĐ.

Nguồn bức xạ VTĐ có thể do các thiết bị VTĐ, hoặc các thiết bị điện, điện tử khác gây ra như đường dây tải điện cao áp. Mức độ ảnh hưởng của bức xạ điện từ đến sức khỏe con người phụ thuộc vào tần số, mật độ công suất tác động lên cơ thể. Vì vậy, cần thiết lập và kiểm soát giới hạn bức xạ VTĐ để đảm bảo an toàn cho con người, môi trường. Hiện nay, trên thế giới cách thức quản lý vấn đề đảm bảo an toàn bức xạ VTĐ phổ biến là thông qua việc ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về bức xạ và yêu cầu trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp trong việc tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật về bảo đảm an toàn bức xạ VTĐ.

Tương tự như cách quản lý của các nước, Luật tần số VTĐ quy định trách nhiệm của Bộ TT&TT trong việc ban hành Danh mục thiết bị cần kiểm soát về giới hạn an toàn bức xạ VTĐ; quy định các quy chuẩn kỹ thuật liên quan; chỉ định các tổ chức đủ điều kiện thẩm định an toàn bức xạ VTĐ. Luật đồng thời quy định trách nhiệm của người sản xuất, nhập khẩu và sử dụng các thiết bị thuộc Danh mục.

c. Quản lý tương thích điện từ

Quản lý tương thích điện từ áp dụng đối với thiết bị điện, điện tử.

Các thiết bị điện, điện tử có thể sinh ra các sóng VTĐ một cách không chủ đích, không vì mục đích thông tin hoặc các mục đích hữu ích khác (ví dụ máy sấy tóc, bugi xe máy, đèn tuýp…). Các bức xạ sóng VTĐ không mong muốn này có thể gây nhiễu có hại đến các thiết bị, hệ thống thiết bị khác trong môi trường điện từ.

Thực tế tại Việt Nam đã xảy ra nhiễu do bức xạ cao tần của máy ép ni lông gây nhiễu tới kênh truyền hình TP. Hồ Chính Minh; nhiễu từ đèn tuýp, máy sấy tóc gây ảnh hưởng đến chất lượng máy thu tín hiệu phát thanh, truyền hình; nhiễu của trạm bơm nước đến mạng thông tin VTĐ của Bộ Công an; nhiễu điện thoại kéo dài đến hệ thống thong tin điều hành bay của hàng không v.v…

Vì vậy, yêu cầu quản lý tương thích điện từ đối với các thiết bị điện, điện tử là rất cần thiết.

Luật tần số VTĐ quy định trách nhiệm quản lý tương thích điện từ của Bộ TT&TT, Bộ KHCN; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, sử dụng thiết bị thuộc danh mục có khả năng gây mất an toàn do không tương thích điện từ.

(Còn tiếp)

Nghiên cứu định lượng đánh giá tính sẵn sàng trong cung cấp dịch vụ công

Bùi Xuân Chung

Trong bài báo PPP đã gõ cửa ngành Thông tin và Truyền thông (TT&TT), tác giả đã luận bàn các điểm quan trọng về mô hình PPP, để có thể vận dụng mô hình PPP trong cung cấp dịch vụ công và dịch vụ công trong ngành Công nghệ thông tin và Truyền thông (Viễn thông công ích, Chính phủ điện tử, Bưu chính công ích, Báo chí công ích…)  các nội dung đánh giá về sự sẵn sàng của mô hình PPP là cần thiết.

Mô hình đánh giá tính sẵn sàng thường được sử dụng trong hai giai đoạn: Giai đoạn khởi động sử dụng phục vụ việc ra quyết định; Giai đoạn kết thức sử dụng mô hình như một công cụ định lượng đánh giá tác động. Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế, các ý kiến chuyên gia trong ngành công nghệ thông tin và truyền thông chúng tôi đề xuất một nghiên cứu định lượng trong đánh giá tính sẵn sàng trong cung cấp dịch vụ công (Dịch vụ chính phủ điện tử). Tuy rằng, các kết quả này có phảm vi phỏng vấn hẹp nhưng kết quả phân tích sẽ là một gợi ý tốt cho các nhà tạo lập chính sách. 

Ảnh: TTH

I. Mô hình đo lường mức độ sẵn sàng trong cung cáp dịch vụ công ngành TT&TT bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá

1.1  Mục đích

Mục đích của mẫu đánh giá tính sẵn sàng PPP là cung cấp một công cụ chẩn đoán để xác định các lĩnh vực chính mà chính phủ cần phải giải quyết để khu vực tư nhân tham gia tích cực hơn trong quá trình phát triển cơ sở hạ tầng.

Chức năng chính của đánh giá là nó sẽ được sử dụng để dự đoán các vấn đề trong việc thu hút đầu tư tư nhân cho phát triển cơ sở hạ tầng như khác biệt bằng cách sử dụng nó để phát triển các tiêu chuẩn chống lại mà thành phần khác nhau trong đầu tư cung cấp dịch vụ công.

1.2  Thiết kế khung phân tích

Mục đích xây dựng khung phân tích để xây dựng các câu hỏi, mà trong đó tất cả các câu hỏi có thể được trả lời bởi các bên thảo luận về môi trường đầu tư cho PPP. Trạng thái tốt nhất, các nhóm câu hỏi trên liên quan với lợi ích đầy đủ của các bên tham gia. Ví dụ, một nhóm khu vực công và khu vực một nhóm tư nhân. Trên cơ sở các thông tin từ các câu hỏi về rào cản đối với mỗi bên, chúng ta có thể thảo luận chung và sự khác biệt trong nhận thức của họ về môi trường PPPs. Dựa trên thông tin thu được từ câu hỏi, chúng ta có thể đề xuất kế hoạch hành động. Quá trình đánh giá toàn bộ được tóm tắt trong Hình 1.

Hình 1.Khung phân tích

Bảng câu hỏi thu thập thông tin được chia tách thành hai phần.

Phần I với các câu hỏi tập trung vào các vấn đề liên quan đến môi trường đầu tư chung trong cả nước. Các lĩnh vực trọng tâm bao gồm:

- Môi trường kinh tế vĩ mô

- Môi trường kinh doanh

- Môi trường tài chính

- Môi trường pháp lý và quản trị.

Phần II với câu hỏi tập trung vào câu hỏi cụ thể liên quan đến PPP và có chất lượng. Các lĩnh vực mà tập trung những câu hỏi bao gồm:

- Quy phạm pháp luật và chế định cung cấp PPP

- Khung chính sách liên quan đến PPP

- Năng lực thực hiện PPP

- Quá trình kế hoạch dự án và ký kết hợp đồng PPP

- Quá trình lựa chọn PPPs

- Nhân thức xã hội về PPP

Việc cho điểm đối với cả hai phần được dựa trên tiêu thức sau:

- Rất tốt = 4 điểm;

- Tốt  = 3 điểm;

- Trung bình = 2 điểm;

- Tạm chấp nhận = 1 điểm;

- Không có ý kiến = 0 điểm.

Trong khuôn khỏ bài báo này, tác giả đã tiến hành phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực TT&TT. Kết quả phỏng vấn và phân tích được đề cập trong phần II dưới đây. Kết quả phỏng vấn trong quy mô nhỏ không tránh khỏi các hạn chế, tuy nhiên đây sẽ là một gợi ý tốt trong việc xây dựng chính sách PPP trong ngành TT&TT.

a. Hệ thống câu hỏi và bản đồ nhận thức

Mục đích của đánh giá là thu thập thông tin thông tin về sự nhận thức và thách thức đối với việc cung cấp dịch vụ công theo hình thức PPPs. Tổng quan nhất nếu, các nhóm nên bao gồm của các bên liên quan với lợi ích chung, ví dụ: một nhóm khu vực công và khu vực một nhóm tư nhân. Việc trả lời bảng câu hỏi, các nhóm có thể thảo luận về tính phổ biến và sự khác biệt trong nhận thức của họ về môi trường PPP. Dựa trên các câu hỏi chúng tôi xây dựng bản đồ nhận thức về mức độ sẵn sàng trong cung cấp dịch vụ công trong Hình 2.

Hình 2. Bản đồ nhận thức

II. Thực hiện phỏng vấn xây dựng số liệu mô phỏng và phân tích

Trên cơ sở nội dung phân tích tại mục 1 chúng tôi tiến hành thu thập số liệu để mô phỏng lại bản đồ nhận thức về tính sẵn sàng trong cung cấp dịch vụ công, các nội dung cụ thể về phân tích và xử lý số liệu được đề cập trong các nội dung dưới đây.  

2.1. Thu thập và phân tích số liệu

Trong quá trình phỏng vấn chung tôi đã tiến hành phỏng vấn ba loại đối tượng cơ bản, các nhà tạo lập chính sách, các thành phần trong nước, các thành phần Quốc tế, kết quả tổng hợp được thể hiện trong bảng dữ liệu số 1 sau đây.

Bảng 1. Tổng hợp số liệu nhân thức về tính sẵn sàng hợp tác công tư trong cung cấp dịch vụ công ngành Thông tin và Truyền thông

2.2 Những phát hiện

Những kết quả phân tích cho thấy sự sai khác trong nhận thức của các chủ thể trong xây dựng mô hình PPP. Sự sai khác này có thể nhìn nhận theo chủ thể và theo các khía cạnh đánh giá.

Theo sự sai khác của các chủ thể (Chiều ngang) chúng ta có thể nhận thấy mức độ sẵn sàng như sau:

- Chính phủ mong muốn xây dựng mô hình quan hệ công tư (70%), biến hình thức hợp tác công tư thành một giải pháp để phát triển hạ tầng, cung cấp dịch vụ công cộng.

- Các thành phần phi nhà nước nội địa đã quan tâm đến hình thức hợp tác công tư (46%).

- Các thành phần phi nhà nước Quốc tế chưa nhiều quan tâm đến hình thức hợp tác công tư (43%).

Những kế quả đo lường theo chủ thể cho thấy Chính phủ cần khuyến khích hơn các thành phần tham gia hợp tác công tư để cung cấp dịch vụ công trong ngành Thông tin và truyền thông.

Đánh giá mức độ sẵn sàng theo các nhân tố (Chiều dọc) chúng tôi phản ánh qua chỉ số trung bình tỷ trọng, trong tương lai khi số mẫu phỏng vấn đủ lớn chung tôi sẽ sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phả để vẽ lại hành vi chung về tính sẵn sàng trong thực hiện PPP để cung cấp dịch vụ công trong ngành TT&TT.

Kết quả phân tích theo tỷ trọng để vẽ lại bản đồ nhận thức trong Hình 3.

Hình 3. Kết quả Bản đồ nhận thức

Các phân tích theo chiều dọc đã chỉ ra hai nội dung là môi trường tài chính và hệ thống quy định pháp lý là thấp nhất. Qua phân tích theo nhân tố đã chỉ ra nhiệm vụ của Chính phủ trong việc xây dựng mô hình PPP strong cung cấp dịch vụ công là hoàn thiện và phát triển các quy định pháp lý liên quan đến PPPs và phát triển thị trường tài chính và tiền tệ để khơi thông dòng vốn PPPs vào cung cấp dịch vụ công trong ngành Thông tin và truyền thông.

Để có hình ảnh tổng hợp hơn chúng tôi đã vẽ lại sự liên hệ các nhân tố theo bản đồ rada trong Hình 4.

Hình 4. Kết quả Bản đồ nhận thức

III. Những gợi ý từ việc phân tích tính sẵn sàng PPP trong cung cấp dịch vụ công

3.1 Gợi ý về việc xây dựng chính sách PPP tại Việt Nam

Những ý kiến về phân tích mức độ sẵn sàng hợp tác công tư trong cung cấp dịch vụ công có thể đem lại vài gợi ý quan trọng cơ bản sau.

Thứ nhất, khi hệ thống luật pháp khung liên quan đến PPP chưa có, nếu Chính phủ muốn phát triển quan hệ công tư thì cần quan tâm đến các dự án cụ thể có kỳ hạn từ năm năm trở lên. Các nội dung luật pháp sẽ được cụ thể hóa trong các bản cam kết của dựa án, trong đó các cam kết của dự án được hiểu như các điều ước Quốc tế sẽ khuyến khích các Nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào cung cấp dịch vụ công với công nghệ và chất lượng quản lý quốc tế tại Việt Nam.

Thứ hai, các cam kết của Chính phủ trong dự án đặc biệt là các cam kết tài chính là cơ sở cho các Nhà đầu tư trong nước bỏ vốn đầu tư cung cấp dịch vụ công.

Thứ ba, hệ thống luật pháp liên quan đến vận hành quan hệ công tư cần phải giải quyết các nhiệm vụ sau:

- Bảo vệ sở hữu và Quyền đầu tư

- Qui định về chuyển nhượng nghĩa vụ cung cấp

- Quy định về chính sách quản lý của Nhà nước với PPP

- Quy định về hợp đồng và nghĩa vụ hợp đồng PPP

- Quy định về đánh giá chất lượng dịch ụ cung cấp theo phương thức PPP

- Quy định về đấu thầu cung cấp dịch vụ trong PPP

- Quy định về nghĩa vụ đảm bảo trong thực hiện PPP

3.2  Gợi ý về việc tạo lập nguồn vốn xã hội trong đầu tư hạ tầng

Những nhu cầu trong lĩnh vực công rất đa dạng, đi cùng với nhu cầu đó là giới hạn ngân sách đầu tư cho lĩnh vực công. Việc mở rộng mô hình công tư là một trong cách thức tốt để có vốn đầu tư chung cấp dịch vụ công.

Bên cạnh dòng vốn tài chính còn có dòng vốn nhân lực do các dơn vị cung cấp dịch vụ công mang theo vào các dự án PPPs. Gợi ý này là một điểm quan trọng trong bù đắp các thiếu hụt nhân lực cao của khu vực công di chuyển sang khu vực tư.

Những nhu cầu của Chính phủ về nguồn vốn nhân lực cao cấp sẽ là một tín hiệu tốt khẳng định nhu cầu nhân lực cao cấp trong lĩnh vực công.

3.3  Gợi ý phát triển thị trường dịch vụ công

Để hình thức PPPs hoạt động hiệu quả rất cần sự hiện dịch của thị trường công. Thị trường là một công cụ hiệu quả để giám sát, phát triển, bình trọn và nâng cao hiệu quả trong việc đầu tư công.

Các minh chứng về nhu cầu đầu tư công sở, các dịch vụ công cơ bản.. đã khẳng định sự tồn tại nhu cầu trong thị trường công. Vấn đề cần giải quyết là khơi thông kênh cung cứng các dịch vụ công.

Bên cạnh các nỗ lực của Chính phủ trong tạo lập hành lang pháp lý cần đến “bàn tay” của thị trường. Do đó sự tồn tại và phát triển thị trường dịch vụ công cũng cần một “cú hích” của Chính phủ như việc công bố thông tin đấu thầu trong các dự án cung cấp dịch vụ công dài hạn và ổn định.   

3.4  Gợi ý về phát triển nhân lực trong cung cấp dịch vụ công

Trước khi ban hành luật cán bộ công chức năm 2009, các vấn đề liên quan đến cán bộ công chức như: đãi ngộ, sử dụng, và giữa chân công chức v.v… được bàn luận rộng rãi. Khó khăn trong việc phát triển cán bộ công chức được nhấn mạnh trong câu nói của đại diện Bộ nội vụ “vấn đề cán bộ công chức vẫn cần xem xét trong nguồn lực cụ thể”.

Việc mở ra hình thức hợp tác công tư cúng là hình thức tốt để giữ cân người giỏi thông qua việc cử cán bộ công chức vào giám sát các công ty cung cấp dịch vụ công. Thực tế làm việc tôi đã gặp các CEO của Chính phủ trong giám sát làm việc trong các dự án hợp tác Quốc tế của các tập đoàn Huyndai, LG, Samsung tại các dự án hợp tác tại Việt Nam.

Bên cạnh sự hợp tác công tư trong vốn nhân lực, sự tham gia của các CEO là một minh chứng cụ thể nhất trong quyết tâm đưa chính sách quản lý của Nhà nước vào thực tế đời sống kinh tế - xã hội. 

Tài liệu tham khảo

[1]. Lê Chi Mai (2007), Tài liệu Giảng dạy chuyên viên cao cấp của Việt Nam, Chuyên đề: Xã hội hóa và tư nhân hóa, đổi mới cung cấp dịch vụ công, Hà Nội.

[2]. Nhóm phóng viên giáo dục (2008), “Ý kiến của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân về tăng tốc "con tàu" xã hội hóa”, Báo Thanh Niên, (11), Hà Nội.

[3]. Chu Văn Thành (2007), Dịch vụ công - Đổi mới quản lý và cung ứng ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[4]. Chu Văn Thành (2004), Dịch vụ Công và xã hội hóa dịch vụ công - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[5]. Antonio Estache (2007), PPPs in transport, Washington DC.

[6]. Canada government (1999), Public Private Partnership A Guide for Local Government, Canada.

[7]. Mona Hammami (2006)- Diterminants of PPPs in infrastructure, IMF,Washington DC.

[8]. United kingdom (2006), Public private partnerships - The government’s approach, London.

[9]. World Bank (2005), Assesing and reforming Public Financial Management - A new approach,Washington DC.

[10]. World Bank (2005), Fiancing information and communication infrastructure needs in the developing World - Public and private role,Washington DC.

[11]. World Bank (2004), Telecommunications challengers in developing countries,Washington DC.

[12]. J.J. Hox (2003), An Introduction to Structural Equation Modeling, Family Science Review

Xem thêm:

PPP đã gõ cửa ngành Thông tin và Truyền thông

Một số điểm mới của Luật Bưu chính và Nghị định số 47/2010/NĐ-CP

Ngày 17/6/2010, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII, dự án Luật Bưu chính đã được Quốc hội biểu quyết thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011 và ngày 17/6/2011, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số nội dung của Luật Bưu chính đã được Chính phủ ban hành và Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2011. Sau đây một số điểm mới của Luật Bưu chính và Nghị định số 47/2011/NĐ-CP:

Ảnh minh họa: Internet

1. Thống nhất cách gọi chung cho 2 dịch vụ bưu chính và dịch vụ chuyển phát

Lĩnh vực

Bưu chính

Chuyển phát

Định nghĩa

Pháp lệnh BCVT

“Dịch vụ bưu chính” là dịch vụ nhận gửi, chuyển, phát bưu phẩm, bưu kiện thông qua mạng lưới bưu chính công cộng

Nghị định 128/2007/NĐ-CP

Dịch vụ chuyển phát là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn thu gom, chia chọn, vận chuyển và phát, bằng các phương tiện vật lý, thông tin dưới dạng văn bản và kiện, gói, hàng hóa.

Phân loại

Dịch vụ bưu chính bao gồm:

- Dịch vụ bưu chính cơ bản

- Dịch vụ bưu chính cộng thêm

Dịch vụ chuyển phát bao gồm:

- Chuyển phát thông tin dưới dạng văn bản

- Chuyển phát nhanh là dịch vụ chuyển phát có yếu tố gia tăng về tốc độ…

Nhà cung cấp

Bưu chính Việt Nam

- Các doanh nghiệp chuyển phát và Bưu chính Việt Nam

Cách phân loại, định nghĩa này đã bộc lộ những bất cập trong hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật, cụ thể như sau:

Trước đây, trong Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông, việc phân biệt hai dịch vụ này được thực hiện dựa trên tiêu chí nhà cung cấp dịch vụ, nói chính xác hơn là dựa vào mạng bưu chính công cộng và mạng chuyển phát. Tuy nhiên, trong môi trường kinh doanh mới, tiêu chí phân biệt này không còn phù hợp bởi thực tế là các doanh nghiệp khác về mạng lưới trên cơ sở hợp đồng hoặc hợp tác kinh doanh để cung ứng dịch vụ và ngược lại bản thân doanh nghiệp bưu chính ngoài việc cung ứng dịch vụ bưu chính công ích cũng đã tham gia mạnh mẽ vào thị trường chuyển phát.

