Syndicate content

Tri thức chuyên ngành

Hệ thống kinh tế của dịch vụ nội dung di động 3G

Tóm tắt: 

Để có những giải pháp thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ nội dung 3G thì cần hiểu rõ sự vận hành trong hệ thống kinh tế của nó.

ThS. Nguyễn Anh Thư

Dịch vụ thoại đã trở nên bão hòa ở hầu hết các thị trường viễn thông trên thế giới. Do đó, dịch vụ nội dung được tất cả các nhà khai thác mạng di động (Telcos) coi là “cứu cánh” nhằm kéo lại doanh thu bình quân trên một thuê bao (ARPU). Dịch vụ nội dung đã được cung cấp trên nền công nghệ 2,5G nhưng bị hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Chỉ từ công nghệ 3G trở lên thì mới mở ra tiềm năng phát triển rộng lớn của dịch vụ nội dung di động (DVNDDĐ) nhờ khả năng truyền tải dữ liệu tốc độ cao.

Để có những giải pháp thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ nội dung 3G thì cần hiểu rõ sự vận hành trong hệ thống kinh tế của nó.       

I. Khái niệm, đặc điểm dịch vụ nội dung di động

Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật - công nghệ trong lĩnh vực thông tin liên lạc, sự hội tụ giữa các lĩnh vực viễn thông - công nghệ thông tin – internet – truyền hình - ... đã góp phần làm cho các dịch vụ viễn thông ngày càng trở nên phong phú. Chiếc điện thoại di động (ĐTDĐ) không còn chỉ đóng vai trò là một phương tiện liên lạc đơn thuần, với ưu điểm về tính di động, mà ngày càng được trang bị nhiều tính năng mới, giúp cung cấp những dịch vụ đa dạng, thú vị, tiện ích đáp ứng những mong mỏi của người sử dụng (NSD) như truy cập Internet, chat, tìm kiếm, tải – chia sẻ dữ liệu,.... Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra một vấn đề là phải xác định rõ các dịch vụ nội dung trong số vô vàn dịch vụ di động đang được cung cấp, từ đó làm rõ hệ thống kinh tế của nó.  

1. Khái niệm

Qua tìm hiểu cho thấy, trong văn bản phân loại dịch vụ viễn thông của Việt Nam (Nghị định 160/NĐ – CP ngày 03/09/2004 ”Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông”) chưa đề cập đến khái niệm DVNDDĐ, mà chỉ đề cập đến dịch vụ giá trị gia tăng (DV GTGT).

Theo Wikipdia thì nội dung di động được hiểu là bất kỳ dạng truyền thông (media), dữ liệu (data) nào được xem hoặc sử dụng trên ĐTDĐ như nhạc chuông, hình ảnh, trò chơi điện tử, phim,…

Với cách xác định như trên thì dịch vụ DVNDDĐ là việc sử dụng một  phương thức nhất định để có thể truyền tải những nội dung được chuẩn bị sẵn tới NSD ĐTDĐ thông qua mạng ĐTDĐ, nhằm mục tiêu thương mại (thu được lợi nhuận hoặc một loại lợi ích kinh tế nào đó, như mục tiêu quảng bá thương hiệu thông qua quảng cáo,...).

2. Đặc điểm của DVNDDĐ

Đặc điểm của DVNDDĐ có thể được làm rõ thông qua việc so sánh DVNDDĐ với các dịch vụ viễn thông khác, bao gồm:

So với dịch vụ viễn thông cơ bản

Sự khác biệt giữa DVNDDĐ và dịch vụ viễn thông cơ bản như thoại, fax,...là về mục tiêu và đối tượng tham gia quá trình truyền đưa thông tin. Cụ thể:

- Đối với các dịch vụ viễn thông cơ bản..., người tham gia vào quá trình truyền đưa thông tin đều là các cá nhân, những NSD ĐTDĐ. Mục tiêu truyền đưa thông tin chỉ là trao đổi tin tức.

- Đối với DVNDDĐ, một bên là NSD ĐTDĐ còn bên kia là nhà cung cấp nội dung. Mục tiêu của việc cung cấp nội dung là mục tiêu lợi nhuận, cung cấp nội dung để thu phí. Thông thường, NSD ĐTDĐ phải thực hiện thanh toán dưới một hình thức nào đó để được phép xem hoặc tải về những nội dung đó. 