Bên cạnh đó, khi xét đến yếu tố quyết định việc phân loại là đặc tính cơ bản của dịch vụ thì thấy rằng: Hai dịch vụ này đều có chung một hoạt động cơ bản là thu gom – vận chuyển - phát, có chung một đối tượng vật gửi. Ngoài 2 đặc tính cơ bản trên thì doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính và chuyển phát cùng hoạt động và chia sẻ khách hàng, thị trường. Đồng thời hai dịch vụ này lại nằm trong cùng một hệ thống phân ngành dịch vụ: Bưu chính, chuyển phát.

Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước thì đa số các nước đều chỉ quản lý chung 1 lĩnh vực là bưu chính.

Do vậy, việc đưa ra một định nghĩa dịch vụ một cách khoa học, phù hợp với vận động và phát triển của dịch vụ, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo sự đồng bộ và đơn giản cho hệ thống văn bản pháp luật chuyên ngành.

Từ những lý do trên, Luật bưu chính đã thống nhất cách gọi chung cho 2 dịch vụ này là dịch vụ bưu chính với các lý do sau:

Thứ nhất: Xét về góc độ lịch sử (xét về khía cạnh pháp lý và thực tế) có thể thấy dịch vụ bưu chính xuất hiện trước. Một minh chứng là rất rõ là trước đây, Việt Nam chỉ có hệ thống văn bản pháp luật cho dịch vụ bưu chính và trong hệ thống ngành nghề đăng ký kinh doanh của Việt Nam chỉ có dịch vụ bưu chính. Ngoài ra, trong hệ thống phân loại sản phẩm trung tâm của Liên Hiệp quốc (UNCPC), nếu chỉ tính đến phân ngành thì cũng chỉ có phân ngành dịch vụ bưu chính (Division 75). Do vậy, khi có một dịch vụ có bản chất tương tự trên thị trường thì việc quy vào dịch vụ đã tồn tại sẵn là bưu chính sẽ thể hiện được tính kế thừa, thuận tiện và hợp lý hơn.

Thứ hai: Việc sử dụng thuật ngữ bưu chính không chỉ quen thuộc với người sử dụng, doanh nghiệp mà còn phù hợp với tập quán quốc tế do dịch vụ bưu chính tồn tại và phát triển từ lâu.

Thứ ba: Trong các nghiên cứu của UPU và châu Âu đã cho thấy xu hướng mở rộng phạm vi của lĩnh vực bưu chính bao trùm cả dịch vụ chuyển phát.

2. Điều chỉnh khái niệm thư

Theo Khoản 1 Điều 21 Nghị định 157/2004/NĐ-CP: “Thư là thông tin trao đổi dưới dạng văn bản được đóng gói, dán kín, có khối lượng đơn chiếc không quá hai kilogram (02 kg) và có địa chỉ nhận. Những chỉ dẫn chung về nơi nhận cũng được coi là địa chỉ nhận”.

Khái niệm thư trong Nghị định 157/2004/NĐ-CP (Khoản 1 Điều 21) được quy định như sau: “Thư là thông tin trao đổi dưới dạng văn bản được đóng gói, dán kín, có khối lượng đơn chiếc không quá hai kilogram (02kg) và có địa chỉ nhận. Những chỉ dẫn chung về nơi nhận cũng được coi là địa chỉ nhận”. Với quy định như trên, khái niệm thư đã thể hiện theo bản chất (“thông tin trao đổi dưới dạng văn bản”) và có kết hợp thêm 1 số yếu tố khác như “không quá 2kg” hoặc “đóng gói, dán kín”. Tuy nhiên, chính việc kết hợp các yếu tố khác này dẫn đến khái niệm thư này chưa thể hiện chính xác nội dung mà khái niệm biểu thị và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Việc một bưu gửi có phải là thư hay không phải là thư hoàn toàn không lệ thuộc vào khối lượng hay hình thức đóng gói. Khối lượng hay hình thức đóng gói chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan cá nhân của người gửi và điều này thay đổi đối với mỗi người gửi khác nhau. Qua nghiên cứu cho thấy, đa phần Luật bưu chính của các nước đều định nghĩa thư không có khối lượng và không yêu cầu đóng gói dán kín.

Việc xuất hiện các yếu tố như “đóng gói, dán kín” hoặc “không quá 2kg” trong khái niệm “thư” hiện tại đã gây nên một số bất cập:

- Làm cho khái niệm trở nên hẹp hơn so với bản chất thực của “thư”, thậm chí làm méo mó khái niệm thư. Với cùng bản chất như nhau nhưng chỉ chênh nhau một chút về khối lượng đã bị coi thành một đối tượng quản lý khác.

- Nhiều doanh nghiệp đã cố tình “mở” (cắt góc thư” để không vi phạm quy định, không phải xin cấp giấy phép chuyển phát thư.

- Hạn chế tính ổn định của khái niệm.

Những bất cập này gây ra hiệu quả là tạo ra các tác động tiêu cực đối với người sử dụng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước.

Các yếu tố không có tính ổn định cao hay nói cách khác là các yếu tố/điều kiện nhằm phục vụ cho công tác quản lý (phụ thuộc và phải thay đổi cho phù hợp với tình hình hoạt động thực tế trên thị trường) không nên đưa vào khái niệm mà cần đưa vào từng nội dung quản lý liên quan. Hiện nay, Việt Nam đang quản lý thị trường thư chặt chẽ thông qua hình thức cấp phép và việc không ổn định của khái niệm “thư” sẽ ảnh hưởng lớn đến tính ổn định của chính sách quản lý thị trường và ngược lại.Do vậy, nhằm minh bạch và ổn định chính sách quản lý thì cần thiết phải ổn định khái niệm thư.

Trên cơ sở các phân tích nêu trên, Luật Bưu chính đã quy định khái niệm thư như sau: “Thư là thông tin trao đổi dưới dạng văn bản viết tay hoặc bản in, có địa chỉ nhận hoặc không có địa chỉ nhận, trừ ấn phẩm định kỳ, sách, báo, tạp chí”.

Với khái niệm này, một số bất cập đã cơ bản được giải quyết:

-  Phản ánh được bản chất của thư

-  Đảm bảo tính khoa học, mạch lạc để các đối tượng điều chỉnh (người sử dụng dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ) có thể đối chiếu hoặc áp dụng mà không gặp khó khăn nhưng vẫn có tính bao quát chung và loại trừ được những loại hình thức khác dễ lẫn với thư.

-  Phù hợp với các thông lệ quốc tế (đa phần các nước không quy định “đóng gói, dán kín” và loại trừ “sách, báo, tạp chí, ấn phẩm định kỳ” trong khái niệm thư), do đó sẽ tạo thuận lợi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

-  Giải quyết được những bất cập hiện nay trong quá trình triển khai chính sách (hạn chế được việc lách luật thông qua việc cắt góc thư, khái niệm thư được giữ tương đối ổn định, không bị thay đổi khi điều chỉnh chính sách cấp phép…).

3. Bãi bỏ giấy phép thử nghiệm kinh doanh dịch vụ chuyển phát thư và giấy phép cung cấp các dịch vụ khác trên mạng công cộng

Điều 28 của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông quy định “Giấy phép thử nghiệm dịch vụ chuyển phát thư, các dịch vụ khác trên mạng bưu chính công cộng được cấp với thời hạn không quá 01 năm. Trước khi giấy phép hết hạn, nếu doanh nghiệp có đủ điều kiền và có yêu cầu tiếp tục cung cấp dịch vụ thì được xem xét cấp giấy phép mới”.

Để cụ thể hóa Điều này, Điều 21 Nghị định 157/2004/NĐ-CP đã quy định doanh nghiệp phải “Đạt kết quả kinh doanh tốt đối với trường hợp phải thử nghiệm cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của Bộ Bưu chính, Viễn thông mới đáp ứng điều kiện để cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ chuyển phát trong nước.

Qua kết quả nghiên cứu của chuyên đề “Đánh giá tác động của các văn bản pháp luật mới ban hành đối với lĩnh vực bưu chính” và chuyên đề “Nghiên cứu đánh giá và tổng kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông và các văn bản hướng dãn thi hành” cho thấy:

- Quy định về việc yêu cầu về thử nghiệm kinh doanh, báo cáo kết quả kinh doanh thử nghiệm tốt mới được xem xét cấp giấy phép chính thức để kinh doanh dịch vụ chuyển phát thư đối với doanh nghiệp kinh doanh lần đầu là chưa phù hợp bởi hiệu quả kinh doanh tốt là mục tiêu của chủ đầu tư đối với tài sản của mình và của các đối tác tham gia góp vốn kinh doanh. Mặt khác, khi bắt đầu triển khai kinh doanh, nhất là cung cấp một loại hình dịch vụ thì không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đạt kết quả kinh doanh tốt ngay chỉ trong một năm đầu kinh doanh.

- Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ khác trên mạng công cộng (chuyển tiền, phát hành báo chí, bảo hiểm…), các dịch vụ này đã được điều chỉnh bởi quy định pháp luật chuyên ngành khác có liên quan. Do vậy, việc gộp chung các quy định quản lý đối với các dịch vụ này vào chính sách quản lý bưu chính là chưa phù hợp.

- Việc quy định quản lý cấp phép thử nghiệm đã hạn chế nhiều sự phát triển dịch vụ.

Do vậy, Ban soạn thảo Luật bưu chính đã thống nhất cao đối với việc bãi bỏ quy định về giấy phép thử nghiệm kinh doanh dịch vụ chuyển phát thư và giấy phép cung cấp các dịch vụ khác trên mạng công cộng.

Do vậy, Ban soạn thảo Luật Bưu chính đã thống nhất cao đối với việc bãi bỏ quy định về giấy phép thử nghiệm kinh doanh dịch vụ chuyển phát thư và giấy phép cung cấp các dịch vụ khác trên mạng công cộng.

4. Quản lý nhà nước đối với hình thức chuyển nhượng quyền thương mại, đại diện thương nhân, văn phòng đại diện của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bưu chính tại Việt Nam

Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông và các văn bản hướng dẫn mới chỉ quy định quản lý đối với đại lý cho tổ chức chuyển phát thư nước ngoài bởi ở thời điểm này hình thức đại lý là hình thức phổ biến trong hoạt động cung cấp dịch vụ. Công tác quản lý nhà nước đối với đại lý cho tổ chức chuyển phát thư nước ngoài được quản lý bằng hình thức tiền kiểm (doanh nghiệp chỉ được làm đại lý cho tổ chức chuyển phát thư nước ngoài khi có sự xác nhận bằng văn bản của cơ quan quản lý).

Tuy nhiên, khi Luật Thương mại 2005 ra đời thì ngoài loại hình đại lý như quy định ở Nghị định số 128/2007/NĐ-CP và Thông tư số 01/2005/BBCVT còn có thêm các loại hình hoạt động thương mại khác như nhượng quyền thương mại, đại diện thương nhân… Các hình thức này đã xuất hiện trong lĩnh vực bưu chính ở một số nước như Singapore và các nước châu Âu. Sự xuất hiện của các loại hình trung gian thương mại nêu trên là hình thức kinh doanh phù hợp trong giai đoạn chuyển tiếp cho đến thời điểm xuất hiện doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Do vậy, viêc bổ sung quy định quản lý đối với những hình thức này trong lĩnh vực bưu chính tại Việt Nam là cần thiết.

Ngoài ra, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia thị trường, Luật bưu chính đã điều chỉnh chính sách quản lý đối với các hình thức đại lý, nhượng quyền thương mại, đại diện thương nhân từ tiền kiểm sang hậu kiểm để phù hợp với xu hướng nâng cao trách nhiệm và tạo sự chủ động, linh hoạt của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh; tăng cường công tác thanh, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước.

5. Điều kiện về tài chính để được cấp giấy phép bưu chính

Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 21 Luật Bưu chính, doanh nghiệp được cấp giấy phép bưu chính khi có đủ kiền kiện về khả năng tài chính. Để làm rõ nội dung này nhằm minh bạch chính sách cấp phép, tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính trong quá trình thực thi chính sách cũng như cho các doanh nghiệp có nhu cầu tham gia cung ứng dịch vụ trong thị trường bưu chính, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP đã quy định chi tiết mức vốn tối thiểu mà doanh nghiệp phải có tương ứng đối với từng loại hình cung ứng dịch vụ, cụ thể:

1. Điều kiện về khả năng tài chính nêu tại điểm b khoản 2 Điều 21 Luật Bưu chính được quy định như sau:

a) Đối với trường hợp cung ứng dịch vụ bưu chính trong phạm vi nội tỉnh, liên tỉnh, doanh nghiệp phải có mức vốn tối thiểu là 02 tỷ đồng Việt Nam;

b) Đối với trường hợp cung ứng dịch vụ bưu chính quốc tế, doanh nghiệp phải có mức vốn tối thiểu là 05 tỷ đồng Việt Nam.

2. Mức vốn tối thiểu quy định tại khoản 1 Điều này phải được thể hiện trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoạt động bưu chính hoặc giấy chứng nhận đầu tư hoạt động bưu chính tại Việt Nam của doanh nghiệp”.

6. Thông báo hoạt động bưu chính

Theo quy định của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông và các văn bản hướng dẫn thì bên cạnh hình thức cấp phép đối với dịch vụ chuyển phát thư, công tác quản lý còn được thực hiện thông qua hình thức thông báo hoạt động kinh doanh và đăng ký được làm đại lý cho tổ chức chuyển phát thư nước ngoài. Tuy nhiên, để phù hợp với xu hướng nâng cao trách nhiệm và tạo sự chủ động, linh hoạt của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh; tăng cường công tác thanh, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước, Luật bưu chính đã bổ sung quy định quản lý một số loại hình trung gian thương mại như nhượng quyền thương mại, đại diện thương nhân… đồng thời điều chỉnh chính sách quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm thông qua hình thức thông báo bằng văn bản cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính.

Theo đó, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP đã phân loại các hoạt động bưu chính thành đối tượng với các mục tiêu quản lý khác nhau để từ đó có chính sách quản lý khác nhau thông qua việc quy định hồ sơ đề nghị xác nhận thông báo hoạt động bưu chính phù hợp với từng đối tượng cụ thể.

7. Hoạt động đầu tư trong lĩnh vực bưu chính

Nghị định số 47/2011/NĐ-CP quy định các dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô dưới 15 tỷ đồng Việt Nam phải thẩm tra nhưng không phải trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư. Tuy nhiên, những dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô từ 15 tỷ đồng Việt Nam trở lên thì phải thẩm tra và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư. Đồng thời, khi thẩm tra để cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án đầu tư nói trên, cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư phải lấy ý kiến thẩm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính theo phân cấp quản lý để đảm bảo sự thống nhất trong công tác quản lý đầu tư và quản lý nhà nước về bưu chính.

8. Một số quy định về cạnh tranh trong lĩnh vực bưu chính

Ở thời điểm hiện tại, pháp luật chung về cạnh tranh đã có các quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh. Đặc biệt, trong pháp luật về cạnh tranh cũng đã quy định về hành vi cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ độc quyền và các nhà cung cấp dịch vụ độc quyền nhằm ngăn chặn những hành vi lạm dụng vị trí độc quyền của nhà cung cấp dịch vụ độc quyền.

Tuy nhiên, pháp luật chung về cạnh tranh không thể bao trùm hết được những nội dung đặc thù của lĩnh vực bưu chính. Hơn nữa, Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông và các văn bản hướng dẫn đều chưa có các quy định cụ thể về lạm dụng vị trí độc quyền trong lĩnh vực bưu chính hay cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bưu chính. Do vậy, việc quy định các hình vi cạnh tranh đặc thù trong lĩnh vực bưu chính trong Luật bưu chính là cần thiết nhằm thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trên thị trường.

Qua các nghiên cứu cho thấy việc bù chéo giữa dịch vụ phổ cập và dịch vụ cạnh tranh là rất dễ xảy ra. Nó sẽ làm méo mó giá cả trên thị trường và không công bằng trong cạnh tranh. Điều này xảy ra khi doanh nghiệp cung ứng dịch vụ phổ cập cung cấp dịch vụ cạnh tranh dưới giá thành, nhờ vào việc bù chéo từ phần được nhà nước hỗ trợ.

Bên cạnh đó thì việc đảm bảo cung cấp dịch vụ phổ cập một cách thường xuyên cũng cần có những biện pháp thích hợp.

Từ những lý do trên, Luật bưu chính đã quy định tại khoản 11 Điều 29 “Không được cung ứng dịch vụ bưu chính vi phạm quy định về phạm vi dịch vụ bưu chính dành riêng dưới mọi hình thức” và khoản 6 Điều 33 “Không sử dụng doanh thu từ các dịch vụ bưu chính dành riêng để trợ cấp cho các khoản lỗ do việc cung ứng các dịch vụ cạnh tranh khác dưới giá thành”.

9. Bồi thường thiệt hại

Theo quy định tại Nghị định số 47/2011/NĐ-CP, việc bồi thường thiệt hại trực tiếp được thực hiện trên cơ sở hợp đồng cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính; bưu gửi bị mất, hư hỏng hoặc tráo đổi hoàn toàn thì được bồi thường theo quy định của doanh nghiệp đối với từng loại dịch vụ nhưng không thấp hơn mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với các khiếu nại liên quan đến dịch vụ bưu chính không có chứng từ xác nhận việc chấp nhận bưu gửi và đối với các khiếu nại mà người sử dụng dịch vụ không có chứng từ chứng minh việc sử dụng dịch vụ.

Liên quan đến mức giới hạn bồi thường thiệt hại bên cạnh việc kế thừa các quy định còn phù hợp tại các văn bản trước đây thì Nghị định đã điều chỉnh lại mức giới hạn bồi thường thiệt hại dựa trên cơ sở phương thức vận chuyển (vận chuyển bằng đường hàng không hoặc vận chuyển bằng phương thức khác) cho phù hợp với thực tế.

Ngoài ra, Nghị định còn quy định việc thu hồi tiền bồi thường thiệt hại. Theo đó, khi tìm lại được một phần hoặc toàn bộ bưu gửi bị coi là đã mất và đã được bồi thường thiệt hại theo quy định thì doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính có trách nhiệm thông báo cho người nhận hoặc người gửi để định đoạt một phần hoặc toàn bộ bưu gửi đã tìm được; người nhận hoặc người gửi có quyền nhận lại một phần hoặc toàn bộ bưu gửi này nhưng phải hoàn trả số tiền bồi thường đã nhận cho doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính; trường hợp người nhận hoặc người gửi từ chối nhận lại thì một phần hoặc toàn bộ bưu gửi này nhưng phải hoàn trả số tiền bồi thường đã nhận cho doan nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính; trường hợp người nhận hoặc người gửi từ chối nhận lại thì một phần hoặc toàn bộ bưu gửi này sẽ là tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính.