So với các dịch vụ giá trị gia tăng khác trên mạng di động:

Khi truy cập trang web của các Telcos ở Việt Nam thì thấy các dịch vụ phi thoại đều được xếp vào nhóm dịch vụ giá trị gia tăng (DV GTGT). Tuy nhiên, có 2 điểm tạo nên sự khác biệt để xác định đâu là DVNDDĐ trong nhóm DV GTGT trên di động:

- Thứ nhất, nội dung phải được chuẩn bị, lưu trữ sẵn với mục tiêu đáp ứng một nhu cầu cụ thể nào đó của NSD di động về loại thông tin (nội dung) đó: Nhà cung cấp dịch vụ nội dung phải tạo ra một cơ sở dữ liệu (nội dung) để cung cấp cho thuê bao di động có nhu cầu sử dụng dịch vụ nội dung ở bất kỳ thời điểm nào mà họ có nhu cầu.

- Thứ hai, phải có người sở hữu nội dung đó như nhà soạn nhạc, hãng phim, hãng ghi âm, nhà sản xuất game,...

Với hai điểm nói trên, có thể xác định được đâu là dịch vụ nội dung trong số các DV GTGT khác trên ĐTDĐ. Ví dụ: dịch vụ nội dung là tải nhạc chuông, nhạc chờ, hình nền, tin tức,... còn dịch vụ GTGT là chat, chia sẻ dữ liệu, báo cuộc gọi nhỡ, lưu trữ danh bạ,...

So với các dịch vụ dữ liệu

DVNDDĐ là một bộ phận của dịch vụ dữ liệu trên mạng di động. Tuy nhiên, cũng căn cứ vào mục tiêu, đối tượng tham gia vào quá trình truyền đưa tin tức để phân biệt DVNDDĐ với dịch vụ dữ liệu.

- Nếu là quá trình trao đổi dữ liệu giữa hai NSD ĐTDĐ thì đó là dịch vụ dữ liệu nói chung, ví dụ dịch vụ SMS, MMS, chia sẻ video…

- Ngược lại, nếu NSD ĐTDĐ gửi yêu cầu về một nội dung cụ thể đến nhà cung cấp nội dung và nội dung được truyền đi trên mạng di động dưới dạng nội dung số (dữ liệu số) đến cho NSD và người sử dụng phải trả tiền thì đó mới là dịch vụ nội dung. 

Đối với việc xác định đặc điểm, nhằm xác định đâu là DVNDDĐ giữa một danh mục dịch vụ di động, có một số điểm cần chú ý khác là:

- NSD ĐTDĐ có thể có được nội dung như video clip, bản nhạc, tin tức,... để lưu trữ, sử dụng trên ĐTDĐ bằng nhiều cách thức khác nhau như tải từ internet xuống PC và copy vào ĐTDĐ thông qua thẻ nhớ, thông qua trao đổi bằng bluetooth giữa 2 ĐTDĐ,...Tuy nhiên, chỉ khi NSD gửi yêu cầu và nhận được nội dung đó thông qua mạng ĐTDĐ thì mới được coi là sử dụng DVNDDĐ.

- Cùng là thu thập được nội dung nhưng nhắn tin để nhận được thông tin (giá cả thị trường, kết quả xổ số, ...) thì là DVNDDĐ; nhưng cũng nội dung đó nếu được thu thập bằng công cụ tìm kiếm như Google Search hay OneSearch (Yahoo) thì lại không phải dịch vụ nội dung, mà bản thân nó là một DV GTGT độc lập, dịch vụ tìm kiếm. Điểm khác biệt chính là đối với dịch vụ nội dung, nội dung mà người sử dụng ĐTDĐ có được phải có người sở hữu, và NSD ĐTDĐ muốn có được thì phải trả tiền. Do đó, khi kết quả tìm kiếm là nội dung phù hợp với yêu cầu, mong muốn nhưng yêu cầu phải trả tiền để được quyền sử dụng và NSD ĐTDĐ chấp nhận thì khi đó, thuê bao di động đã sử dụng DVNDDĐ.

- Tuy nhiên, đôi khi, có thể tiếp cận dịch vụ nội dung dưới hình thức miễn phí hoặc thu phí tượng trưng. Mô hình kinh doanh của loại dịch vụ nội dung này là thu lợi nhờ quảng cáo: những người sở hữu/cung cấp dịch vụ nội dung cung cấp nội dung với mục đích thu hút càng nhiều người xem nội dung của mình càng tốt, sức thu hút của các trang cung cấp thông tin càng cao thì phí đặt các banner quảng cáo online càng cao hoặc thu phí dựa theo lượng người truy cập những nội dung quảng cáo đi kèm. Điển hình của cách thức hoạt động này là Google, Yahoo,...và những trang web chuyên cung cấp tin tức, bao gồm cả thông tin và giải trí như ngoisao.net, vnexpress,... Như vậy, đây cũng là dịch vụ nội dung, dù NSD không phải trả tiền cho nội dung sử dụng: dịch vụ nội dung được tài trợ bởi quảng cáo.