10. Điều khoản chuyển tiếp

Trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thì các hoạt động nhận nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực bưu chính từ nước ngoài vào Việt Nam, làm đại diện cho doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính nước ngoài, làm văn phòng đại diện của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam trước khi Nghị định này có hiệu lực phải làm thủ tục thông báo hoạt động bưu chính. Bên cạnh đó doanh nghiệp đã được cấp giấy phép bưu chính trước khi Nghị định này có hiệu lực phải đảm báo số vốn theo quy định.

(Tài liệu phổ biến giáo dục pháp luật 2011 – Luật Bưu chính, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP)

Tin liên quan:

Nội dung chủ yếu của Luật Bưu chính, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP

Nội dung chủ yếu của Luật Bưu chính, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP

Ngày 17/6/2010, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII, dự án Luật này Bưu chính đã được Quốc hội biểu quyết thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011 và ngày 17/6/2011, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số nội dung của Luật Bưu chính đã được Chính phủ ban hành và Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2011. Sau đây là bố cục và nội dung chủ yếu của Luật Bưu chính và Nghị định số 47/2011/NĐ-CP:

1. Bố cục và nội dung chủ yếu của Luật Bưu chính

Luật Bưu chính gồm 10 chương 46 điều với nội dung cụ thể như sau:

Chương I – Những quy định chung

Chương này gồm 7 điều (từ Điều 1 đến Điều 7) tập trung thể hiện rõ chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực bưu chính và xác định rõ phạm vi điều chỉnh của lĩnh vực bưu chính đối với các lĩnh vực khác để tránh chồng chéo. Lĩnh vực bưu chính bao gồm hoạt động bưu chính (dịch vụ bưu chính và dịch vụ chuyển phát), không điều chỉnh các dịch vụ không có cùng bản chất nhưng từ trước đến nay vẫn được cung ứng trên mạng bưu chính như dịch vụ tiết kiệm bưu điện, chuyển tiền bưu điện hoặc phát hành báo chí. Những dịch vụ này chịu sự điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật khác có liên quan. Việc phân biệt rõ phạm vi điều chỉnh của lĩnh vực bưu chính sẽ góp phần giảm sự chồng chéo trong hệ thống pháp luật nói chung đồng thời làm tăng tính khả thi của Luật trong việc đưa chính sách vào cuộc sống.

Chương II – Cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính

Chương này gồm 12 điều (từ Điều 8 đến Điều 19) và quy định nhiều nội dung mang tính nghiệp vụ bưu chính ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính và người sử dụng dịch vụ.

Chương III – Đầu tư, kinh doanh dịch vụ bưu chính

Chương III gồm 7 điều (từ Điều 20 đến Điều 26) quy định về đầu tư, kinh doanh dịch vụ bưu chính và các điều kiện kinh doanh dịch vụ bưu chính. Theo đó, các quy định về đầu tư, kinh doanh dịch vụ bưu chính được thể hiện rõ ràng, rành mạch nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý, khuyến khích hoạt động kinh doanh hợp pháp cũng như đảm bảo lợi ích của người sử dụng.

Trong Chương này, hai nội dung lớn là cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ bưu chính và xác nhận thông báo hoạt động bưu chính được thể hiện khá chi tiết và đầy đủ.

a) Cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ bưu chính

Việc cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ bưu chính được quy định khá cụ thể nhằm thể hiện rõ ý chí cũng như mục tiêu quản lý vì mục đích bảo vệ người tiêu dùng và đảm bảo an ninh quốc gia.

Việc cấp phép kinh doanh dịch vụ bưu chính gắn liền với việc bảo vệ bí mật thư tín và quyền trao đổi thông tin của công dân như đã được đưa ra tại Điều 12 của “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền” của Liên Hiệp Quốc. Quyền được trao đổi thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người và điều này cũng được thể hiện rõ trong Công ước của Liên minh Bưu chính thế giới. Ngoài ra, việc đảm bảo bí mật thư tín và quyền thông tin của công dân đã được thể chế hóa trong Hiến pháp cũng như các quy định khác của pháp luật như Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Dân sự cũng như các quy định chuyên ngành.

Như vậy, bưu chính là một trong những nghề kinh doanh có điều kiện nhằm bảo vệ bí mật thư tín, quyền trao đổi thông tin của công dân, nên doanh nghiệp được quyền kinh doanh ngành nghề đó, kể từ khi có đủ điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, việc cấp giấy phép bưu chính được thực hiện một cách linh hoạt dưới nhiều hình thức để phù hợp với thực tế hoạt động của thị trường cũng như công tác quản lý nhà nước.

b) Xác nhận thông báo hoạt động bưu chính

Để đảm bảo công tác quản lý nhà nước đối với thị trường bưu chính được đầy đủ và hiệu quả thị bên cạnh việc cấp giấy phép bưu chính, Luật bưu chính và Nghị định số 47/2011/NĐ-CP đã quy định chi tiết việc cấp văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính đối với một số hoạt động bưu chính. Trong số các hoạt động bưu chính cần phải thông báo hoạt động, có những hoạt động đã được quy định trong các văn bản trước đây nhưng cũng có nhiều hoạt động mới được bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp với các văn bản pháp luật mới được ban hành.

Với tinh thần đơn giản hóa thủ tục hành chính và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, mỗi loại hình hoạt động bưu chính sẽ có quy trình, thủ tục, hồ sơ phù hợp.

Chương IV – Chất lượng và giá cước dịch vụ bưu chính

Chương này gồm 2 điều (từ Điều 27 đến 28) quy định về chất lượng và giá cước dịch vụ bưu chính.

Chương V – Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính, người sử dụng dịch vụ bưu chính

Chương V gồm 2 điều (Điều 29 và 30) quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính cũng như quyền và nghĩa vụ của người sử dụng dịch vụ bưu chính.

Các quy định trong Chương này đã làm rõ trách nhiệm của doanh nghiệp cũng như thể hiện quyền bình đẳng trong quan hệ giữa doanh nghiệp và người sử dụng.

Chương VI – Hoạt động bưu chính công ích

Chương VI gồm 4 điều (từ Điều 31 đến Điều 34) tập trung quy định các vấn đề về nguyên tắc hoạt động bưu chính công ích cũng như quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp được chỉ định cung ứng dịch vụ bưu chính công ích. Bên cạnh đó, Luật Bưu chính cũng có quy định cụ thể về trách nhiệm của chủ đầu tư các công trình xây dựng trong việc bố trí địa điểm lắp đặt hệ thống thùng thư công cộng, thực hiện lắp đặt các hộp thư tập trung tại chung cư cao tầng, tòa nhà văn phòng.

Trong lĩnh vực bưu chính, bên cạnh việc xây dựng thị trường bưu chính kinh doanh phát triển bền vững và cạnh tranh lành mạnh thì hoạt động bưu chính công ích là một trong những nội dung chủ yếu trong công tác quản lý nhà nước với những vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm. Do vậy, trong giai đoạn hiện nay, các quy định về hoạt động bưu chính công ích được xây dựng dựa trên một số định hướng cơ bản sau đây:

a) Nhà nước thực hiện cung ứng dịch vụ bưu chính công ích

Dịch vụ bưu chính công ích nhằm phụ vụ nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của toàn xã hội. Do vậy, các tổ chức và công dân đều có quyền tiếp cận, có quyền thụ hưởng và bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ. Theo Điều 3 của Công ước Liên minh Bưu chính thế giới mà Việt Nam là thành viên thì các nước thành phân phải đảm bảo để tất cả mọi công dân đều có quyền được hưởng dịch vụ bưu chính phổ cập ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ nước mình. Do vậy, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm việc cung ứng các dịch vụ này được thực hiện một cách liên tục, có chất lượng đến mọi người dân với giá cước hợp lý.

b) Chỉ định doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ cung ứng dịch vụ bưu chính công ích

Để đảm bảo quyền được trao đổi thông tin thiết yếu của người dân về bưu chính và để mọi người dân có thể tiếp cận, sử dụng dịch vụ bưu chính cơ bản ở khắp mọi nơi thì mạng lưới cung ứng dụng vụ phải rộng khắp, đặc biệt là ở những vùng kinh tế còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, do các doanh nghiệp ngại đầu tư cung ứng dịch vụ bưu chính (vì kinh doanh không có lãi và khó thu hồi vốn) nên rất cần sự đầu tư của Nhà nước. Mặt khác, hiện tại, tình hình kinh tế xã hội cũng như bưu chính của Việt Nam nhiều vùng phát triển còn thấp, đặc biệt là những vùng nghèo, Nhà nước cần tập trung đầu tư cho doanh nghiệp có đủ điều kiện thực hiện nhiệm vụ cung ứng dịch vụ bưu chính công ích để đảm bảo hiệu quả vốn đầu tư của Nhà nước, tập trung lưu lượng, tận dụng mạng lưới đã đầu tư, giảm bớt gánh nặng chi phí và sự hỗ trợ của Nhà nước. Do vậy, Luật Bưu chính đã quy định về việc chỉ định doanh nghiệp thực hiện cung ứng dụng vụ bưu chính công ích với các quyền và nghĩa vụ cụ thể.

c) Về vi phạm dịch vụ bưu chính dành riêng

Phạm vi dịch vụ dành riêng là một phân đoạn thị trường bưu chính được Nhà nước dành riêng cho doanh nghiệp được chỉ định cung ứng dịch vụ bưu chính phổ cập nhằm bù đắp chi phí cho việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp dịch vụ phổ cập mà Nhà nước giao. Phạm vi dịch vụ bưu chính dành riêng ở các nước được quy định với nấc khối lượng và mức cước khác nhau nhằm mục đích hài hòa các lợi ích của từng quốc gia, đảm bảo quyền lợi chính đáng của các nhà cung cấp dịch vụ bưu chính phổ cập.

Tại các nước phát triển, dịch vụ dành riêng là một cơ chế hỗ trợ tài chính có hiệu quả và được thực hiện tương đối lâu dài. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, sản lượng dịch vụ còn thấp, mức cước còn thấp hơn giá thành thì cơ chế này trước mắt chưa tạo ra lợi nhuận mà chỉ có tác dụng tập trung lưu lượng, giảm giá thành dịch vụ, từ đó giảm hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách của Nhà nước.

Luật Bưu chính đã quy định: Dịch vụ bưu chính dành riêng, gồm dịch vụ thư có địa chỉ nhận, có khối lượng đơn chiếc đến 2 kilogram (kg) với mức giá cước theo quy định của pháp luật; và phạm vi dịch vụ bưu chính dành riêng giảm dần căn cứ vào tình hình phát triển bưu chính trong từng thời kỳ.

Chương VII – Tem Bưu chính

Chương VII gồm 3 điều (từ Điều 35 đến Điều 37) quy định về tem bưu chính Việt Nam và sử dụng tem bưu chính. Các quy định trong Chương này được quy định nhằm đảm bảo phù hợp với Công ước của Liên minh Bưu chính thế giới và thông lệ quốc tế.

Chương VIII - Giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại trong cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính

Chương này gồm 5 điều (từ Điều 38 đến Điều 42) quy định về giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại. Các quy định trong Chương này được xây dựng trên cơ sở bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan trong hoạt động cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính.

Chương IX – Trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động bưu chính

Chương IX gồm 2 điều (Điều 43 và Điều 44) quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động bưu chính của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Chương X – Điều khoản thi hành

Chương này gồm 2 điều (Điều 45 và Điều 46) quy định hiệu lực thi hành; quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.

Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011.

Các quy định về bưu chính của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông số 43/2002/PL-UBTVQH10 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực.

2. Bố cục và nội dung cơ bản Nghị định số 47/2010/NĐ-CP

Nghị định quy định chi tiết thi hành một số nội dung của Luật Bưu chính gồm 6 chương 30 điều với nội dung cụ thể như sau:

Chương I - Những quy định chung

Chương I bao gồm 2 điều (Điều 1 và Điều 2), quy định phạm vi điều chỉnh, giải thích từ ngữ.

Theo quy định tại chương này, dự thảo Nghị định điều chỉnh một số nội dung trong hoạt động bưu chính: đầu tư trong lĩnh vực bưu chính, giấy phép bưu chính, thông báo hoạt động bưu chính, tem bưu chính, bồi thường thiệt hại trong cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính.

Chương II - Đầu tư trong lĩnh vực bưu chính

Chương này gồm 2 điều (Điều 3 và Điều 4), quy định về thẩm tra dự án đầu tư; thực hiện, chuyển nhượng dự án đầu tư. Theo đó, các dự án có mức vốn khác nhau sẽ có các quy định quản lý phù hợp với từng loại.

Ngoài ra, chương II cũng quy định về chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng dự án, chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư, thanh lý dự án đầu tư hoặc có điều chỉnh khác đối với dự án đầu tư.

Chương III - Giấy phép bưu chính và văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính

Chương III bao gồm 11 điều (Điều 5 đến Điều 15), quy định về hồ sơ đề nghị cấp giấy phép bưu chính; hồ sơ đề nghị xác nhận thông báo hoạt động bưu chính; trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp, sửa đổi, bổ sung, cấp lại giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính; quản lý và sử dụng giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính.

Bên cạnh việc kế thừa các quy định hiện hành còn phù hợp, dự thảo Nghị định cũng quy định chi thiết các nội dung liên quan đến việc cấp giấy phép bưu chính và văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính Theo đó, để được cấp giấy phép bưu chính, doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu về mức vốn tối thiểu; về hồ sơ đề nghị cấp giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính và thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định. Ngoài ra, dự thảo Nghị định cũng quy định cụ thể về sửa đổi, bổ sung giấy phép bưu chính; về cấp lại giấy phép bưu chính hết hạn; cấp lại giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính trong trường hợp bị mất hoặc hư hỏng không sử dụng được. Cũng trong chương này, Nghị định còn quy định cụ thể lại giấy phép bưu chính, văn bản xác nhận thông báo hoạt động bưu chính trong trường hợp bị mất hoặc hư hỏng không sử dụng được. Cũng trong Chương này, Nghị định còn quy định về việc thẩm tra hồ sơ đề nghị cấp giấy phép bưu chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bưu chính; về lệ phí cấp giấy phép bưu chính.

Chương IV - Tem bưu chính

Chương về tem bưu chính, bao gồm 8 điều (từ Điều 16 đến Điều 23), quy định việc phân loại tem bưu chính Việt Nam; sử dụng tem bưu chính Việt Nam; nhập khẩu tem bưu chính; quy hoạch đề tài tem bưu chính Việt Nam; hội đồng tư vấn quốc gia về tem bưu chính Việt Nam; thiết kế mẫu tem bưu chính Việt Nam và mẫu dấu đặc biệt; lưu trữ tem bưu chính; kinh phí hoạt động tem bưu chính.

Chương V - Bồi thường thiệt hại trong cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính

Chương này bao gồm 4 điều (từ Điều 24 đến Điều 27), quy định chi tiết về nguyên tắc bồi thường thiệt hại; mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại; thực hiện bồi thường thiệt hại và thu hồi tiền bồi thường thiệt hại.

Chương VI – Điều khoản thi hành

Chương về Điều khoản thi hành gồm 3 điều (Điều 28 đến Điều 30) quy định về hiệu lực thi hành, điều khoản chuyển tiếp và trách nhiệm thi hành.

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2011.

Kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thì Nghị định số 157/2004/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông về bưu chính, Nghị định số 128/2007/NĐ-CP ngày 2 tháng 8 năm 2007 về dịch vụ chuyển phát, quy định về bưu chính trong Nghị định 121/2008/NĐ-CP ngày 3 tháng 12 năm 2008 về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông hết hiệu lực.

(Tài liệu phổ biến giáo dục pháp luật 2011 – Luật Bưu chính, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP)

PPP đã gõ cửa ngành Thông tin và Truyền thông

Năm 2010, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) tổ chức hội thảo về PPPs (Public Private Partnership) trong xây dựng dịch vụ công, dịch vụ Chính phủ điện tử… Đây là một thông tin tốt với Ngành Công nghệ thông tin và Truyền thông. Bài viết này chia sẻ với bạn đọc về một mô hình phát triển ngành thông tin và truyền thông.   

Ảnh minh họa: minhdtvn

I. PPP có từ bao giờ

1.1. Những hình thức PPP trong lịch sử quản lý phát triển Việt Nam [12]

Kinh nghiệm thời Nhà Trần trong xây dựng quân đội hùng mạnh thể hiện rõ thông qua chủ trương cho phép quân đội được Quân đội sản xuất nông nghiệp để tự cân đối quân lương dự phòng cho các chiến lược phát triển dài hạn của quân đội. Các quyết sách của Nhà trần đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của quân đội và tăng cường sự gắn kết của mối quan hệ quân với dân.

Hình 1. Mô hình quản lý theo thuật Bát hoàng kỳ

Nhà Lê Luật Hồng Đức và Bản đồ Hồng Đức và áp dụng phổ biến Mô hình quản lý Bát hoàng Kỳ. Mối quan hệ giữa các Kỳ (Vương gia) với Hoàng kỳ có phần hợp lý hơn giống như người La Mã đã xây dựng thiết chế tài chính mạnh mẽ cùng với các sự lớn mạnh của quân đội bản địa tại các vùng lãnh thổ được mở rộng. Có thể tóm tắt nguyên lý quản lý cổ - Bát hoàng kỳ thông qua Hình 1, trong đó việc trồng, cấy và trăm sóc của Hoàng Kỳ sẽ do một trong tám Kỳ xung quanh thực hiện luân phiên. Kết quả cả Hoàng kỳ và tám kỳ này đều phát triển bền vững, những kết quả này có phần hợp lý hơn trong việc quản lý và phân bổ Ngân sách của Việt Nam hiện nay.

Lấy một ví dụ về việc xây dựng tuyến tầu điện ngầm tại Thương Hải (Trung Quốc), PPP được hiểu đơn giản như sau: Chính phủ lo đầu máy và đường ray, ngân sách địa phương lo nhà ga và các công trình liên quan. Như vậy không xuất hiện việc đầu tư tràn lan trong khu vực công việc quy hoạch phát triển hạ tầng gắn với việc phát triển các trung tâm kinh tế. Do vậy, việc phát triển hạ tầng kỹ thuật đã cộng sinh với sự phát triển hạ tầng kinh tế. Bài học này cũng là một gợi ý tốt trong xây dựng Chính phủ điện tử hoặc xã hội hóa các dịch vụ công khác của ngành thông tin và truyền thông.      

Một ví dụ khác là thời Nhà Nguyễn (Việt Nam) thực hiện chủ trương cho phép tù nhân được khai khẩn khai khẩn đất đai tại các vùng đất hoang, đất ven biển. Nhờ vậy, nhà Nguyễn đã cải tạo được và đóng góp cho đất nước các vùng đất phì nhiêu tại Ninh Bình và Thanh Hóa như ngày nay.