II. Các nhóm dịch vụ nội dung di động 3G

1. Phân loại DVNDDĐ

a. Phân loại theo giá trị nội dung đối với NSD

Với tiêu chí nói trên, có thể chia dịch vụ nội dung thành các nhóm chính sau  [3]:

- Dịch vụ nội dung liên quan đến lĩnh vực giải trí (entertainment): Nhóm DVNDDĐ này có thể được chia thành các nhóm như sau:

+ Tương tác (interactive): việc sử dụng nội dung có sự tương tác giữa các thiết bị của NSD như trong mobile games hay giải ô chữ (puzzles).

+ Có sự tham gia của NSD ĐTDĐ (Participatory): như bình chọn qua SMS (SMS voting), trả lời (comments) và điều tra, khảo sát (surveys) hoặc chia sẻ tệp (file sharing).

+ Cá nhân hoá (Personalization): việc sử dụng nội dung bộc lộ cá tính của NSD như nhạc chuông, logo, hình nền, biểu tượng,...

+ Tiêu dùng một cách thụ động (passive consumption): liên quan đến việc sử dụng các nội dung giải trí từ các phương tiện truyền thông đại chúng (conventional media) như nhạc, video clips, các chương trình tivi (mobile TV series),...

Việc truy cập phần lớn các nội dung nói trên được thanh toán hình thức trả theo từng lần tải (pay – per–download), cách thức tiếp cận nội dung có thể là dạng đẩy hoặc kéo.

- Dịch vụ nội dung liên quan đến thông tin (information): nội dung liên quan đến các thông tin đại chúng (public information) và các tin tức mới (news reporting), thường là tin tức trên báo chí, phát thanh và các bản tin trên tivi hoặc các chương trình giới thiệu sản phẩm, dịch vụ mới,....

NSD ĐTDĐ có thể tiếp cận các nội dung này theo hai cách:

+ Đẩy (Push): thông tin được cập nhật liên tục, định kỳ; bao gồm cả dịch vụ cung cấp tin tức độc lập như điểm tin, tin mới, tin nóng hàng ngày cũng như các tin tức ”không độc lập” như thu thập tin từ các báo chí, đài phát thanh, truyền hình.

+ Kéo (Pull): được cung cấp theo yêu cầu cụ thể của NSD tại những thời điểm khác nhau. Nội dung thông tin liên quan đến thông tin tìm kiếm như thời tiết, tình hình giao thông, tin tài chính, điểm sách hay phim ảnh, kịch, tin tức trên báo chí,...

Dịch vụ nội dung về thông tin trên ĐTDĐ được cung cấp dưới các dạng như tiêu đề (headlines) bằng SMS và MMS, thông báo tin tức (news alerts), tin ảnh (photo news), điểm tin dạng thoại (voice news reports), tải các video clips và audio.

- Dịch vụ nội dung liên quan đến marketing và quảng cáo (marketing and advertising): Thực chất, dịch vụ này cũng nhằm truyền tải thông tin đến NSD. Tuy nhiên, do mục tiêu đặc thù trong việc cung cấp thông tin (nội dung), nên tách thành nhóm riêng. Các nội dung liên quan đến thương mại được truyền tải tới NSD ĐTDĐ thông qua hai cách tương tự như đối với nội dung liên quan đến thông tin. Cụ thể:

+ Khi các nội dung quảng cáo được đưa đến NSD ĐTDĐ theo yêu cầu của các nhà tiếp thị thì đó là nội dung dạng Đẩy (Push): Quảng cáo được sản xuất dành cho ĐTDĐ như quảng cáo qua SMS hoặc MMS, các thông tin thương mại địa phương (location–aware commercial information,...) và các thông tin về các cuộc thi, khuyến mại,...

+ Ngược lại, có khi vẫn là nội dung quảng cáo nhưng do NSD ĐTDĐ có nhu cầu đặc biệt về loại thông tin đó (như chương trình khuyến mại của siêu thị, của một loại sản phẩm đặc thù nào đó,...) và có yêu cầu cung cấp thông tin đó thì đó là nội dung dạng Kéo (Pull): cung cấp nội dung theo yêu cầu như thông tin khuyến mại sản phẩm, dịch vụ (on–demand branded content promoting products or services) như về game, đố chữ, ...đặc biệt là tin tức liên quan đến những nhóm sản phẩm, dịch vụ (mobile media–related branding) như tin mới về dịch vụ, sản phẩm phần mềm và phần cứng,...hoặc một nhóm nhỏ cộng đồng người tiêu dùng quan tâm tới một sản phẩm cụ thể như Ferarri, Barbie, Disney,...