1.2.  Đôi điều về PPP  ở Việt Nam

Quan điểm xã hội hóa trong cung cấp các dịch vụ công như giáo dục, y tế cũng đã được chủ trương hóa trong một số nghiên cứu về xã hội hóa dịch vụ công như một chủ trương và thường được gắn với đổi mới tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước như nghiên cứu của Học viện Hành chính [1,3]. Quan điểm xã hội hóa đã phát huy một số kết quả bước đầu trong lĩnh vực giao thông thông qua chủ trương đấu thầu đổi đất lấy hạ tầng hoặc xã hội hóa các lĩnh vực thu gom rác thải… 

Trong việc khởi động lại con tàu xã hội giáo dục, trong bài trả lời báo Thanh Niên 2008 [2], Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân đã nêu hình thức xã hội hóa của ta có nhiều điểm tương đồng với mô hình  PPPs của quốc tế.

1.3.  Đề xuất một khái niệm về PPP

Từ các phân tích ở trên chúng ta có thể nhận thấy bản chất làm mô hình PPP là mô hình tích hợp các nguồn vốn đầu tư hiện có trong xã hội vào phát triển xã hội, trong đó mục tiêu xã hội phát triển bền vững là mục tiêu cao nhất.

Khái niệm này giống với khái niệm PSPP (Public Social Private Partnership) [8] được áp dụng rộng rãi trong phát triển và cung cấp hạ tầng xã hội và dịch vụ công cơ bản trên thế giới. Hình 2 mô tả phạm vi các chủ thể trong mối quan hệ trong mô hình PSPP.

Hình 2. Mô hình PSPP

1.4.  Các lớp cơ bản trong PPP

Có thể phân chia các nội dung của mối quan hệ PSPP thành năm lớp cơ bản sau:

Thứ nhất, Chính sách và chiến lược phát triển bền vững xã hội thông qua các mục tiêu phát triển và đáp ứng nhu cầu xã hội.

Thứ hai, Luật pháp là cơ sở  huy động và bảo về quyền lợi của các bên trong tham gia đầu tư, cung cấp, quản lý vận hành các hạ tầng xã hội và dịch vụ phục vụ mục đích phát triển xã hội trên nguyên tắc đảm bảo cân đối lợi ích của các chủ thể [6].

Thứ ba, mô hình kinh doanh là cơ sở để các chủ thể vận hành một cách linh hoạt và hiệu quả. Ngoài ra mô hình kinh doanh là bằng chứng thiết thực chứng tỏ sự quan tâm và cam kết lâu dài của Nhà nước trong huy động và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào cung cấp và đầu tư hạ tầng phục vụ xã hội khi hệ thống luật pháp liên quan đến PPP trong tiến trình hoàn thiện [4].

Thứ tư, vấn đề an ninh kinh tế và an ninh xã hội là vấn đề then chốt, bởi lẽ mô hình PPP phục vụ xã hội chỉ có thể phát triển khi duy trì được trật tự và an ninh xã hội.  

II. Tại sao Việt Nam cần quan tâm đến PPP

2.1.  Câu chuyện quản lý về đầu tư

Trong quản lý đầu tư nói chung và quản lý đầu tư phát triển nói chung vấn đề quản lý quy mô đầu tư là câu hỏi nan giải với các nhà hoạch định chính sách đều phải vượt qua. Để đơn giản tác giả xin luận bàn thông qua câu chuyện “không có thật” về việc quyết định đầu tư của một người nông dân, cụ thể như sau: Một anh nông dân tài sản có 50 triệu đồng được phân bổ phân bổ vào một cây mít, một gian nhà ngói năm gian, một cái bếp và một cái giếng nước. Do may mắn anh được điều động làm quản lý đầu tư xã hội, đến khi anh trở thành ngưới quyết định đầu tư của một Ngành với quy mô 500.000 tỷ đồng, anh vẫn nhớ đến mô hình đầu tư bền vững ở quê và anh đã quyết định phân bổ nguồn lực của ngành kinh tế thông qua đầu tư 50 triệu dự án mỗi dự án gồm: một căn nhà, một cây mít, một giếng nước, một cái bếp thông qua hệ thống kế hoạch cứng có tính pháp lệnh.

Câu chuyện quản lý bàn luận được đưa ra: anh chưa thích nghi với việc kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ do vậy các quyết định cứng của anh ta đã gặp vấn đề trong quyết định quy mô. Ở khía cạnh khác, nếu ngành anh ta quản lý đã có chính sách xã hội hóa và vận dụng mô hình PPP trong đầu tư thì các quyết định của anh ta sẽ được xã hội phản biện thông qua sự tham gia các các thành phần kinh tế và kết quả thực tế mà đòi hỏi xã hội đặt ra, thì quyết định của anh sẽ không gặp vấn đề như vậy. 

2.2.  Mô hình cốt lõi của PPP

Bài viết xin kiến giải sự cần thiết của PPPs [8] trong phát triển các mục tiêu xã hội thông qua nội dung số nhân đầu tư nguồn lực xã hội. Hiện tại các nước đều xác định nguồn lực đầu tư của chính phủ là then chốt và có tính lan tỏa thông qua mô hình đầu tư mời (pumpping investment). Thông qua đó số vốn đầu tư của Ngân sách sẽ được thu hồi và luân chuyển qua các linh vực khi khu vực khác.

Trong lĩnh vực ICT, các mô hình phát triển khu công nghiệp Busan, Hàn Quốc là một bài học kinh điển về đầu tư mồi của Chính phủ Hàn Quốc. Từ khoản đầu tư (có thu hồi) ban đầu của Chính phủ, khi khu công nghiệp pháp triển chỉnh phủ bán bớt các cổ phần với giá cao hơn ban đầu và duy trì một tỷ lệ chi phối thích hợp đối vơi Busan, khoản tiền thu được từ bán cổ phiếu sẽ được dịch chuyển đầu tư sang khu vực khác. Như vậy, khoản đầu tư của chính phủ đã phát huy tác dụng và không ngừng lớn mạnh.

2.3.  Xu thế PPP vào Việt Nam

Hiện tại phương thức PPP đang là các vấn đề nóng hổi tại Việt Nam thông qua hiện tượng xuất hiện của các Nhà tài trợ, các nhà đầu tư vào các lĩnh vực hạ tầng của Việt Nam, cụ thể:

- Làm việc với Bộ Giao thông Vận tải có các nhà tài trợ Ngân hàng thế giới (WB), JBIC về hạ tầng giao thông;

- Làm việc với Bộ Xây dựng có Thương vụ Ý liên quan đến các dự án nhà ở cho người nghèo;

- Tổ chức GTZ (Đức) và dự án phát triển thị trường cho người nghèo.

- Ngân hàng Thế giới khởi động các dự án tài chính vi mô;

- Đối với các nước đang phát triển thì PPP là một lựa chọn quan trọng để các nước đang phát triển thu hút nguồn vốn đầu tư phục vụ phát triển kinh tế xã hội.

2.4.  Lợi ích so sánh PPP và ODA

Thông quan việc mở rộng quy mô PPP, trong khuôn khổ bài viết xin đưa ra các lợi ích xã hội sẽ đạt được như sau [9]:

- Giảm gánh nặng chi ngân sách cho đầu tư hạ tầng

- Nâng cao hiệu quả quản lý xã hội nhờ việc quản lý được xã hội hóa.

- Giảm nợ nước ngoài

- Giảm thâm hụt cán cân thương mại

 Giảm bớt các vấn đề lợi ích nhóm và kinh tế học giao dịch…

2.5.  Các lĩnh vực cần có PPP

Qua việc phân tích lợi ích của mô hình PPP và nhu cầu xã hội về các dịch vụ công ích, có thể nhận thức xu thế xuất hiện của mô hình PPP trong các lĩnh vực [11,5,6]: Bưu chính, Viễn thông, Dịch vụ công, chứng thực điện tử, chính phủ điện tử tử, Giao thông, Y tế, Giáo dục, chứng thực, chứng minh thư điện tử…

Bùi Xuân Chung

Tài liệu tham khảo:

[1]. Lê Chi Mai (2007), Tài liệu Giảng dạy chuyên viên cao cấp của Việt Nam, Chuyên đề: Xã hội hóa và tư nhân hóa, đổi mới cung cấp dịch vụ công, Hà Nội.

[2]. Nhóm phóng viên giáo dục (2008), “Ý kiến của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân  về tăng tốc "con tàu" xã hội hóa”, Báo Thanh Niên, (11), Hà Nội.

[3]. Chu Văn Thành (2007), Dịch vụ công - Đổi mới quản lý và cung ứng ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[4]. Chu Văn Thành (2004), Dịch vụ Công và xã hội hóa dịch vụ công - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[4].Antonio Estache (2007), PPPs in transport, Washington DC.

[5]. Canada government (1999), Public Private Partnership A Guide for Local Government, Canada.

[6]. Mona Hammami (2006)- Diterminants of PPPs in infrastructure, IMF,Washington DC.

[7]. United kingdom (2006), Public private partnerships - The government’s approach, London.

[8]. World Bank (2005), Assesing and reforming Public Financial Management - A new approach,Washington DC.

[9]. World Bank (2005), Fiancing information and communication infrastructure needs in the developing World - Public and private role,Washington DC.

[10]. World Bank (2004), Telecommunications challengers in developing countries,Washington DC.

[11]. Đại Việt sử ký tòan thư - Ấn bản Triều Nguyễn

Andrew Viterbi - cha đẻ của thuật toán Viterbi

Andrew Viterbi, người phát minh thuật toán giải mã được sử dụng hầu hết trong các hệ thống thông tin trên các con tàu vũ trụ, tên lửa dẫn đường và các hệ thống thông tin di động (TTDĐ) tế bào, đồng sáng lập nhiều công ty viễn thông  như Linkabit, Qualcomm.

Nhưng ít ai biết được ông đã phải chạy trốn khỏi Bergamo, Italia cùng cha mẹ khi mới hơn 4 tuổi để sang định cư ở Mỹ với đôi bàn tay trắng năm ngày trước khi xảy ra thế chiến thứ 2. Những thành công ở các cương vị khác nhau kỹ sư thiết kế hệ thống, nhà kinh doanh, con đường khoa học với ông tất cả đều gói gọn trong bốn chữ “Đúng nơi đúng lúc”.

Andrew Viterbi (trái) trong lễ nhận giải thưởng IEEE/RSE Wolfson/James Clark Maxwell 2007 cho những đóng góp, phát minh và sự lãnh đạo có ảnh hưởng đến sự phát triển của thông tin không dây

Những thời khắc quan trọng  trong cuộc đời của Viterbi

Thời nhỏ cuộc sống của Viterbi rất khó khăn. Năm 10 tuổi, khi ngắm nhìn ngôi trường đại học công nghệ hàng đầu nước Mỹ, Viện công nghệ Massachusetts MIT từ bên này sông Charles, Viterbi luôn ao ước rằng mình sẽ phải là một sinh viên của trường khi tốt nghiệp trung học. Để thực hiện ước mơ đó, ông đã chọn cho mình một còn đường duy nhất đó là làm việc và học tập chăm chỉ. Quyết tâm học tập của ông đã mang lại cho ông một cơ hội  trở thành sinh viên trường MIT khi ông là một trong bốn học sinh có số điểm cao nhất khi tốt nghiệp trung học trên tổng số 225 sinh viên. Mặc dù được nhận vào học tại khoa Kỹ thuật Điện tại Đại học MIT, nhưng Andrew Viterbi vẫn không thể tập trung toàn bộ thời gian cho học tập, thay vào đó ông đã phải đăng ký học bán thời gian để có thời gian đi làm việc để kiếm sống. Sau năm năm ông đã có trong tay bằng đại học và thạc sỹ khoa học cùng một lúc vào năm 1957. Ngay sau khi tốt nghiệp, ông đã được mời tham gia vào nhóm nghiên cứu về thông tin liên lạc tại trung tâm nghiên cứu JPL (Jet Propulsion Laboratory) tại California.

Viterbi đã giành rất nhiều thời gian để nghiên cứu về việc bám và bắt tín hiệu cho hệ thống thông tin của vệ tinh Explore 1 được Mỹ phóng thành công vào tháng 2 năm 1958. Thời gian đó, Viterbi đã làm việc với thiết bị vòng khóa pha (phase lock loop) mà sau này đã được dùng phổ biến trong tất cả các hệ thống thông tin cả tương tự và số. Đối với Viterbi, được tham gia đóng góp vào sự thành công của Explore 1 là một vinh dự, nhưng lớn hơn nữa là những kinh nghiệm làm việc tại đây đã cho ông nhiều kinh nghiệm cũng như sự nghiệp mà sau này ông đã thành công với công nghệ trải phổ ở Qualcomm.

Ngoài cùng với JPL tham gia những dự án tiên phong trong hệ thống thông tin vũ trụ và tên lửa, Viterbi còn tham gia vào chương trình nghiên cứu sinh bán thời gian tại khoa Kỹ thuật Điện của trường đại học South California, đây có lẽ là một trong số ít các trường đại học tư của Mỹ lúc bấy giờ cho các nghiên cứu sinh ngoài làm nghiên cứu còn có thể đi làm việc cho các hãng. Vào năm 1962, khi nhận được tấm bằng tiến sỹ ông đã được mời làm trợ giảng tại trường Đại học California, Los Angeles. Đối với ông, đam mê nghiên cứu bao nhiêu thì ao ước được giảng dạy cũng nhiều bấy nhiêu. Vì vậy, ông quyết định về giảng dạy chuyên ngành lý thuyết thông tin và thông tin số tại trường đại học California. Khi giảng dạy chuyên đề về tách tín hiệu ra khỏi nhiễu, ông thấy rằng nếu giảng dạy cho sinh viên bằng cách thông thường thì quá phức tạp và khó hiểu. Lúc đó, ông nảy ra ý định tìm một cách nào đó để có thể giúp sinh viên của ông tiếp cận vấn đề một cách đơn giản nhất. Theo như ông nói [2], công trình nghiên cứu sinh của ông thì không có gì đáng bàn nhưng nó lại mang lại cho ông một nền tảng vững chắc cho những thành công sau này. Những nền tảng kiến thức cũng như kinh nghiệm làm việc ở nhiều dự án lớn tại JPL đã giúp Viterbi tìm ra lời giải cho vấn đề của mình chỉ trong vòng 3 tháng. Lời giải đó sau này được mang tên ông "Thuật toán Viterbi".

Thuật toán Viterbi

Trong bất kỳ một hệ thống truyền dẫn vô tuyến nào từ tương tự đến hệ thống số, các tín hiệu đều phải được điều chế lên một tần số sóng mang nhất định để truyền dẫn qua không gian. Do đó, dù là các tàu vũ trụ, các tên lửa hay hệ thống thông tin tế bào thì vấn để tách tín hiệu ra khỏi nhiễu đóng vai trò cốt lõi thể hiện tính ưu việt của mỗi hệ thống thông tin.

Trong vũ trụ, tín hiệu luôn bị chìm sâu vào trong nhiễu do nhiễu vô tuyến từ các thiên hà hoặc quá trình phát xạ từ mặt trời. Hay như trên mặt đất, tín hiệu của một máy vô tuyến tế bào bị gây nhiễu bởi rất nhiều máy phát vô tuyến tế bào khác xung quanh nó. Vậy làm thế nào để có thể tách tín hiệu cần thiết ra khỏi nhiễu? Để thực hiện điều đó, người ta đã dùng giải pháp mã hóa kênh các tín hiệu để thêm vào thông tin gốc các bit dư để bảo vệ trước khi chúng được phát qua kênh truyền có nhiễu. Bằng cách mã hóa kênh như vậy, các bit thông tin (bit 0 hay 1) có thể được biểu diễn không chỉ biểu diễn bằng một góc dịch pha (Điều chế khóa pha M-PSK) mà còn có thể được biểu diễn bằng 4, 8 hoặc nhiều hơn nữa các ký hiệu. Với hệ thống dùng mã hóa kênh, ở phía thu chúng ta không tách các bit thông tin thực tế mà thay vào đó là các ký hiệu mã hóa để từ các ký hiệu đó chúng ta có thể khôi phục lại các bit thông tin gốc. Ý tưởng cơ bản của giải pháp lựa chọn mã hóa kênh là nếu như một trong số các ký hiệu phát qua kênh bị méo do nhiễu thì những ký hiệu bị ảnh hưởng bởi nhiễu ít hơn sẽ giúp giải mã các bit thông tin thực tế với độ tin cậy cao hơn.

Trong môi trường nhiễu, có một thực tế là nếu ngay khi nhận được tín hiệu thu chúng ta thực hiện giải mã các bit 0 hoặc 1 thì hiệu quả sẽ không cao. Thay vào đó, chúng ta chỉ đánh giá độ tin cậy, (rất tin cậy, tin cậy, tin cậy thấp , tin cậy rất thấp), khi giải mã bit 1 hoặc bit 0 dựa trên tín hiệu thu được. Với cách giải mã như vậy người ta gọi là quyết định mềm (soft decision). Những thông tin thể hiện độ tin cậy của quyết định mềm đó được đưa đến bộ giải mã để tìm ra bit thông tin gốc là 0 hay 1 thông qua việc so sánh kết quả với những bit thông tin lân cận. Giải thuật mềm như đã nêu ở trên sẽ rất phức tạp, độ phức tạp sẽ tăng theo hàm mũ khi độ dài các thanh ghi dịch trong bộ tạo mã tăng lên. Công trình nghiên cứu trong vòng ba tháng của Viterbi đã làm giảm độ phức tạp thông qua việc kết hợp các quyết định mềm để quyết định chuỗi bit thông tin nào là giống với chuỗi bit được phát đi nhất. Giải pháp này của Viterbi đã được chứng minh là cho kết quả giống với kết quả của phương pháp giải mã tối ưu với độ phức tạp cao ở trên. Với ưu điểm đó, JPL ngay lập tức sử dụng thuật toán giải mã Viterbi trong hệ thống thông tin vệ tinh cũng như vũ trụ của mình. Sau này các hệ thống thông tin quân sự cũng như các mạng thông tin số như các tuyến truyền dẫn viba hay hệ thống TTDĐ tế bào GSM, CDMA đều dùng thuật toán giải mã này giải mã mã xoắn.

Bước ra thương trường

Khi giảng dạy tại trường Đại học California, nơi công việc giảng dạy đã giúp ông tìm ra thuật toán mang tên mình đã được công nghệ và các hệ thống thông tin thực tế khẳng định. Ông bắt đầu bắt tay vào các dự án nghiên cứu nhỏ được ký kết với Bộ Quốc phòng và Trung tâm hàng không vũ trụ NASA (Mỹ) cùng các đồng nghiệp của mình. Những dự án ban đầu của ông rất thành công làm cho ông cùng các cộng sự nảy sinh ý định thành lập một công ty của riêng mình lấy tên là Linkabit. Lúc đó, Viterbi phải đứng trước một quyết định khó khăn: giảng dạy hay kinh doanh? Cuối cùng ông đã quyết định rời khỏi Đại học California để đến San Diego làm việc với Linkabit cùng với các cộng sự. Đến giữa những năm 70 thế kỷ 20, công ty của ông đã ký hợp đồng để xây dựng hệ thống vô tuyến hai chiều chống nhiễu cho hệ thống hàng không của Mỹ. Hệ thống mà Linkabit thiết kế lúc bấy giờ tương tự như các hệ thống không dây nội hạt hiện nay (WiFi).

Vào năm 1980, Linkabit được Microwave Associate Communications mua lại. Sự hội nhập của Linkabit vào Microwave lúc bấy giờ là cơ hội để Viterbi mở rộng thương mại các sản phẩm của mình như phát triển các modem sử dụng thiết bị đầu cuối anten độ mở nhỏ. Bên cạnh đó, Viterbi cũng tham gia vào dự án với Home Box Office (HBO) để xây dựng bộ ngẫu nhiên hóa đầu tiên để chống thu trộm tín hiệu truyền hình. Sau 5 năm làm việc với Microwave Associate Communications, do những trục trặc về quản lý nên Viterbi cùng với Irwin Jacobs và 5 nhân viên cũ của Linkabit trước đây thành lập công ty Qualcomm.

Ban đầu, Qualcomm tập trung chủ yếu vào các dự án quân sự. Không lâu sau, Qualcomm đã vươn sang các ứng dụng thương mại. Hệ thống thương mại đầu tiên trên băng tần thử nghiệm của FCC (Federal Communications Commission) là OmniTRACS, hệ thống thông tin sử dụng thông tin vệ tinh ở quỹ đạo địa tĩnh cho phép các công ty vận tải đường dài có thể giữ liên lạc liên tục với các lái xe thông qua các bản tin ngắn. Ban đầu, hệ thống này triển khai trên 600 xe tải nhưng đến nay hệ thống đã được sử dụng cho nửa triệu thuê bao trên toàn thế giới. Đối với Qualcomm, OmniTRACS thực sự giúp cho công ty cất cánh và đi vào thương trường vì nguồn thu từ hệ thống này giúp cho Qualcomm phát triển hệ thống TTDĐ tế bào CDMA vào những năm 1990.

Vào những năm 1990, hệ thống thông tin tế bào tương tự sử dụng công nghệ truy nhập phân chia theo tần số (FDMA) bộc lộ nhiều nhược điểm, trong đó, chủ yếu là hạn chế về dung lượng của mạng. Thế giới lúc đó đã nghĩ về một hệ thống thông tin cải tiến hơn hệ thống tương tự hiện tại. Các nước châu Âu chủ yếu nghiên về lựa chọn công nghệ số TDMA (Đa truy nhập phân chia theo thời gian sau này sử dụng trong hệ thống GSM) là lựa chọn để tăng dung lượng hệ thống lên gấp khoảng 4-6 so với hệ thống tương tự trên cùng một bề rộng băng tần. Nhưng Qualcomm vẫn nghĩ rằng họ còn có một sự lựa chọn tốt hơn đó là dùng công nghệ đa truy nhập phân chia theo mã (CDMA), một ứng dụng của lý thuyết trải phổ đã được sử dụng trong thông tin quân sự của Mỹ rất lâu trước đó. Sau đó 3 năm thì bộ tiêu chuẩn về TTDĐ CDMA đã hoàn thành.

Năm 1995, hệ thống TTDĐ tế bào CDMA đầu tiên của Qualcomm đã được thử nghiệm đầu tiên tại Hồng Kông, tiếp theo là Los Angeles và Hàn Quốc. Đến những năm của cuối của thể kỷ trước, viễn thông thế giới một lần nữa ngồi lại với nhau để tìm ra một sự hội tụ chung về công nghệ cho TTDĐ tế bào, bởi lúc này nhu cầu dịch vụ trong mạng thông tin vô tuyến đã chuyển dịch từ dịch vụ thoại thông thường với mức QoS cố định sang các dịch vụ đa phương tiện đòi hỏi truyền dẫn ở tốc độ cao và thay đổi theo từng dịch vụ. Khi đó, công nghệ truy nhập vô tuyến CDMA đã chính thức được ITU-R (IMT-2000) lựa chọn là công nghệ truy nhập để nâng cấp các mạng thông tin thế hệ 2G sang 3G.

Quay về với công việc hàn lâm!

Vào năm 2000, ở tuổi 65 sau khi đã từng làm việc cho 13 công ty khác nhau ông quyết định rút lui khỏi thương trường để đầu tư toàn bộ thời gian còn lại cho những công việc hết sức có ý nghĩa: Viết báo, giảng dạy và làm khách mời danh dự cho các hội nghị về ngành kỹ thuật viễn thông, đầu tư vào các công ty mới thành lập. Năm 2004, ông đã thành lập một vốn đầu tư rất lớn với trị giá 52 triệu USD cho trường kỹ thuật tại Đại học South California, sau này trường đổi tên thành trường kỹ thuật Viterbi (Viterbi School of Engineering) để vinh danh những đóng góp của ông. Hiện nay, ngôi trường của ông đang đứng trong top 10 trường kỹ thuật tốt nhất ở Mỹ.

Gần 50 năm trên con đường sự nghiệp của mình, Viterbi luôn để lại dấu ấn và có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển công nghệ viễn thông trên thế giới. Bên cạnh rất nhiều giải thưởng khác, năm 1998, nhân dịp kỷ niệm 50 thành lập của Tạp chí Information Theory, ông là một trong số 17 nhà khoa học đã vinh dự nhận được giải thưởng Golden Jubilee dành cho các nhà khoa học đã có những khám phá, phát minh khoa học làm thay đổi nền khoa học công nghệ thông tin của thế giới [4].

Trong nhiều cương vị khác nhau, với trải nghiệm của mình ông mong mỏi các thế hệ đi sau mình hãy làm những gì mà mình thích, mình có thể làm được nhiều nhất vì đơn giản cơ hội chỉ đến một lần. Trên chặng đường sự nghiệp của ông, ông đã phải rất nhiều lần đưa ra quyết định và quyết định khó khăn nhất vẫn là rời bỏ công việc hàn lâm để tham gia vào thương trường. Nhưng rồi, ông lại rời bỏ thương trường để về với công việc hàn lâm trước đây với mục đích tạo cơ hội cho thế hệ trẻ sau ông tiếp tục xây dựng nền công nghệ thông tin thế giới. Với Viterbi, ra đi hay trở về đều là những lựa chọn “Đúng nơi đúng lúc”.

Nguyễn Trung Hiếu,  Lê Hải Châu

Tài liệu tham khảo

[1]. The quiet Genius: Andrew Viterbi by Trudy E. Bell

[2]. Interview #337, IEEE history Center

[3]. Andrew J. Viterbi and Jim K. Omura, Principles of Digital Communication and Coding.

[4]. http://www.itsoc.org/society/goldjub_tech.htm

[5].http://colleges.usnews.rankingsandreviews.com/usnews/edu/college/rankings/rankindex_brief.php

Đối mới Bưu điện Văn hóa xã trong thời kỳ cạnh tranh

Bùi Xuân Chung

Bài viết này trình bày những cơ hội và thách thức trong phát triển Điểm Bưu điện Văn hóa xã (BĐ-VHX) khi Việt Nam đã hội nhập, thị trường Viễn thông Việt Nam đã mở cửa cạnh tranh.

Điểm Bưu điện Văn hóa xã Lao và Chải, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang (Ảnh: YM)

 I. BĐ-VHX xã trong thời kỳ bao cấp chéo

1. Tại sao có BĐ-VHX

Tính đến năm 2009 đã trải qua 11 năm, kể từ khi thị trường Viễn thông có những thay đổi và phát triển vượt bậc, điều đó được minh chứng qua sự gia tăng số lượng thuê bao điện thoại và các nhà khai thác Viễn thông. Trong Nghị định 51/CP ngày 01/08/1995 của Chính phủ về phê chuẩn Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Chính phủ giao về nguyên tắc thực hiện nhiệm vụ công ích cho VNPT: “có nghĩa vụ đảm bảo thông tin liên lạc phục vụ sự chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước, phục vụ quốc phòng, an ninh, ngoại giao và các yêu cầu thông tin liên lạc khẩn cấp; bảo đảm các dịch vụ Bưu chính, Viễn thông cơ bản trong cả nước, kể cả vùng xa xôi hẻo lánh”.

Như vậy, trách nhiệm xây dựng và phát triển BĐ-VHX là thuộc về VNPT, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Viễn thông duy nhất lúc đó, là hoàn toàn hợp lý.

2. BĐ-VHX là của ai?

Xét về bản chất nghĩa vụ cung cấp dịch vụ công nói chung và đầu tư BĐ-VHX thuộc về Nhà nước. Trong giai đoạn đó, Nhà nước sử dụng lực lượng tài chính của mình là các doanh nghiệp Nhà nước để thực hiện cung cấp dịch vụ công. Những khoản đầu tư cho BĐ-VHX là cần thiết, bởi lẽ đây là nơi tuyên truyền đường lối, chính sách và duy trì văn hóa thông tin tại các vùng sâu vùng xa đồng thời góp phần ổn định an ninh quốc phòng tại các vùng sâu, vùng xa.

Như vậy, hệ thống BĐ-VHX được hình thành trên cơ sở chính sách phát triển của Chính phủ, nên cũng có thể hiểu đây là các tài sản của Nhà nước đặt tại doanh nghiệp. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống BĐ-VHX là một thách thức được đặt ra trong thời gian tới. Bởi lẽ, nếu việc cung duy trì BĐ-VHX nếu dừng ở mức đơn vị cung cấp VNPT thì sẽ thiếu tính xã hội hóa trong phát triển hệ thống BĐ-VHX.

II. Tại sao cần đổi mới BĐ-VHX trong thời kỳ mở cửa cạnh tranh

1. Những điểm mạnh của chủ trương phát triển BĐ-VHX

Thứ nhất, quan điểm phát triển BĐ-VHX thể hiện nội dung của một chính sách công hướng đến và phục vụ đời sống của nhân dân, đặc biệt là nhân dân tại các vùng sâu, vùng xa.

Thứ hai, chủ trương thể hiện cam kết và quyết tâm của Chính phủ trong việc đưa công nghệ thông tin và truyền thông phục vụ phát triển kinh tế xã hội đến hơn 70% dân số Việt Nam.

2. Kinh nghiệm quốc tế

a. Kinh nghiệm từ cải cách Viễn thông và phát triển dịch vụ Viễn thông công ích của Mông Cổ

Mông Cổ được Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) giúp đỡ trong tái cơ cấu thị trường Viễn thông trong đó có Viễn thông công ích, trong đó hai nội dung quan tâm nhất là:

Thứ nhất, điểm chuyển đổi giữa dịch vụ truy nhập (Universal access -UA) và dịch vụ phổ cập (Universal Service - US) là từ 30 máy/100 dân. Điều này gợi ý cho việc phổ cập nội dung và các dịch vụ tại các điểm BĐ-VHX chỉ khả thi với các vùng có mật độ thuê bao điện thoại trên 100 dân lớn hơn 30 thuê bao.

Hình 1. Điểm chuyển tiếp giữa UA và US

Thứ hai, mức độ hỗ trợ phải đảm bảo vượt qua mức lỗ, thời gian hỗ trợ ổn định trong thời gian 10 năm (Hình 2). Đây là cơ sở để các Nhà khai thác tập trung đầu tư và có đủ thời gian thu hồi vốn.

b. Kinh nghiệm của hợp tác IFC và Indonesia trong phát triển các dự án Viễn thông công ích

Danh mục dự án phát triển điểm truy nhập công cộng được Công ty Tài chính quốc tế  (International Finance Corporation- IFC) của Ngân hàng thế giới (WB) tư vấn phát triển như danh mục dự án rủi ro. Theo đó, các Nhà khai thác sẽ đấu thầu phần kinh phí Nhà nước hỗ trợ nhưng họ phải đảm bảo duy trì điểm truy nhập (BĐ-VHX) với các yêu cầu về quy mô và thời gian phục vụ.

Hình 2. Thời gian và mức hỗ trợ đối với dịch vụ Viễn thông công ích

Kinh nghiệm này dẫn đến sự tách bạch giữa đầu tư và vận hành đem lại cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của BĐ-VHX. Dựa vào thị trường và hình thức đầu thầu để đầu tư mới phát triển các điểm BĐ-VHX, bên cạnh đó hình thức đấu thầu vận hành có hình thức giống như việc chia sẻ cơ sở hạ tầng cũng là cơ sở duy trì và vận hành các điểm BĐ-VHX một cách hiệu quả.

III. Mô hình cho sự đổi mới

1. Mô hình gia tốc đầu tư

Mô hình gia tốc đầu tư có thể hiểu theo hai cách:

- Trong xác định quy mô đầu tư cần xác định mức đầu tư của Nhà nước đảm bảo đủ để tạo tiền đề cho xã hội thực hiện đầu tư, thông thường trường hợp này sẽ đầu tư vào hạ tầng cơ sở.

- Trong việc luân chuyển vốn và đảm bảo thu hồi vốn và phát triển bền vững cho các dự án công, khoản đầu tư ban đầu sẽ được thu hồi và luân chuyển vào dự án khác hoặc vùng khác. Một hình ảnh lan truyền, áp dụng thí điểm rồi đến quy mô diện rộng trên cơ sở quay vòng khoản vốn đầu tư để hạn chế và quản trị được rủi ro trong đầu tư cho Viễn thông công ích.

Mô hình khẳng định đầu tư Nhà nước có tính kích cầu trong phát triển kinh tế đất nước chứ không thay thế hoàn toàn được đầu tư xã hội. Trong thực tế, hình thức này sẽ chuyển từ mô hình cấp phát sang đầu tư để thu hồi vốn và luân chuyển và các dự án khác, nhờ đó vốn nhà nước không mất đi mà được lớn mạnh và luân chuyển vào các dự án khác để phục vụ mục tiêu phát triển khác của Chính phủ.

Về mặt kỹ thuật, ngoài vận tốc thì gia tốc phản ánh đầy đủ các thông số kỹ thuật của chuyển động gống như việc xem xét mô hình phát triển bền vững trong kinh tế. Như vậy mô hình gia tốc đầu tư là luận cứ quan trọng để phát triển BĐ-VHX một cách bền vững.

2.Vận dụng với trường hợp BĐ-VHX

Trong 8000 điểm BĐ-VHX Nhà nước đã đầu tư, Nhà nước nên chọn các điểm đủ điều kiện để tiếp tục đầu tư (Có thể là 1000 hoặc theo số khảo sát thực tế) để ngày nào đó đây là nhân tố hay “gia tốc” để phục hồi lại số lượng điểm BĐ-VHX lớn hơn 8000 điểm trước đây.

Hiện nay Nhà nước đang thực hiện việc kích cầu, cũng là thời điểm hợp lý xem xét lại mô hình BĐ-VHX.

IV. Gợi ý về kỹ thuật xây dựng báo cáo khả thi trong tái cấu trúc BĐ-VHX

Nhân tố sử dụng để đánh giá tính khả thi trong đầu tư BĐ-VHX gồm: Nhu cầu về thông tin tại vùng dự án, điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng tài chính, điều kiện hạ tầng Viễn thông tại vùng dự án… Hệ thống các nhân tố được thiết lập theo các tiến trình cơ bản trong Hình 3.

Hình 3. Tiến trình phát triển và xác định tính khả thi BĐ-VHX

Nhờ việc xác lập và tách đoạn các giai đoạn phát triển khác nhau gắn với nhu cầu về BĐ-VHX sẽ tránh được tính phong trào, nâng cao tính khả thi và hoàn vốn tại các điểm BĐ-VHX.

Thông qua việc xây dựng mô hình khả thi sẽ tính toán mức hỗ trợ cần thiết trên cơ sở kết hợp với đấu thầu và thị trường hóa cúng cấp dịch vụ cơ bản tại BĐ-VHX, nhờ vậy phần vốn đầu tư vào BĐ-VHX sẽ luân chuyển và đầu tư vào khu vực khác sau khi thị trường đã đảm nhận được việc duy trì điểm BĐ-VHX.

Một cách nhìn xa hơn, đây chính là tiền đề trong việc hình thành thị trường công trong lĩnh vực Viễn thông công ích gắn với mục tiêu của Chính phủ và nhu cầu của hơn 70% dân số Việt Nam./.


Những thách thức và cơ hội của NGN ở Việt Nam

TS. Đặng Đình Trang, ThS. Nguyễn Sơn Hải

Phát triển và kinh doanh mạng thế hệ mới NGN đã và đang là vấn đề nóng trong ngành viễn thông vài năm gần đây. Bài viết này trình bày tóm tắt các nghiên cứu đánh giá về thách thức và cơ hội mà NGN có thể tạo ra cho nhà khai thác viễn thông. Bài viết tập trung vào các vấn đề nổi cộm, gây ra nhiều tranh luận của NGN như khi nào nên triển khai NGN, Softswitch hay IMS, các vấn đề của chuyển đổi và kinh doanh NGN.

1. Giới thiệu

Mạng thế hệ mới (Next Generation Network - NGN) bắt đầu được đề xuất, nghiên cứu thảo luận nhằm chuẩn hóa từ khoảng năm 2003. NGN không phải là một ý tưởng cách mạng, NGN là sự phát triển tất yếu của quá trình tiến hóa công nghệ mạng phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng. Có rất nhiều động lực thúc đẩy quá trình tiến hóa này: nhu cầu của khách hàng điện thoại chuyển từ cách chỉ dùng các dịch vụ do công ty cung cấp điện thoại truyền thống cung cấp sang thế giới Internet mở với khối lượng nội dung và năng lực liên lạc khổng lồ; sự hội tụ tất yếu của các mạng liên lạc trước đây chỉ dùng cho các mục đích riêng (ví dụ mạng PSTN nhằm cung cấp liên lạc điện thoại cố định, mạng GSM dành cho điện thoại di động) sang mạng sử dụng giao thức IP hoàn toàn (all-IP) có bản chất đa tính năng, có mặt tại mọi nơi mọi chỗ và chi phí thấp; sự tách biệt phần truyền tải của mạng và các dịch vụ chạy trên lớp truyền tải, cho phép sáng tạo ra các dịch vụ mới độc lập với lớp truyền tải, gây ảnh hưởng lớn đến cạnh tranh và giá cước dịch vụ…

Ảnh minh họa: nextgenerationnetwork.ie

Trong mạng điện thoại truyền thống PSTN, kết nối liên lạc điện thoại dùng chuyển mạch kênh sử dụng một đường kết nối vật lý giữa người dùng tại hai đầu của mạng. Đường kết nối này bị chiếm dụng và phải được đảm bảo trong suốt quá trình liên lạc. Trên Internet, dữ liệu được truyền tải với giao thức IP. Thông tin được cắt nhỏ vào các gói dữ liệu chứa đầy đủ địa chỉ IP của bên gửi và bên nhận. Các gói thông tin được gửi tới các thiết bị định tuyến (router) tiếp nối nhau đến khi gói dữ liệu cuối cùng được gửi đến bên nhận. Các gói dữ liệu không nhất thiết phải đi theo cùng một đường đến bên nhận, vì vậy mạng IP cho phép thiết lập liên lạc không cần đường kết nối cố định. Mỗi loại mạng đều có các điểm mạnh và yếu riêng. Mạng NGN được xây dựng với mục tiêu kết hợp các tính năng tốt nhất của hai mạng PSTN và Internet.