Như vậy, mặc dù không phải trả phí, nhưng căn cứ vào đặc điểm của dịch vụ nội dung thì thấy: thông tin liên quan đến marketing và quảng cáo trên ĐTDĐ vẫn có người sở hữu nội dung (thông tin) và nội dung đó vẫn được chuẩn bị sẵn với mục đích cụ thể là để cung cấp cho NSD ĐTDĐ theo các cách thức khác nhau.

Để có được những thông tin quảng cáo, marketing đặc thù, đôi khi NSD cũng phải trả phí. Khi thông tin quảng cáo, khuyến mại được một CP thu thập, phân loại và cung cấp thì nó trở thành dịch vụ nội dung liên quan đến thông tin. Khi đó NSD nội dung sẽ phải trả phí để có được nội dung đó. Bên cạnh đó còn có các dịch vụ như e-learning, y tế điện tử,…

b. Phân loại DVNDDĐ theo công nghệ cung cấp dịch vụ

Với mức độ phát triển công nghệ khác nhau nên khả năng cung cấp dịch vụ nội dung cũng khác nhau. Thế hệ công nghệ càng hiện đại thì số loại DVNDDĐ có thể cung cấp càng phong phú. Với tiêu thức này, DVNDDĐ có thể chia thành các nhóm DVNDDĐ 2G/2,5G; DVNDDĐ 3G;… Các DVNDDĐ 3G sẽ được làm rõ ở phần dưới.

2. Các nhóm DVNDDĐ 3G

Trên cơ sở khái niệm, đặc điểm dịch vụ nội dung di động, bảng 1 sẽ giới thiệu các nhóm dịch vụ có khả năng cung cấp trên nền công nghệ 3G và xác định các DNNDDĐ trong đó.

Bảng 1: Bảng tổng hợp các dịch vụ di động được cung cấp trên nền công nghệ 3G

STT

Nhóm dịch vụ

Ghi chú

I

Dịch vụ thoại

 

1

Điện thoại truyền hình (Video call)

3G

2

Truyền tải đồng thời âm thanh, dữ liệu (Rich Voice)

3G

3

Dịch vụ điện thoại hội nghị thấy hình (video conferencing)

 

II

Dịch vụ gửi tin nhắn

 

1

SMS

Đã cung cấp trên 2,5G

2

Nhắn tin đa phương tiện (MMS)

3G

3

SMS và MMS theo nhóm

3G

4

Tin nhắn nhanh (Instant Messaging)

2,5G

III

Dịch vụ định vị LBS (Location based service):

 

1

Tìm kiếm vị trí

3G

2

Danh bạ nâng cao

DV nội dung (DVND)

3

Tìm kiếm gần nhất

DVND

4

Điều khiển ô tô

3G

5

Hỗ trợ khẩn cấp trên đường

3G

6

Dịch vụ theo dõi từ xa

3G

III

Nhóm dịch vụ nội dung thông tin, giải trí

 

1

Dịch vụ nội dung thông tin

2,5G/DVND

2

Tải nhạc chuông, nhạc chờ, hình nền

2,5G/DVND

3

Dịch vụ xem video trực tuyến (video streaming), xem theo yêu cầu (video on demand-VOD), tải về (video downloading), tải nhạc (full track music downloading) cho phép tải trọn vẹn bài hát

3G/DVND

4

Truyền hình di động (Mobile TV)

2,5G/DVND

5

Trò chơi di động (Mobile Game)

2,5G/DVND

6

Quảng cáo di động (Mobile Advertizing)

3G/DVND

IV

Nhóm dịch vụ liên quan đến thương mại điện tử

 

 

Mobile banking, Mobile Payment

3G

V

Các dịch vụ hỗ trợ cá nhân

 

1

EMail

2,5G

2

Truyền tải dữ liệu trên thiết bị di động tốc độ cao 3G

3G

3

Sao lưu dự phòng dữ liệu

2,5G

4

Kết nối từ xa tới mạng Intranet (LAN)

3G

5

Fax to screen

3G

VI

Dịch vụ WAP/Truy cập internet trên điện thoại di động (Mobile internet)

2,5G

VII

Dịch vụ Tìm kiếm di động (Mobile Search):

2,5G

III. Hệ thống kinh tế của dịch vụ nội dung di động 3G

Việc cung cấp dịch vụ nội dung trên ĐTDĐ có sự tham gia của nhiều đối tác khác nhau. Việc phân loại các đối tác được căn cứ vào vai trò chức năng (functional role) mà họ thực hiện trong chuỗi giá trị. Chuỗi giá trị theo chức năng đó được mô tả trong Hình 1.

 
   

Hình 1: Các vai trò chức năng trong chuỗi giá trị cung cấp DVNDDĐ

Chức năng 1: Sở hữu nội dung (Content Ownership)

Người thực hiện chức năng là Người sở hữu nội dung (Content owners/Content Originators): là cá nhân hoặc tổ chức có quyền sở hữu nội dung số. Nội dung số bao gồm nhiều dạng như nhạc, trò chơi điện tử, hình nền,… do đó, người sở hữu nội dung có thể là nhà soạn nhạc, nhà văn, nhà xuất bản, nhà sản xuất âm nhạc, các chuyên gia hoặc các nhà nghiên cứu. Người sở hữu nội dung có thể chính là người tạo ra nội dung hoặc không. Ví dụ: Walt Disney, Sony Music,…

Chức năng 2: Thiết kế/phát triển nội dung (Design/Development)

Người thực hiện chức năng này là Người thiết kế, phát triển nội dung (Content Design/Development): Thông thường những nội dung có sẵn cần được thiết kế lại để có thể sử dụng trên ĐTDĐ. Do màn hình nhỏ hơn nhiều, khả năng xử lý hình ảnh kém hơn nhiều so với một chiếc PC nên một game có thể chơi trên PC cần được thiết kế lại cho phù hợp với khả năng và đặc tính của một chiếc ĐTDĐ. Đó là chức năng của nhóm đối tượng này. Ví dụ: American Greetings Interactive, Gameloft, Moket,…

Chức năng 3: Thu thập, phân phối nội dung (Publishing/Aggregation)

Thực hiện chức năng này là Nhà thu thập, phân phối dịch vụ nội dung (Content Aggregator/Distributors, Publishers): Trong nhiều trường hợp, những người sở hữu nội dung cũng như người thiết kế, phát triển nội dung không muốn hoặc không có có các kênh đủ khả năng phân phối nội dung của họ tới nhà khai thác mạng, do đó cần có sự tham gia của bên thứ 3 là nhà phân phối nội dung. Nhà phân phối nội dung thực hiện một số công việc sau:

+ Thu thập nội dung từ nhiều nguồn khác nhau, thực hiện sắp xếp, phân loại nội dung.

+ Kiểm tra để đảm bảo là những nội dung đó có thể hoạt động trên mạng di động và các loại ĐTDĐ.

+ Định giá và phân phối và quảng bá nội dung tới nhà khai thác mạng di động và những nhà cung cấp dịch vụ nội dung khác.

+ Thực hiện việc thanh toán với nhà khai thác mạng và thanh toán lại cho người sở hữu nội dung. Ví dụ: một content aggregator có thể mua bản đồ số chi tiết của thành phố từ rất nhiều nhà xuất bản khác nhau, thu thập thông tin về tình hình giao thông trong thành phố; sau đó, thiết kế một bản đồ về tình hình tắc nghẽn giao thông trong thành phố và những tuyến đường thay thế. Tức là những nội dung gốc sau khi được xử lý trở thành một sản phẩm thương mại, thành dịch vụ nội dung được cung cấp trên mạng di động. Ví dụ: Qualcomm BREW, Gameloft, Handago,…

Chức năng 4: Lưu trữ, xử lý yêu cầu về nội dung (Provisioning and hosting)

Người thực hiện chức năng này là Người cung cấp các nền tảng kỹ thuật (Provisioning and hosting providers/Platform Vendors): Đây là bước mà nội dung được thực sự chuyển tới NSD. Platform services được hiểu là các thiết bị và phần mềm mà cho phép cung cấp các dịch vụ cụ thể trên mạng, ví dụ như SMS platform, MMS platform. Trên diện rộng, hệ thống thiết bị, phần mềm này tạo thành mạng cung cấp nội dung (mạng CDN). Người thực hiện chức năng này là Platform vendors. Người thực hiện chức năng này cần có quan hệ chặt chẽ với hệ thống tính cước, và trong một số trường hợp, họ thực hiện luôn chức năng tính cước. Ví dụ: Qualcomm BREW, Motricity,…

Chức năng 5: Marketing/cung cấp nội dung (marketing/delivery)

+ Nhà khai thác mạng di động/Nhà cung cấp hạ tầng mạng viễn thông (Mobile network operators - MNOs): cung cấp phần mềm và phần cứng về mạng di động để cung cấp các dịch vụ thông tin liên lạc di động. Chất lượng quản lý mạng lưới được đánh giá thông qua chất lượng tín hiệu, mức độ thông suốt liên lạc, mất liên lạc,… Đối với việc cung cấp dịch vụ nội dung, nhà sở hữu mạng di động đóng vai trò thiết lập mạng, nội dung được truyền đi trên mạng lưới từ nhà cung cấp dịch vụ nội dung đến thuê bao di động có nhu cầu sử dụng dịch vụ.  