Tuy nhiên, mạng PSTN được xây dựng và khai thác trong thế kỷ trước sẽ không thể thay thế được trong một sớm một chiều. Gác lại một bên những vấn đề về công nghệ của NGN - vốn đang được phát triển, chuẩn hóa và chưa thật sự chín muồi - bài viết này tập trung vào các thách thức mà các nhà khai thác viễn thông sẽ phải đối mặt khi lên kế hoạch triển khai mạng NGN trong tương lai. Nên hay không, khi nào nên bắt đầu tiến tới NGN, lộ trình chuyển đổi sang NGN, phải giải quyết như thế nào với khách hàng cũ, cơ sở hạ tầng cũ, cơ cấu tổ chức cũ. Triển khai NGN không đơn thuần là lắp đặt và khai thác mạng, nó kéo theo hàng loạt các vấn đề liên quan mật thiết như cơ cấu lại quy trình khai thác, kinh doanh trong môi trường mới, thiết lập lại các quy định kết nối trong và ngoài nước, tính cước, quản lý nhà nước… Chuyển đối sang NGN yêu cầu sự chuyển mình và đổi mới của toàn bộ hệ thống. Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới vô số cơ hội mà NGN có thể mang tới như giữ chân khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao hiệu suất khai thác vận hành, giữ và tạo ra các nguồn lợi nhuận mới… Các nhà khai thác cần hiểu rõ và vận dụng một cách hợp lý, đúng thời gian và địa điểm để thu lợi nhiều nhất từ các cơ hội mà NGN mang đến.

2. Những điểm đáng lưu ý của NGN

2.1. NGN là gì?

NGN là một khái niệm rộng, khó định nghĩa một cách chính xác, ngắn gọn. Ngay cả các diễn đàn chuẩn hóa lớn nhất cũng có cách tiếp cận NGN đôi chút khác nhau. Bắt đầu từ tên gọi, Korea Telecom triển khai xây dựng mạng thế hệ mới với tên gọi Broadband convergence Network (BcN), British Telecom đặt tên mạng là 21CN, Telekom Global Network (TGN) là tên mạng NGN của Deutsche Telekom… Khi sử dụng khái niệm NGN, một số người muốn đề cập đến quá trình chuyển hóa từ PSTN sang mạng trên nền IP, một số khác muốn nói đến việc sử dụng công nghệ IP trên phần nào đó của mạng hay cuộc gọi [1]. Dưới một góc nhìn nào đó các cách hiểu này đều có lý do có thể chập nhận được.

NGN có thể phát triển, sử dụng nhiều công nghệ mạng bao gồm mạng quang, cáp, cố định, di động… Mục tiêu là chuyển đổi từ “mạng đơn dịch vụ” sang “mạng đa dịch vụ”. Đối với các nhà khai thác, NGN là công cụ quan trọng để giữ vị thế cạnh tranh trên thị trường trong thế giới hội tụ của dịch vụ và nội dung, khi doanh thu từ điện thoại truyền thống ngày càng giảm sút. Trên thị trường viễn thông, động lực của NGN là nhu cầu dịch vụ điện thoại, dữ liệu, video tích hợp, mọi lúc mọi nơi, trên mạng cố định cũng như di động. Về mặt công nghệ, sự khác biệt của NGN là chuyển mạch gói so với chuyển mạch kênh truyền thống trên PSTN.

Nhóm nghiên cứu ITU-T SG13 định nghĩa NGN trong Khuyến nghị Y.2001 [9] như sau: “Mạng truyền tải gói cho phép cung cấp các dịch vụ liên lạc viễn thông và có khả năng sử dụng nhiều loại hình băng rộng, các công nghệ truyền tải đảm bảo QoS, trên đó các chức năng liên quan tới dịch vụ độc lập với các công nghệ truyền tải phía dưới. Nó cho phép người dùng truy nhập tự do tới các mạng, các nhà cung cấp dịch vụ và/hoặc các dịch vụ theo ý muốn của họ. Nó hỗ trợ tính năng di động (generalized mobility), khả năng cung cấp dịch vụ ổn định, mọi lúc mọi nơi”.

2.2. Lộ trình chuẩn hóa NGN

NGN đã và đang là một đề tài nóng trong lĩnh vực viễn thông trên toàn thế giới, nhiều diễn đàn, tổ chức và dự án đang hoạt động rất tích cực trong tiến trình chuẩn hóa NGN.

Trên hết phải nhắc tới vai trò chủ đạo của ITU-T trong chuẩn hóa NGN. Khởi đầu bằng hội thảo “Next Generation Netwroks: What, When and How?” tại trụ sở của ITU-T ở Geneva, Thụy Sỹ tháng 6/2003. Sau đó FGNGN (Focus Group on NGN) được thành lập để soạn ra các phác thảo chuẩn đầu tiên của NGN. Kết quả của nó được tiếp tục bởi ITU-T SG13, nhóm nhiên cứu hàng đầu về NGN, đưa ra các khuyến nghị chính thức của ITU-T về NGN. Sau FGNGN, NGN-GSI (Global Standards Initiative) được thiết lập là nhóm quản lý hệ thống tập trung về NGN, bao gồm các nhóm nghiên cứu SG11 (về các giao thức báo hiệu), SG17 (về an ninh mạng) và SG19 (về các mạng di động) [10]. Kết quả của các nhóm làm việc này đến thời điểm hiện nay là NGN Release 1 gần hoàn chỉnh tập trung vào các dịch vụ trên nền phiên (session-oriented), các Khuyến nghị Y.2xxx, Q.3xxx về lưu lượng và quản lý QoS, chuyển đổi từ PSTN/ISDN, quản lý mạng, an ninh, di động (mobility), báo hiệu… [11]. NGN Release 2 sẽ đi sâu vào các dịch vụ dòng (streaming) như IPTV và mở rộng sang di động.

Gần như song song với ITU-T, Viện Tiêu chuẩn Viễn thông châu Âu (ETSI) bắt đầu dự án TISPAN (Giao thức và mạng hội tụ viễn thông và Internet cho các mạng tiên tiến) tháng 9/2003 để soạn thảo ra chuẩn châu Âu về NGN và cố gắng đưa chúng thành các chuẩn quốc tế ITU-T. 3GPP IMS được chọn là nền tảng cơ bản cho NGN. Mục đích của TISPAN là: (1) mở rộng IMS cho các khách hàng băng rộng, PSTN/ISDN; (2) cung cấp đầy đủ các dịch vụ PSTN/ISDN hiện tại cho các khách hàng trên mạng thế hệ mới để hỗ trợ các kịch bản chuyển đổi; (3) mở rộng các phạm vi thuộc về quản lý của IMS mà 3GPP chưa hỗ trợ như gọi khẩn cấp (Emergency calling), nghe trộm đúng luật (Lawful Interception), báo cuộc gọi có mục đích xấu (Malicious Call Indication - MCI), CLIP/CLIR… [3]. Các kết quả của TISPAN khá giống của ITU-T, TISPAN NGN Release 1 ban hành vào 2005 là các chuẩn nền tảng để phát triển và xây dựng NGN. Release 2 vẫn trong quá trình hoàn thiện tập trung vào tính năng di động, cung cấp nội dung và các dịch vụ mới với mức an ninh và quản lý mạng nâng cao [12].

Tiếp đó phải kể đến 3GPP, nơi khởi động mô hình IMS. IMS là một phần trong công việc chuẩn hóa công nghệ di động 3G trên mạng UMTS. Công việc này sau đó được 3GPP, 3GPP2, TISPAN mở rộng, hỗ trợ các mạng khác như wireless LAN, CDMA2000 và mạng cố định. 3GPP vẫn tiếp tục tập trung vào phát triển phần lõi của IMS. Họ đã phát hành các Release 99 (nền tảng), 4 (giới thiệu MMS và TD-SCDMA), 5 (HSDPA và IMS), 6 (nâng cao HSPA và IMS). Release 7 đang trong thời gian hoàn thiện, mở rộng IMS sang các mạng cố định.

Ngoài ra, còn phải nhắc đến rất nhiều các dự án và diễn đàn nghiên cứu khác cùng đóng góp vào sự phát triển của NGN: Internet Engineering Task Force (IETF), MultiService Forum, các tổ chức liên quan tới Service Delivery Platform (SDP) như OSA/Parlay, JAIN, European Regulators Group…

2.3. Softswitch hay IMS?

Định nghĩa của ITU-T chỉ nêu ra khái niệm chung về mạng NGN mà không cụ thể hóa cách thức để xây dựng NGN. Nói đến NGN hiện nay chúng ta thường nhắc đến Softswitch (chuyển mạch mềm) và IMS (IP Multimedia Subsystem). Đó là hai hệ thống được biết đến rộng rãi trong thế giới NGN, nhưng cũng nên lưu ý rằng một nhà cung cấp hay khai thác mạng nào đó có thể có phương thức riêng để triển khai theo mục đích, nhu cầu của họ, không nhất thiết phải là Softswitch hay IMS.

Theo ý tưởng thiết kế ban đầu, Softswitch đúng nghĩa là software switch, dùng để thay thế cho TDM switch (tổng đài chuyển mạch TDM). Vì mạng điện thoại truyển thống dùng chuyển mạch kênh, Softswitch cần có giao diện với cơ sở hạ tầng đã có, bao gồm đường truyền thông TDM (media path) và báo hiệu SS7. Vì tính phân tán của mạng IP, cộng thêm sự ra đời ngày càng nhiều Softswitch, các chức năng của nó được tách ra thành các phần riêng: Media Gateway (MGW), Signaling Gateway (SGW) nằm tại biên mạng làm nhiệm vụ chuyển đổi lưu lượng (sang gói IP) và báo hiệu (sang H.248 hay SIP) và phần xử lý cuộc gọi tạm gọi là Call Control. Hình 1 trình bày các chức năng chính của Softswitch. Ban đầu, Softswitch cũng được thiết kế phù hợp với cấu trúc chuyển mạch truyền thống gồm có các tổng đài Class 4 và Class 5. Theo thời gian, cùng với việc chia tách các thành phần như MGW, SGW, Call Control của hệ thống Softswitch, sự tách biệt chức năng chuyển mạch Class 4/5 trở nên không cần thiết. Các Softswitch hiện nay đều cung cấp đầy đủ các chức năng chuyển mạch Class 4 và 5.

Hình 1. Các thành phần chính của hệ thống Softswitch [7]

Cấu hình IMS ban đầu được 3GPP xây dựng nhằm cung cấp các dịch vụ truyền thông đa phương tiện (IP multimedia) cho khách hàng di động. IMS mô tả một cấu trúc lớp với các chức năng mạng cụ thể tại mỗi lớp, nhưng định nghĩa các thành phần hay thiết bị mạng cung cấp các chức năng đó. Các nhà cung cấp có thể tùy ý thiết kế và chào mua các thiết bị nhưng phải tuân theo các giao diện chuẩn để có thể kết nối, hoạt động tương thích với thiết bị IMS của nhà cung cấp khác. IMS có các chức năng chính như: P/S/I-CSCF (Proxy/Serving/Interrogating-Call Session Control Function), HSS (Home Subscriber Server), BGCF (Breakout Gateway Control Function), MGCF (Media Gateway Control Function), MRF (Media Resource Function), AS (Application Server)… (Hình 2). Với các mục đích và tầm nhìn rộng mà IMS đang hướng tới, có vẻ như IMS là hướng phát triển chủ đạo của mạng thế hệ mới NGN.

Hình 2. Cấu trúc chức năng của IMS [13]

Song song với IMS, các diễn đàn chuẩn hóa cũng đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của Softswitch. Theo xu hướng phát triển IMS, tất cả các nhà cung cấp Softswitch đều vạch ra lộ trình chuyển đổi hay cải tạo hệ thống sang IMS trong tương lai. Một vài hiện thực nên xem xét tới khi phân tích quan hệ giữa Softswitch và IMS: (1) IMS chưa phải là một công nghệ chín muồi và khó có thể dự báo được thành công trong tương lai; (2) hệ thống Softswitch hiện nay đã khá phát triển và ngày càng có nhiều tính năng mới phù hợp với xu thế phát triển mạng và dịch vụ. Ranh giới giữa Softswitch và IMS ngày càng mờ; (3) tùy theo mục đích kinh doanh, tình trạng mạng hiện tại, năng lực thị trường, nhu cầu khách hàng… các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông không nhất thiết cần đến IMS, một giải pháp Softswitch nâng cao có thể là phù hợp nhất với nhu cầu của họ; (4) có vẻ như sự tồn tại song song của cả hai công nghệ là phương án ít rủi ro nhất cho các nhà cung cấp dịch vụ: Softswitch cho kết nối thoại (hiệu quả và tin cậy) và IMS dành cho các dịch vụ nâng cao mới.

3. Những thách thức và cơ hội của NGN

Khi phân tích đánh giá những thách thức và cơ hội mà NGN có thể đem lại cho nhà khai thác viễn thông, bài viết này đi sâu vào ba lĩnh vực đáng lưu ý nhất: quyết định triển khai NGN, phương thức triển khai và phương án kinh doanh trên NGN.

3.1.  NGN: nên hay không?

Có thể khẳng định chắc chắn rằng NGN mang lại rất nhiều cơ hội cho các nhà khai thác viễn thông. Điều này đã được thảo luận rất nhiều trong các hội thảo chuyên đề hay trong các bài nghiên cứu liên quan [1], [3], [4], [6], một vài ý chính có thể được tóm lược như sau:

(1) Kinh doanh thuần túy trên đường truyền thông (“pipe” business) và dịch vụ điện thoại cơ bản ngày càng trở nên thông dụng và có nhiều đối thủ cạnh tranh. Ví dụ trên thị trường viễn thông Việt Nam ngoài VNPT, nay đã có thêm các công ty viễn thông như Viettel, FPT, EVN, S-fone, HT và sắp tới là GTel. Các nhà khai thác phải cạnh tranh quyết liệt về giá cả, dẫn đến giảm lợi nhuận đáng kể. Nếu nhà khai thác muốn thành công trong hoàn cảnh mới, họ phải tìm ra cách tăng thêm giá trị vào dịch vụ truyền thông của họ. NGN là nền tảng để cung cấp các dịch vụ nâng cao mới, giữ chân khách hàng, mở ra những cơ hội thị trường mới, lợi nhuận mới.

(2) Mạng NGN tạo nền tảng cho các nhà khai thác mạng phát triển, cung cấp hiệu quả các dịch vụ mới, loại bỏ các phương thức xây dựng dịch vụ kém hiệu quả, đơn chiếc, cá thể, và không sử dụng lại được như hiện nay. NGN giúp giảm thời gian đưa ra thị trường (time-to-market) và chi phí cho vòng đời (life-cycle) của các dịch vụ mới.

(3) Năng lực của các giải pháp NGN (Softswitch hay IMS) đều lớn hơn nhiều so với các tổng đài chuyển mạch Class 4/5 cũ. Hơn nữa, NGN có chi phí khai thác và vận hành thấp hơn. Những tính năng này rất hấp dẫn không chỉ với các công ty mới tham gia thị trường, mà còn thu hút sự quan tâm của các nhà khai thác truyền thống khi xem xét mở rộng hay thay thế mạng lưới hiện tại. Nền tảng IP cho phép hiệu quả hóa quản lý mạng và sử dụng tài nguyên mạng.

(4) Làm giảm nhu cầu vế số lượng cũng như không gian dùng để lắp đặt các tổng đài, thiết bị mạng. Việc này kéo theo tiết kiệm đáng kể về nhà đặt tổng đài, điểm kết nối và năng lượng tiêu thụ.

Chuyển đổi sang NGN là xu hướng tất yếu của ngành viễn thông. Tuy nhiên, một số nhà khai thác cũng có thể đưa ra lý do để không triển khai NGN. Hiện nay tại phần lớn các thị trường, số lượng khách hàng điện thoại cố định đã bão hòa và có xu hướng giảm dần. Mạng PSTN sẵn có vẫn có năng lực, chất lượng tốt cung cấp dịch vụ trong nhiều năm nữa. Tại sao lại đầu tư vào NGN với phần lớn các dịch vụ như cũ, sự tiếp nhận của khách hàng và thành công của các dịch vụ NGN mới chưa thật sự rõ ràng và chắc chắn? Đây là bài toán của một chiến lược kinh doanh dài hạn. Chiến lược kiểu “phòng thủ” nếu may mắn có thể giúp nhà khai thác giữ được vị thế trên thị trường đến một thời điểm nào đó. Thành công chỉ thật sự đến với sự sáng tạo trong kinh doanh và sự nắm bắt hợp lý các cơ hội. Với các cơ hội như đã trình bày ở trên, việc chọn lựa NGN hay không có lẽ tương đối dễ trả lời. Cái khó với các nhà khai thác viễn thông là việc tận dụng hợp lý các cơ hội của NGN. Trước tiên là quyết định khi nào nên bắt đầu triển khai NGN?

Triển khai NGN yêu cầu đầu tư ban đầu không nhỏ. Triển khai NGN quá sớm sẽ làm lãng phí năng lực mạng sẵn có. Bộ máy kinh doanh chưa sẵn sàng gây ra hiệu quả kinh doanh kém. Thị trường chưa chín muồi sẽ không bị hấp dẫn bởi các dịch vụ NGN mới. NGN là công nghệ vẫn đang phát triển, đầu tư sớm có thể có nhiều rủi ro, các thiết bị cũ sẽ không tương thích với các chuẩn NGN sau này. Triển khai NGN quá muộn cũng sẽ không tận dụng được các cơ hội NGN đem lại. Đối thủ cạnh tranh nào triển khai NGN trước sẽ chiếm lĩnh các lợi thế của NGN trên thị trường. Mặt khác, đầu tư tiếp vào mạng cũ là lãng phí khi chi phí đó có thể dùng để khởi động mạng NGN có năng lực và tính năng vượt trội. Vì vậy, quyết định triển khai NGN đúng đắn phải được xem xét cân nhắc kỹ lưỡng theo hoàn cảnh cụ thể của thị trường, của mỗi nhà khai thác.

3.2. Chuyển đổi sang NGN

Nhà khai thác viễn thông sau khi đã quyết định triển khai NGN sẽ phải đối mặt với một thách thức tiếp theo: chuyển đổi sang NGN. Chuyển đổi mạng truyền thống PSTN – hình thức mạng về cơ bản là không đổi trong nhiều thập kỷ qua - sang NGN không đơn thuần chỉ là bài toán kỹ thuật. Chuyển sang NGN là sự thay đổi về hệ thống của toàn công ty, cần có một chiến lược chuyển đổi tổng thể rõ ràng. Kế hoạch chuyển đổi sang NGN sẽ liên quan, trực tiếp hoặc gián tiếp, đến nhiều lĩnh vực: chiến lược, kinh doanh và bán hàng, phát triển dịch vụ, các hệ thống IT (bao gồm OSS, BSS, khai thác và quản lý mạng…), hiệu quả hóa mạng, quản lý cung cấp thiết bị và các đối tác cung cấp thiết bị, nguồn nhân lực… Các vấn đề sau cần phải xem xét đến trong kế hoạch:

  • Các hạn chế và thách thức của nguồn nhân lực và tài nguyên mạng,
  • Những rủi ro có thể xảy ra trong chuyển đổi liên quan tới cung cấp dịch vụ liên tục và đảm bảo các dịch vụ và chuyển đổi khách hàng,
  • Đánh giá chi tiết về các chi phí chuyển đổi và các khoản tiết kiệm được trong quá trình thay đổi hệ thống,
  • Các nguồn lợi nhuận mới có thể thu được từ việc cung cấp các dịch vụ (NGN) mới trên thị trường.

Một kế hoạch chuyển đổi chung cho toàn hệ thống dịch vụ điện thoại POTS và dữ liệu thông thường mất khoảng 3 đến 8 năm, theo như kinh nghiệm của nhiều nhà khai thác trên thế giới. Tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, nhà khai thác có thể chọn con đường chuyển đổi nhanh hay chậm trong khoảng thời gian trên. Chuyển đổi chậm, kéo dài có vẻ như là ít chi phí và ít rủi ro nhất, đảm bảo sự chuyển đổi trơn tru của các dịch vụ và khách hàng. Số lượng đường thuê bao phải chuyển đổi hàng ngày có thể được nhân lực sẵn có thực hiện. Thách thức có thể xảy đến khi chuyển đổi chậm là trong khoảng thời gian đó các nhà khai thác khác trên cùng thị trường có thể đã hoàn thành NGN trước, cung cấp trước các dịch vụ cạnh tranh hoặc mới với giá rẻ hơn. Do đó suốt quá trình chuyển đổi nhà khai thác phải liên tục nghiên cứu xem xét động thái của thị trường để có phản ứng, điều tiết phù hợp. Ngược lại chuyển đổi rất nhanh mang lại nhiều thuận lợi cho kinh doanh nhưng sẽ yêu cầu chi phí lớn cũng như ẩn chứa nhiều rủi ro. Số lượng đường thuê bao phải chuyển đổi hàng ngày có thể rất lớn, vượt quá khả năng của nhân lực hiện tại. Bên cạnh đó đầu tư nhanh cũng khiến chi phí chuyển đổi cao. Thời gian ngắn hạn chế các thử nghiệm, nghiên cứu nhu cầu thị trường, vì vậy làm tăng rủi ro trong vận hành và khai thác mạng.

Một vấn đề quan trọng khác của chuyển đổi là việc sử dụng (lại) một cách hiệu quả nhất hệ thống, cơ sở hạ tầng hiện tại. Nhà khai thác truyền thống thường khai thác các mạng hạ tầng sau: mạng TDM (nội hạt, liên tỉnh, kết nối quốc tế), mạng dữ liệu/Internet, mạng pre-NGN (VoIP, SIP). Các hệ thống này có thể sử dụng tiếp/lại vào các mục đích hỗ trợ khách hàng truyền thống cho đến khi họ chuyển sang NGN, làm (một phần) mạng lõi cho mạng NGN mới, hay nâng cấp/chuyển đổi thành một phần của NGN mới. Có thể thấy trước rằng mạng cũ sẽ hoạt động song song với mạng mới trong suốt quá trình chuyển đổi và có thể thêm vài năm tiếp theo nữa. Thời điểm cần chấm dứt hoạt động của mạng cũ là khi chi phí vận hành nó đã lớn hơn nhiều so với lợi ích mà nó mang lại.

Tuy không trực tiếp là mục tiêu của chuyển đổi nhưng mở rộng băng thông truy nhập của các thuê bao là việc nhất thiết phải thực hiện trong giai đoạn chuyển đổi để khách hàng thực sự trải nghiệm được các dịch vụ mới và các tiện ích sẽ được mời chào trong môi trường NGN. Nghiên cứu triển khai các công nghệ truy nhập tốc độ cao như ADSL2+ hay truy nhập quang FTTx, PON, GPON… cần được xem xét phát triển.

3.3. Kinh doanh và khai thác NGN

Có rất nhiều vấn đề về mô hình kinh doanh và khai thác NGN, tuy nhiên phần này tập trung vào một số điểm đáng chú nhất liên quan đến cơ hội và thách thức khi khai thác NGN; những thách thức và cơ hội khi NGN đã được lựa chọn và khai thác thương mại. Các điểm liên quan đến định vị chiến lược, marketing dịch vụ, và những thay đổi về tổ chức, mà trước mắt là khi hội tụ di động cố định sẽ được trình bày lần lượt.

3.3.1.  Định vị chiến lược của nhà khai thác dịch vụ 

Ngay trong định nghĩa về NGN của ITU thì dịch vụ viễn thông cũng chỉ là một loại dịch vụ cung cấp trên NGN. Các nhà khai thác viễn thông – bất kể là truyền thống (incumbent) hay mới hình thành (alternative) – đều có cơ hội mở rộng hoạt động của mình sang các lĩnh vực khác như cung cấp nội dung thông tin, các ứng dụng trực tuyến hay truyền thông… Ngay trong giai đoạn tiền NGN, nhiều nhà khai thác viễn thông đã tự định vị mình thành nhà cung cấp thông tin (China Mobile), nhà xử lý thanh toán (Smart Phillipines), nhà cung cấp hạ tầng cho phong cách sống (NTT DoCoMo). Hoặc như với SingTel, công ty không còn nhấn mạnh về một thế giới không khoảng cách (no distance), mà muốn biến thế giới thành một sân chơi (playground) cho khách hàng trẻ. Nhà khai thác có thể lựa chọn, tuy nhiên định vị chiến lược luôn là bước đi quan trọng nhất quyết định sự thành công, và cả thất bại.

Xét ở phạm vi hẹp hơn và truyền thống hơn, NGN đặt ra cơ hội và thách thức cho nhà khai thác viễn thông thay đổi vị trí chiến lược của mình trong chuỗi giá trị của các dịch vụ viễn thông, liên lạc.

Với khả năng xử lý rất mạnh, dung lượng không hạn chế, và tính mở của NGN như mong muốn của ITU có thể khiến cho NGN mở ra cơ hội tương đối bình đẳng giữa những thành viên tham gia thị trường: nhà khai thác mạng, nhà cung cấp dịch vụ, nhà bán lại dịch vụ, nhà cung cấp nội dung thông tin và cả người sử dụng cuối cùng. Trong môi trường NGN, người sử dụng cuối cùng - vốn thụ động trong các mô hình kinh doanh viễn thông trước đây - có thể tự thiết kế cho mình các dịch vụ với tính năng và yêu cầu rất riêng về chất lượng. NGN còn đưa nhà khai thác viễn thông gần hơn với khách hàng doanh nghiệp (DN), biến những đòi hỏi phức tạp và yêu cầu rất cao thành những giải pháp sẵn có và mềm dẻo. Một vấn đề quan trọng khác tính mềm dẻo và khả năng phân tán kiểm soát của NGN có thể làm cho nhiều người trên thị trường trở thành nhà bán lại dịch vụ; các nhà bán lại dịch vụ này chính là khách hàng mua buôn của nhà khai thác.

Vậy nhà khai thác sẽ phân định ranh giới với “khách hàng” ở điểm nào, sẽ dành cho họ mức độ linh hoạt ra sao để vừa thỏa mãn được khách hàng mà vẫn giữ được quyền kiểm soát và mức lợi nhuận đủ hấp dẫn? Tại Việt Nam khi mà các đối thủ cạnh tranh tiềm năng đến từ bên ngoài ngành viễn thông chưa đủ mạnh, thì lợi thế nghiêng nhiều hơn về các nhà khai thác viễn thông.

3.3.2. Marketing dịch vụ

Một số khía cạnh marketing dịch vụ NGN sẽ được phân tích như sau:

Về phát triển dịch vụ: Từ cách đặt vấn đề, NGN sẽ có khả năng rất lớn để cung cấp các dịch vụ sáng tạo. Tuy nhiên, thế giới mới chỉ đưa ra dự báo về xu hướng phát triển dịch vụ và những đòi hỏi cần có của chúng; và hiện chưa biết dịch vụ nào sẽ đắt khách, sẽ là động lực cho sự phát triển của NGN. Trong trường hợp này, người phát triển dịch vụ đứng trước mặt trái của quyền được lựa chọn, đó là: không biết chọn gì. Tuy nhiên, việc bứt phá khỏi khuôn mẫu dịch vụ cũ, tư duy hướng khách hàng và dám thử nghiệm sẽ là những điều cần thiết để tận dụng cơ hội phát triển dịch vụ từ NGN. Một điều chắc chắn và dễ nhận ra đó là việc gộp các dịch vụ lại thành những gói dịch vụ hội tụ, giữa cố định - di động - nội dung - dữ liệu, sẽ là một cơ hội để bán kèm dịch vụ và tạo rào cản thay đổi nhà cung cấp.

Về định giá: NGN có lợi thế là khả năng tính cước mạnh và mềm dẻo. Tuy nhiên, do mô hình kinh doanh trên NGN vẫn dựa trên hiệu ứng mạng (network effect) - “càng đông càng vui” - nên trước tiên là phải định giá nhằm mở rộng thị trường, nhanh chóng đạt quy mô đủ lớn. Hiệu ứng mạng sẽ biến kẻ lớn mạnh thành lớn mạnh hơn và kẻ yếu thành yếu hơn; điều này đồng thời tạo ra cả thách thức và cơ hội cho nhà cung cấp dịch vụ NGN. Điều dễ nhận thấy là giá cước sẽ phải tính theo gói vì NGN là mạng đa truy nhập và đa dịch vụ; như vậy cũng phù hợp với xu hướng hội tụ.

Về bán hàng và phân phối: NGN sẽ thách thức nhà cung cấp với khái niệm khách hàng và kênh phân phối. Khách hàng không chỉ phân biệt giữa cá nhân và DN; và kênh phân phối sẽ có nhiều biến đổi, chủ yếu là ngắn lại. Một đối tượng khách hàng “hiếu chiến” nhất đó là các DN viễn thông hoặc các nhà bán lại dịch vụ. Đối tượng khách hàng này có doanh số mua lớn, nhưng lại luôn tìm cách mở rộng vai trò trong chuỗi giá trị, và thực tế là muốn lấn át nhà khai thác. Kênh bán hàng cho đối tượng này cũng hết sức chuyên biệt. Tuy vậy, ngay trong mô hình kinh doanh cũ, đến 80% lợi nhuận của các khách hàng này lại chảy về nhà khai thác mạng. Do đó, việc cạnh tranh và hợp tác cũng như phát triển quan hệ hai chiều là rất cần thiết. Đối tượng khách hàng đáng nói tiếp theo đó là các đối tác cùng kinh doanh; đó là các nhà cung cấp nội dung thông tin, cung cấp các dịch vụ kết hợp trong gói dịch vụ hội tụ… Đối tượng này về cơ bản đem lại cơ hội cùng thắng (win-win) và sẽ được tận dụng bằng các hoạt động cùng tiếp thị (co-marketing).

Về chăm sóc khách hàng (CSKH): Một trong những đặc điểm của NGN đó là: công nghệ ngày càng hội tụ, nhưng khách hàng ngày càng phân ly/tán. Khả năng truy nhập không hạn chế và cá thể hóa mềm dẻo chính là lý do của hiện tượng này. Ngoài ra, công nghệ và đặc tính dịch vụ đã trở nên tinh vi và khó sử dụng hơn. Do đó việc thông tin, CSKH là một thách thức lớn. Quá trình CSKH đòi hỏi nhiều thông tin, và thông tin cá thể hóa nhiều hơn. Tuy nhiên, NGN lại có khả năng thu thập rất nhiều thông tin từ khách hàng, đặc biệt là mô thức sử dụng. Do đó, nguồn thông tin từ CSKH là rất có giá trị. Bản thân việc quản lý và khai thác thông tin khách hàng trên NGN cũng là một dạng kinh doanh đầy tiềm năng. Như đã nói trên đây, hiện cả thế giới vẫn đang đi tìm các dịch vụ ăn khách, tìm kiếm mô hình kinh doanh phù hợp, và nói một cách khác, các nhà khai thác đang “thử nghiệm trên khách hàng”; do đó quá trình chăm sóc, quan sát khách hàng đem lại nhiều lợi ích cho kinh doanh trên NGN.

2.3.3. Thay đổi về tổ chức

Chuyển đổi sang NGN sẽ kéo theo những thay đổi sâu sắc về mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh của nhà khai thác viễn thông.

Đầu tiên có thể nhận thấy là số người cần thiết để vận hành mạng NGN sẽ giảm mạnh. Nhiều nhà tư vấn cho rằng họ có thể giảm đến 60% chi phí nhân công vận hành mạng khi chuyển sang NGN. Tuy nhiên, việc làm và nhân sự luôn là một vấn đề nan giải cho mọi cuộc cải cách mà NGN không phải là ngoại lệ; và điều này vừa là cơ hội, vừa là thách thức với nhà khai thác.

Khả năng mở rộng, lấn sân sang các lĩnh vực kinh doanh mới sẽ kéo theo việc hình thành những người lao động mới, với chuyên ngành mới. Ngoài ra, khi chuỗi giá trị dịch vụ viễn thông trên NGN thay đổi, quy trình cung cấp dịch vụ, mô hình tổ chức cũng phải thay đổi theo. Việc hình thành những đối tượng khách hàng mới, có mức độ ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận như khách hàng là các nhà khai thác khác, là nhà bán lại dịch vụ…sẽ thúc đẩy hình thành các bộ phận bán buôn, các nhân viên quản lý khách hàng lớn chuyên quản (account manager).

Sự hội tụ về công nghệ, dịch vụ cũng thúc đẩy quá trình hội tụ về mô hình khai thác và bán hàng. Xu hướng “riêng và rõ” các dịch vụ như trước đây không còn phù hợp. Quá trình hội tụ không nhất thiết phải bắt đầu bằng hội tụ công nghệ, mà, đôi khi chỉ đơn giản là sự hội tụ về hành động, về khai thác hoặc mục tiêu kinh doanh.

Xu hướng “hội tụ” cố định - di động ở thị trường viễn thông vào loại lớn nhất thế giới là Trung Quốc là một ví dụ. Những vụ “hội tụ” thuần túy về kinh doanh đang diễn ra mạnh mẽ với quy mô lớn: China Mobile với China Tietong, China Unicom (GSM) với China Netcom và China Telecom với China Unicom (CDMA). Tương tự như vậy, ở Việt Nam, Nga, Pháp, Hàn Quốc… đều có việc tái cấu trúc các nhà khai thác viễn thông. Quá trình “hội tụ” thông qua sáp nhập, mua lại như trên có ảnh hưởng lớn về tổ chức, con người và hệ thống kinh doanh khai thác. Với quá trình “hội tụ thực sự” trên NGN thì thì việc tổ chức kinh doanh của nhà khai thác sẽ hoàn toàn khác

Tất cả những sự thay đổi này đều nhằm mục đích tận dụng cơ hội; tuy nhiên thách thức luôn nằm ở phương pháp và hiệu quả thực hiện.

4. Kết luận

Bất cứ sự thay đổi nào cũng ẩn chứa cơ hội và thách thức. Chuyển đổi sang mạng NGN trên nền IP thậm chí còn nhiều thách thức hơn vì đây là sự thay đổi toàn diện về hệ thống của mạng PSTN được phát triển và khai thác suốt trong nhiều thập kỷ qua. Từ góc nhìn khác, mạng NGN mới sở hữu những tính năng vượt trội phù hợp với xu hướng phát triển của ngành công nghiệp thông tin và truyền thông, là nền móng vững chắc cho cạnh tranh và kinh doanh sáng tạo trong thế giới thương mại tự do và toàn cầu hóa hiện nay và tương lai. Nhà khai thác viễn thông đứng trước quyết định chuyển đổi cần phải có cái nhìn toàn diện và sâu rộng về các cơ hội cũng như thách thức của việc triển khai NGN. Mục đích của bài viết này là chỉ ra và phân tích một số thách thức và cơ hội, với mong muốn cung cấp thêm thông tin, hỗ trợ nhà khai thác viễn thông ra quyết định khi triển khai NGN.

Tài liệu tham khảo

[1]. T. Cohen, Next Generation Networks (NGN) Regulation Overview, Global Symposium for Regulators, Dubai, UAE, 5-7 February, 2007.

[2]. K. Knightson, N. Morita, T. Towle, NGN Architecture: Generic Principles, Functional Architecture, and Implementation, IEEE Communications Magazine, October 2005.

[3]. C. Lee, D. Knight, Realization of the Next-Generation Network, IEEE Communications Magazine, October 2005.

[4]. T-Systems, Next Generation Network: Motivation and Challenges for Incumbents, White Paper.

[5]. I. Jenkins, NGN Control Plane Overload and its Management, MSF-TR-ARCH-007-FINAL, MultiService Forum, February 2006.

[6]. P. Dailey, The Softswitch – Driving a New Vision of Communication as the Central Element in the Next-Generation Network, Frost & Sullivant.

[7]. IMS & the Future of Softswitches in Next-Gen Network, Heavy Reading, Vol. 4, No. 19, December 2006.

[8]. S. Marcus, Interconnection in an NGN Environment, ITU Background Paper, NGN/02, 23 March 2006.

[9]. ITU-T Recommendations Y.2001, General Overview of NGN, December 2004.

[10]  N. Morita, H. Imanaka, O. Kamatani, T. Oba, K. Tanida, Overview and Status of NGN Standardization Activities at ITU-T, NTT Technical Review.

[11]. International Telecommunication Union, http://www.itu.org

[12]. TISPAN, http://www.tispan.org

[13]. I. Gronbaek, NGN, IMS and Service Control – Collected Information, Telenor R&I Research Note, R&I N 31/2006.

Pháp luật giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam và một số nước trên thế giới (Bài 4)

Dương Quốc Huy, Nguyễn Thúy Quỳnh, Trần Hoài Văn

 1. Về cơ quan giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông

Cùng với những quy định trong Luật Cạnh tranh, Bộ luật tố tụng dân sự, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003, Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông (BCVT) và những văn bản hướng dẫn thi hành. Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam bao gồm: Tòa án, Trọng tài thương mại, Cơ quan quản lý (CQQL) cạnh tranh, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT). Tương ứng với bốn cơ quan này là bốn hình thức giải quyết tranh chấp: (1) Khởi kiện lên toà án giải quyết theo trinh tự tố tụng dân sự; (2) Yêu cầu trọng tài thương mại giải quyết; (3) Khiếu nại lên cơ quan giải quyết cạnh tranh; (4) Hiệp thương, giải quyết tranh chấp tại Bộ TT&TT.

Trong bốn cơ quan nêu trên, để đảm bảo tính độc lập, khách quan, chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết, thì Tòa án và Trọng tài thương mại là hai cơ quan đáp ứng được yêu cầu. Bộ TT&TT vừa là cơ quan hoạch định chính sách vừa là cơ quan thực thi chính sách. Còn với CQQL cạnh tranh (Hội đồng cạnh tranh, Cục quản lý cạnh tranh), là đơn vị chức năng thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương), do Thủ tướng quyết định thành lập, trên cơ sở đề xuất của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Vấn đề đặt ra là, hiện nay tại Việt Nam, cơ quan có đủ sự độc lập, khách quan về mặt tổ chức, nhân sự lại không có khả năng, kinh nghiệm và trình tự, thủ tục hợp lý để giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông, trong khi tổ chức hội tụ đủ hai yếu tố đó lại không độc lập khách quan về tổ chức, nhân sự.