Ban đầu, nhà khai thác mạng di động là nguồn cung cấp các dịch vụ nội dung duy nhất cho khách hàng. Nói cách khác, việc cung cấp dịch vụ nội dung chịu sự kiểm soát, chi phối mạnh mẽ của MNO. Điều này đặc biệt mạnh ở Mỹ so với các khu vực khác. Mặc dù hiện nay có nhiều đối tượng khác đã tham gia vị trí này trong chuỗi giá trị thì nhà khai thác mạng di động vẫn đóng một vai trò quan trọng trong quá trình giúp người sử dụng biết về nội dung mới, sử dụng và thanh toán chi phí sử dụng nội dung.

Những đối tượng khác tham gia thực hiện chức năng này là:

+ Nhà sản xuất ĐTDĐ (Mobile handset manufacturers/Original Equiment Manufacturers (OEM): Các nhà sản xuất ĐTDĐ lớn ngày càng đóng vai trò tích cực trong việc phát triển các dòng sản phẩm ĐTDĐ giàu tính năng giúp thuê bao di động dễ dàng hơn trong việc sử dụng nội dung. Có thể kể đến các tên tuổi như Nokia với vô số dòng sản phẩm từ bình dân đến cao cấp, hay Apple với iPhone,…Các dòng điện thoại thường được cài đặt sẵn một số nội dung. Tuy nhiên, các nhà sản xuất ĐTDĐ muốn đóng 1 vai trò tích cực hơn trong việc cung cấp dịch vụ nội dung như Nokia đã trình làng Ovi (cổng cung cấp dịch vụ nội dung), thông qua đó, nội dung được cung cấp trực tiếp tới khách hàng sử dụng dòng điện thoại doanh nhân của Nokia (N-series). Bên cạnh nội dung chủ yếu hiện nay là âm nhạc, nội dung do Ovi cung cấp sẽ mở rộng, bao gồm cả những nội dung miễn phí do được quảng cáo tài trợ. Nokia cũng đã giới thiệu Nokia Content Discoverer (NCD), được cài đặt sẵn trên ĐTDĐ và có chức năng như một catalog của những nội dung sẵn có.

+ Các nhà bán lẻ độc lập (Independent retailers):

Khi dịch vụ nội dung mới ra đời, việc cung cấp DVNDDĐ hoàn toàn chịu sự kiểm soát của các nhà khai thác và họ chịu trách nhiệm thực hiện tất cả các công việc phân phối, tính và thu cước.

Khi số lượng thuê bao di động sử dụng dịch vụ nội dung tăng lên, thị trường mở rộng thì những người sở hữu nội dung cũng như những nhà cung cấp nội dung bắt đầu cung cấp nội dung trực tiếp tới các thuê bao, không qua nhà khai thác. Cách thức cung cấp dịch vụ nội dung của các nhà bán lẻ độc lập được goi là off-portal hay off –deck hoặc off–carrier portal. Khái niệm này được hiểu là họ cung cấp nội dung trực tiếp tới NSD, không thông qua cổng của nhà khai thác mạng di động. Một cách thức cung cấp dịch vụ nội dung off–portal phổ biến là thông qua dịch vụ nhắn tin đầu số ngắn (short message service codes). NSD có thể xem quảng cáo về dịch vụ trên tivi,.. và gửi một SMS đến đầu số SMS trong quảng cáo và sẽ nhận được nội dung do nhà cung cấp dịch vụ off-portal gửi trả lại, với phí sử dụng nội dung thường được tính kèm vào hóa đơn của NSD. Như vậy, nhà khai thác vẫn liên quan tới quá trình thanh toán nhưng không thể kiểm soát chất lượng của nội dung được cung cấp. Ví dụ: Verizon “Get it now”, Orange Music Store, Nokia Ovi, Handago,…

Tại Việt Nam, các đối tượng thực hiện chức năng 5, cung cấp nội dung tới NSD cuối cùng (thuê bao di động) được gọi là nhà cung cấp dịch vụ nội dung (Content Providers - CP). Theo đó, có 3 nhóm CP chính là:

- Nhà khai thác mạng di động (MNOs/Telcos)

- Nhà sản xuất ĐTDĐ (OEMs)

- Các nhà bán lẻ độc lập (Independent retailers), trong nhiệm vụ này gọi là các nhà cung cấp dịch vụ nội dung (CP).

Để phân biệt giữa các đối tượng trên, mặc dù cùng thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ nội dung, nhưng hai nhóm đối tượng trên vẫn được gọi theo chức năng, hoạt động chính của mình.

Có thể thấy, việc phân loại các đối tượng tham gia vào chuỗi giá trị cung cấp DVNDDĐ như trên cũng có tính chất tương đối, mỗi đối tượng có thể đóng nhiều hơn một vai trò trong chuỗi giá trị nói trên.

Trên đây là chuỗi giá trị tổng quát cung cấp DVNDDĐ, với các đối tượng tham gia được định danh theo chức năng chính (chức năng thường thực hiện). Tuy nhiên, trong thực tế, người ta thường sử dụng khái niệm CP và sub CP. Vậy những khái niệm này có liên quan hay tương ứng với những đối tượng nào trong chuỗi giá trị tổng quát nói trên?

Đứng từ góc độ Telco để giải quyết mối quan hệ với các đối tác, thì với các đối tác cung cấp nội dung có hai nhóm mối quan hệ sau:

- Thứ nhất, nội dung được cung cấp dưới thương hiệu của Telco. Telco thiết lập cổng cung cấp dịch vụ của mình và mua đứt nội dung về để cung cấp hoặc các đối tác muốn cung cấp dịch vụ nội dung trên cổng đó, dưới thương hiệu của Telco. Khi đó, Telco đóng vai trò là CP và các đối tác cung cấp nội dung chính là các sub CP. Các sub CP này có thể là nhà sở hữu nội dung, hay nhà thiết kế - phát triển nội dung hoặc nhà thu thập nội dung, thậm chí chính là các nhà cung cấp dịch vụ nội dung.

- Thứ hai, Telco thực hiện chức năng kiến tạo mạng di động, không thực hiện chức năng là CP, còn CP chính là các nhà bán lẻ độc lập. Khi đó CP lại có các sub CP. Cách thức cung cấp dịch vụ và hợp tác kinh doanh phổ biến là thông qua các đầu số ngắn, trên nền SMS.

Bài viết trên đây đã giới thiệu về hệ thống kinh tế cung cấp DVNDDĐ 3G, trong đó chỉ rõ các đối tác tham gia chuỗi giá trị. Có thể thấy, Telcos chỉ là một trong số nhiều thành phần trong hệ thống kinh tế nói trên. Do đó, để thúc đẩy sự phát triển, tạo sự phong phú về dịch vụ nội dung trên mạng 3G, Telcos cần hợp tác với nhiều loại đối tác khác nhau, xây dựng những mô hình hợp tác kinh doanh phù hợp...

Tài liệu tham khảo

[1]. ThS. Nguyễn Anh Thư (2009), Nhiệm vụ KHCN “Xây dựng mô hình hợp tác kinh doanh một số dịch vụ nội dung chủ yếu trên nền công nghệ 3G đối với VNPT”, Mã số 05 - VKT - 2009 - TTBH

[2]. Strategy Analytics (2008), Understanding the Mobile Ecosystem, A White paper prepared for Adobe Systems Incorporated

[3]. Sangeetha Krishman (2008), Content Aggregation in the Web 2.0 World, November 22, 2008

[4]. Juan Miguel Aguado & Inmaculada J. Martínez, (Universidad de Murcia), Massmediatizing Mobile Phones: Content Development, Professional Convergence and Consumption Practices.

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Kinh tế chuyên ngành
Các chuyên mục liên quan: 
Tri thức chuyên ngành

Bưu chính Việt Nam với nghĩa vụ đảm bảo chất lượng dịch vụ bưu chính công ích

Tóm tắt: 

Gánh vác trên vai nghĩa vụ to lớn nhưng cũng muôn vàn khó khăn, BCVN cần phải thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm đảm bảo nghĩa vụ đó, xứng đáng với sự tin tưởng từ phía Chính phủ và khẳng định vị thế hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bưu chính, chuyển phát tại Việt Nam.

ThS. Trần Thị Thập

Giới thiệu:

Tổng công ty Bưu chính Việt Nam (Bưu chính Việt Nam – BCVN) được thành lập theo quyết định số 647/QĐ-TTg ngày 01/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ. Lĩnh vực hoạt động chủ yếu của BCVN bao gồm: 1/ Quản lý mạng bưu chính công cộng; 2/ Cung cấp các dịch vụ bưu chính công ích (BCCI); 3/ Kinh doanh các dịch vụ bưu chính dành riêng; 4/ Kinh doanh các dịch vụ bưu chính, phát hành báo chí, chuyển phát, tài chính, ngân hàng; 5/ Tham gia các hoạt động cung cấp dịch vụ bưu chính quốc tế và các dịch vụ khác; 6/ Hợp tác với các doanh nghiệp viễn thông để cung cấp các dịch vụ viễn thông và công nghệ thông tin; 7/ Tư vấn, nghiên cứu, đào tạo và ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bưu chính. Trong đó nhiệm vụ quản lý mạng bưu chính công cộng và cung ứng dịch vụ BCCI được đặt trọng tâm hàng đầu.