Ảnh minh họa: zoriah

Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, mặc dù có thể là Tòa án, Trọng tài, CQQL cạnh tranh hay CQQL hành chính về Viễn thông có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kết nối, nhưng các cơ quan này, nhìn chung đều là những cơ quan có địa vị pháp lý cao, độc lập về tổ chức, tài chính và nhân sự. Tại Pháp, thẩm quyền giải quyết tranh chấp kết nối được trao cho một CQQL độc lập gọi là CQQL Viễn thông (ART). Ở Anh, Văn phòng quốc gia về Viễn thông (Oftel) là bộ máy tự trị được hỗ trợ tài chính bởi Phòng Thương mại và Công nghiệp (DTI), đồng thời cũng đảm trách luôn nhiệm vụ giải quyết tranh chấp kết nối. Bộ Quan hệ Công cộng và Viễn thông (Ministry of Internal Affair and Communications – MIC) là cơ quan giải quyết tranh chấp kết nối tại Nhật Bản. Tại Ấn Độ, trước năm 2000, cơ quan giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông được trao cho TRAI (Telecom Regulatory Authority of India) - CQQL hành chính trong lĩnh vực Viễn thông, sau năm 2000 quyền phán xét thuộc về một tòa án độc lập viết tắt là TDSAT (Telecom Dispute Settlement & Appellate Trubunal). Đối với Australia, Ủy ban Người tiêu dùng và Tranh chấp Australia (ACCC) là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông. Ủy ban này được Quốc hội duyệt kinh phí hoạt động hàng năm. Riêng Trọng tài, hầu hết các quốc gia đều cho phép tham gia giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông. Cùng với trung gian hòa giải (mediation), trọng tài được các quốc gia coi như một trong những cơ quan giải quyết mang tính bổ sung, thay thế (Alternative dispute revolution-ADR) hoặc kết hợp với cơ quan quản lý hành chính như trường hợp của Guantemala hay Singapore (đối với những tranh chấp kết nối không liên quan đến nhà cung cấp chủ đạo, Sigapore có thể coi như hợp đồng kinh tế, dân sự thông thường để giải quyết tại Tòa án hay trọng tài).

2. Về nhân lực tham gia giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông

Ngoài Bộ TT&TT, tất cả những cơ quan còn lại đều thiếu nhân lực đủ trình độ giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông, đặc biệt là kiến thức, kinh nghiệm về công nghệ thông tin và Viễn thông như: Thẩm phán, Kiểm sát viên, Trọng tài viên, Điều tra viên, người tiến hành tố tụng khác. Trong khi, nếu tòa cấp Huyện cũng có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp kết nối Viễn thông như hiện nay, thì chúng ta cần đến một số lượng tương đối thẩm phán chuyên xét xử về tranh chấp kết nối Viễn thông. Ngay các chuyên gia được giao nhiệm vụ giải quyết tranh chấp kết nối tại Bộ TT&TT, ngoài chuyên môn Viễn thông vững vàng, kiến thức pháp lý cơ bản cũng rất cần thiết. Ở đây, điều chúng tôi muốn bàn tới là, chúng ta đang thiếu những quy định liên quan đến tiêu chuẩn của nhân lực làm công tác giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông.

Tại Ấn Độ, tiêu chuẩn để một người được chọn vào phục vụ trong cơ quan giải quyết tranh chấp Viễn thông TDSAT phải là thẩm phán có kinh nghiệm (đương chức hoặc đã nghỉ hưu) tại Tòa tối cao liên bang hoặc chánh tòa Bang (đối với Chủ tịch), những cựu quan chức cấp cao trong chính phủ, có kiến thức và kinh nghiệm đồng thời trong lĩnh vực công nghệ Viễn thông, hành chính, thương mại và công nghiệp (đối với những thành viên còn lại).

Tại Australia, trong cơ cấu của ACCC có một nhóm chuyên gia về pháp luật và công nghệ Viễn thông (ACCC’s Telecommunication and legal group). Nhóm này chịu trách nhiệm hỗ trợ trực tiếp cho các Ủy viên (Commmisioners) trong việc điều tra, xác minh vụ việc và ra quyết định giải quyết. Tại Mỹ, trọng tài viên tham gia giải quyết phải là chuyên gia có kinh nghiệp về Viễn thông và am hiểu thủ tục giải quyết trọng tài của AAA, đồng thời đảm bảo tính độc lập, khách quan trong quá trình giải quyết.

Như vậy, yêu cầu chung về trình độ nhân lực tham gia giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông phải đảm bảo hai yếu tố tối thiểu, hiểu biết về Viễn thông và kết nối Viễn thông, nhưng cũng phải thông thạo những kiến thức pháp lý. Đây là đòi hỏi tất yếu khách quan tại Việt Nam, đặc biệt khi chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa Hội nhập như hiện nay với sự xuất hiện ngày càng phổ biết hơn các doanh nghiệp Viễn thông 100% vốn đầu tư nước ngoài.

3. Về thời hạn giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông

Trong lĩnh vực Viễn thông, kết nối mạng lưới là một trong những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cũng như tính liên tục, thông suốt của thông tin liên lạc. Đảm bảo sự thông suốt trong liên lạc Viễn thông một mặt bảo vệ quyền lợi chính đáng của người sử dụng (NSD), mặt khác còn liên quan mật thiết đến đời sống kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng của một quốc gia. Chính vì vậy, việc giải quyết tranh chấp phải đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời.

Về vấn đề này, trên thế giới hiện có hai xu hướng, xu hướng thứ nhất quy định rõ thời hạn tối đa để kết thúc giải quyết tranh chấp. Thời gian này là 6 tháng ở Pháp, 2-5 tháng ở Phần Lan, 10 tuần ở Đức, Tây Ban Nha là 6 tháng, Ấn Độ không quá 90 ngày .v.v… Xu hướng thứ hai, trao quyền ấn định thời gian giải quyết cho chính cơ quan có thẩm quyền giải quyết, điển hình cho xu hướng này là Australia. Tại Australia, ACCC được quyền quyết định tiến độ giải quyết trên cơ sở công bằng và hợp lý với từng vụ việc cụ thể.  

4. Về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông

Hiện nay, tại Việt Nam đang đồng thời tồn tại bốn trình tự, thủ tục có thể được áp dụng để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông, bao gồm: Tố tụng dân sự, tố tụng trọng tài thương mại, tố tụng cạnh tranh và thủ tục giải quyết quy định tại Pháp lệnh BCVT, Nghị định 160/2004/NĐ-CP và Quyết định 12/2006/QĐ-BBCVT. Điều này tạo ra sự đa dạng trong việc lựa chọn cách giải quyết, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các bên, mặc dù trên thực tế, chỉ có duy nhất trình tự quy định tại Nghị định 160/2004/NĐ-CP và Quyết định 12/QĐ-BBCVT được áp dụng giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông thời gian qua. Tuy nhiên, sự đa dạng về thủ tục cũng đặt ra một số vấn đề:

Thứ nhất, chúng ta cần một số lượng lớn những trọng tài viên, người tiến hành tố tụng có hiểu biết chuyên sâu về kêt nối và tranh chấp kết nối Viễn thông bên cạnh kiến thức pháp luật vững vàng. Điều này không thể thực hiện trong ngày một, ngày hai. Cử cán bộ đi đào tạo, thực tập tại nước ngoài hoặc một số công ty luật lớn, có uy tín trên thế giới trong lĩnh vực giải quyết, tư vấn về kết nối cũng là một giải pháp. Chủ trương và cũng là xu hướng phát triển của nhiều nước hiện nay trên thế giới là chỉ cấp phép một số lượng hạn chế các nhà cung cấp hạ tầng mạng, điều đó có nghĩa là số lượng những vụ tranh chấp kết nối thời gian tới chắc chắn sẽ còn tăng, nhưng cũng chắc chắn là không thể tăng quá nhiều. Thực tế này buộc chúng ta phải tính toán, cân nhắc kỹ liệu tập trung đầu tư vào một trình tự giải quyết hay vẫn để tồn tại cùng một lúc nhiều trình tự giải quyết như hiện nay. Cùng với sự tồn tại của nhiều trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, số lượng cơ quan có thẩm quyền giải quyết cũng phải được thành lập một cách tương ứng và như vậy thì kèm theo đó là trang thiết bị đặc thù và cơ sở vật chất v.v.

Trên thế giới hiện đang có hai trường phái tương đối rõ rệt trong việc xây dựng các văn bản pháp lý điều chỉnh quan hệ tranh chấp kết nối Viễn thông. Ở những quốc gia mạnh về đội ngũ nhân lực tham gia giải quyết các khía cạnh đặc thù có tính kỹ thuật cao của tranh chấp kết nối thì cho phép tồn tại cùng lúc nhiều trình tự pháp lý giải quyết khác nhau như: thương lượng, hoà giải, trọng tài, toà án, giải quyết thông qua CQQL.v.v... Điển hình cho nhóm quốc gia này là Anh, Mỹ và một số nước Bắc Mỹ khác.v.v… Nhưng cũng có quốc gia lựa chọn xu hướng ngược lại, đó là thành lập một cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông, điển hình cho xu hướng này là Singapore, Australia, Ấn Độ.v.v… Thực tế là, với đặc thù mang nặng chất công nghệ cao của tranh chấp kết nối, chỉ những chủ thể có đội ngũ nhân lực mạnh về kiến thức công nghệ, theo một trình tự, thủ tục đặc biệt mới đáp ứng được kỳ vọng của các bên trong tranh chấp.

Thứ hai, có hay không sự ưu tiên áp dụng một trong những trình tự này trước trình tự kia? Trên thực tế, xuất hiện không ít quan điểm cho rằng, trình tự giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông quy định trong Pháp lệnh BCVT là trình tự đầu tiên được ưu tiên áp dụng trong giải quyết tranh chấp kết nối. Thậm chí, có ý kiến cho rằng đây là trình tự duy nhất tại Việt Nam có thể áp dụng để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông. Rõ ràng là còn có nhiều cách hiểu không thống nhất, và nguyên nhân một phần được cho là do có nhiều trình tự giải quyết tranh chấp cùng môt lúc đều có khả năng điều chỉnh, trong khi giữa các Văn bản pháp luật không có quy định rõ về mối quan hệ này.

Thứ ba, đặc thù trong lĩnh vực Viễn thông đòi hỏi phải có những trình tự, thủ tục đặc biệt, không áp dụng chung với các tranh chấp thương mại thông thường. Việc áp dụng chung cả Tố tụng dân sự, tố tụng cạnh tranh sẽ dẫn đến những bất hợp lý. Ví dụ như:

- Trong tố tụng cạnh tranh, tố tụng dân sự có những quy định cho phép CQQL cạnh tranh chuyển hồ sơ đến cơ quan điều tra để xử lý hình sự nếu phát hiện thấy dấu hiệu tội phạm trong vụ tranh chấp đồng thời, bên vi phạm luôn đối mặt với nguy cơ bị xứ lý hành chính. Có thể những quy định này là phù hợp với các DN kinh doanh thương mại khác, nhưng trong lĩnh vực Viễn thông, những quy định như vậy, một mặt gây tâm lý e ngại cho các DN Viễn thông, mặt khác dẫn đến tình trạng “sứt mẻ”, thậm chí cắt đứt hẳn quan hệ giữa các bên tranh chấp kết nối, do đó không phù hợp với mục tiêu cần đạt được trong việc giải quyết tranh chấp kết nối, đó là: Hai bên hiểu biết và phối hợp, tạo điều kiện cho nhau một cách chặt chẽ hơn để đảm bảo tính thông suốt của thông tin liên lạc, bảo vệ quyền lợi chính đáng của NSD dịch vụ. 

- Theo quy định của Luật Cạnh tranh, Bộ luật tố tụng dân sự, những phần Quyết định giải quyết tranh chấp chưa có hiệu lực hoặc bị khiếu nại thì chưa được thi hành. Quy định này không phù hợp với lĩnh vực Viễn thông. Trong lĩnh vực Viễn thông, trước tiên phải đảm bảo liên lạc thông suốt, không bị gián đoạn, ngay kể cả trong giai đoạn giải quyết tranh chấp nguyên tắc này cũng không được phá vỡ. Quy định như Luật Cạnh tranh trên đây sẽ không đảm bảo được nguyên tắc kể trên.

- Nhiều chế tài xử phạt hành chính trong Luật cạnh tranh không phù hợp trong lĩnh vực Viễn thông như: Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; Tịch thu tang vật, phương tiện được dùng để vi phạm pháp luật cạnh tranh, thu hồi giấy phép .v.v…Việc tịch thu một tổng đài điện thoại, một hệ thống mạng lưới truyền dẫn giữa tổng đài và NSD trong một khu vực nào đó là điều không thể. Hơn nữa, để cơ cấu lại DN lớn trong lĩnh vực Viễn thông như VNPT không chỉ đơn giản thông qua một phán quyết của Cơ CQQL cạnh tranh. Đây là chiến lược của Quốc gia, liên quan mật thiết tới toàn bộ nền kinh tế cũng như an ninh, quốc phòng.

Kinh nghiệm một số nước cho thấy, bên cạnh tố tụng trọng tài, dân sự, cạnh tranh dành cho những tranh chấp thương mại thông thường, để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông, các nước thường xây dựng một trình tự, thủ tục đặc thù riêng.

Tại Mỹ, Hiệp hội trọng tài (AAA) và Hiệp hội Viễn thông, Internet (CTIA) đã cùng nhau xây dựng trình tự, thủ tục giải quyết riêng cho tranh chấp kết nối Viễn thông. Thủ tục giải quyết của AAA với tranh chấp kết nối Viễn thông chia làm 3 loại: 1/ Regular Track Procedures (áp dụng cho những vụ tranh chấp có trị giá từ 2000 usd -500,000usd); 2/ Fast Track Procedures (áp dụng cho những vụ tranh chấp có trị giá dưới USD 2,000); 3/ Large/Complex Case Track Procedures (áp dụng cho những vụ tranh chấp có trị giá dưới ít nhất từ USD 500,000). Mỗi loại này khác nhau về trình tự giải quyết, về trọng tài viên về việc xem xét lại phán quyết và về thời gian giải quyết.v.v…

Jordan cũng có những quy định tương tự trong pháp luật của mình. Năm 2003, Ủy ban quản lý Viễn thông Jordan (TRC) đã thông qua đạo luật giải quyết tranh chấp kết nối. Nhưng, thay vì quy định trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, đạo luật này lại nhằm đến những quy định hướng dẫn các bên tiến hành thỏa thuận bằng việc ban hành văn bản hướng dẫn: “Guidelines for negotiations between the parties or disputants in the dispute to propose a solution himself or by means of a mediator or persons appointed for this purpose..”. Theo quy định pháp luật Jordan, việc các bên tự thỏa thuận giải quyết tranh chấp kết nối trước khi trình vụ việc lên TRC là một thủ tục bắt buộc và trước khi thụ lý, TRC phải chắc chắn rằng, các bên đã qua thủ tục thỏa thuận này. Luật Jordan cũng quy định rõ việc cho phép các bên lựa chọn trọng tài thay vì TRC để giải quyết tranh chấp. Trường hợp vụ việc được trình lên TRC, TRC có thể sẽ ủy quyền, chỉ định cho một bên trung gian như chuyên gia, trọng tài khác để giải quyết vụ việc và chi phí này sẽ do các bên tự gánh chịu1. Tại Ấn Độ, Tòa án giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông (TDSAT) có đầy đủ thẩm quyền của một tòa án dân sự như lại không buộc phải tuân theo mọi trình tự, thủ tục chặt chẽ và dài dòng của Tòa dân sự mà chỉ phải tuân theo luật hợp lý, tự nhiên2.

Tại Australia, Quy trình giải quyết được quy định trong Trade Practice Act 1974 (sửa đổi năm 1997) và được bổ sung bằng Telecommunication Act 1997 và Telecommunication  Competition Act 2002. Trên cơ sở những đạo luật trên, ACCC ban hành những hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục để giải quyết một vụ tranh chấp Viễn thông. Theo đó, quy trình giải quyết được chia ra làm 3 giai đoạn. Trong giai đoạn thứ nhất (Preliminary phase), ACCC sẽ xác định những vấn đề nào là vấn đề trọng tâm của tranh chấp, bên tranh chấp bao gồm những ai, tìm kiếm, lựa chọn bên thứ ba hỗ trợ, tìm kiếm chuyên gia tư vấn thích hợp.v.v…Giai đoạn thứ hai (Substantive phase) ACCC bắt tay vào  xem xét từng vấn đề trong tranh chấp, tìm kiếm thông tin, kể cả thông tin do các bên cung cấp, tìm kiếm tư vấn của các chuyên gia.v.v…Giai đoạn cuối cùng (Determination phase): ACCC sẽ đưa ra quyết định giải quyết vụ việc. ACCC được giao toàn quyền trong việc quyết định thời gian giải quyết đối với từng vụ tranh chấp cụ thể trên cơ sở công bằng và hợp lý nhưng không quá 10 tuần. Quyết định giải quyết của ACCC có thể được xem xét lại nếu một trong các bên tranh chấp có đơn yêu cầu Tòa cạnh tranh liên bang (Australia Competition Tribunal) xem xét lại. Thời gian nộp đơn yêu cầu là trong vòng 21 ngày kể từ ngày có Quyết định giải quyết của ACCC. Tòa cạnh tranh quốc gia có thể xem xét và giải quyết lại vụ việc như ACCC. Ngoài ra, Quyết định của ACCC còn có thể bị kiện lên Tóa án liên bang trong vòng 28 ngày kể từ ngày có Quyết định của ACCC để được xem xét lại theo trình tự quy định tại Administrative Decision Act 1977. Tòa án liên bang không giải quyết lại vụ việc, chỉ xem xét quyết định của ACCC có tuân thủ đúng quy trình pháp lý hay không. 

Tại Việt Nam, hiện nay, thủ tục giải quyết tranh chấp trong Pháp lệnh BCVT, Nghị định 160/2004/NĐ-CP và Quyết định 12/QĐ-BBCVT được coi là thủ tục hợp lý nhất và cũng được các DN Viễn thông áp dụng nhiều nhất trên thực tiễn.

 

1 (ITU Jordan Mini Case Study 2003: Dispute Resolution and Consensus Building in Interconnection at http://www.itu.int/ITU-D/treg/Case_Studies/Disp-Resolution/Jordan.pdf).

2 (Tham khảo bài phát biểu của Mr. Justice D.P.Wadhaw, Chủ tịch của TDSAT ngày 2 tháng 12 năm 2004 tại Hội thảo khu vực châu Âu về giải quyết tranh chấp tổ chức tại Geneva).

Tài liệu tham khảo

[1]. Resolution of telecommunication access disputes - a guide, March 2004, Australia Compatative and Comsumer Commmision

[2]. ITU Jordan Mini Case Study 2003: Dispute Resolution and Consensus Building in Interconnection at http://www.itu.int/ITU-D/treg/Case_Studies/Disp-Resolution/Jordan.pdf.

[3]. Bài phát biểu của Mr. Justice D.P.Wadhaw, Chủ tịch của TDSAT ngày 2 tháng 12 năm 2004 tại Hội thảo khu vực châu Âu về giải quyết tranh chấp tổ chức tại Geneva).

[4]. Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003

[5]. Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2005.

[6]. Luật cạnh tranh năm 2005

[7]. Pháp lệnh Bưu chính viễn thông và các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh.

[8]. Pháp luật Viễn thông các nước: Australia, Anh, Mỹ, Canada.

[9]. Pháp luật kết nối Viễn thông Australia, Mỹ, Botswana, Phần Lan, Đức, Tây Ban Nha, Guantemala, Sigapore.

[10]. Dispute Resolution in the Telecommunications Sector: Current Practices and Future Directions, ITU-World Bank, 2004.

[11]. Reflections on Regulation and Dispute Resolution in the Indian Telecommunication Sector, Rory Mac Millan, Journal of the Indian Law Institute, Vol. 47:1 (2005).

[12]. Ban Giá cước – VNPT, Đề tài Khoa học cấp Tổng Công ty: “Xây dựng nội dung, quy trình đàm phán và mẫu thoả thuận cung cấp dịch vụ Viễn thông giữa Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam và các doanh nghiệp khác