Đối với nhiệm vụ cung ứng dịch vụ BCCI, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 65/2008/QĐ-TTg ngày 22/05/2008, theo đó Nhà nước đặt hàng Bưu chính Việt Nam cung ứng các dịch vụ bưu chính phổ cập, các dịch vụ bưu chính bắt buộc, phát hành báo Nhân dân, báo Quân đội nhân dân, báo do Đảng bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xuất bản và các nhiệm vụ công ích khác được Nhà nước giao.

Bên cạnh cơ chế đặc thù đảm bảo cung ứng dịch vụ BCCI như mức trợ cấp hàng năm của Chính phủ (giảm dần từ năm 2008, chấm dứt vào năm 2013) và qui định phạm vi dịch vụ dành riêng cho BCVN, Chính phủ cũng có những chế tài đảm bảo chất lượng các dịch vụ BCCI cung ứng cho người dân, cụ thể nhất là Quyết định số 50/2008/QĐ-BTTTT ngày 12/11/2008 ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dịch vụ bưu chính công ích”.

Gánh vác trên vai nghĩa vụ to lớn nhưng cũng muôn vàn khó khăn, BCVN cần phải thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm đảm bảo nghĩa vụ đó, xứng đáng với sự tin tưởng từ phía Chính phủ và khẳng định vị thế hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bưu chính, chuyển phát tại Việt Nam.

Tìm hiểu Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dịch vụ BCCI ban hành kèm theo Quyết định số 50/2008/QĐ-BTTTT ngày 12/11/2008

Về kết cấu, qui chuẩn kỹ thuật được chia thành 5 phần, bao gồm: (1) Qui định chung. (2) Qui định kỹ thuật; (3) Qui định về quản lý; (4) Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân; (5) Tổ chức thực hiện. Tại phần 2 - Qui định kỹ thuật nêu rõ các chỉ tiêu chất lượng dịch vụ BCCI, cụ thể là:

1. Khả năng sử dụng dịch vụ: Là tiêu chuẩn xác định mức độ tiếp cận dịch vụ của khách hàng. Chỉ tiêu qui định:

- Bán kính phục vụ bình quân trên một điểm phục vụ (tính bình quân trên toàn quốc): tối đa 3 km;

- Số dân phục vụ bình quân trên một điểm phục vụ (tình bình quân trên toàn quốc): tối đa 8.000 người­;

- Số điểm phục vụ trong một xã: tối thiểu 1 điểm phục vụ, tỷ lệ đạt chuẩn là 100% tổng số xã;

- Thời gian phục vụ các tại bưu cục giao dịch trung tâm tỉnh: tối thiểu 8 giờ/ngày làm việc,  tỷ lệ đạt chuẩn là 100% tổng số bưu cục;

- Thời gian phục vụ tại các điểm phục vụ khác: tối thiểu 4 giờ/ngày làm việc,  tỷ lệ đạt chuẩn là 100% tổng số điểm phục vụ.

2. Tần suất thu gom và phát: Là số lần mà BCVN tổ chức thu gom thư tại các điểm phục vụ và phát đến địa chỉ nhận trong một khoảng thời gian xác định. Chỉ tiêu qui định:

- Tần suất thu gom và phát: tối thiểu là 1 lần/ngày làm việc.

- Tại những vùng có điều kiện địa lý đặc biệt thì tần suất thu gom và phát tối thiểu là 1 lần/tuần. (Danh mục vùng có điều kiện địa lý đặc biệt áp dụng chỉ tiêu tần suất thu gom và phát tối thiểu 1 lần/tuần do Bộ Thông tin và Truyền thông quy định).

3. Độ an toàn: Là mức độ thư hoặc báo được phát đến địa chỉ nhận trong tình trạng nguyên vẹn, không bị hư hại, rách nát hoặc mất mát. Thư hoặc báo được xác định là mất khi không được phát đến tay người nhận hoặc được phát đến tay người nhận sau J+30.                      

Chỉ tiêu qui định:

Tỷ lệ thư hoặc báo được chuyển phát an toàn: tối thiểu 97% tổng số thư hoặc báo.

4. Thời gian toàn trình đối với thư trong nước: Là khoảng thời gian tính từ khi thư gửi trong nước được nhận gửi cho tới khi được phát đến địa chỉ nhận. Chỉ tiêu qui định:

- Thời gian toàn trình đối với thư gửi nội tỉnh: tối đa J + 2, tỷ lệ đạt chuẩn là 70% tổng số thư. (J + n : J là ngày nhận gửi; n là số ngày).

- Thời gian toàn trình đối với thư gửi liên tỉnh: tối đa J + 6, tỷ lệ đạt chuẩn là 70% tổng số thư.

5. Thời gian xử lý trong nước đối với thư quốc tế: Là  khoảng thời gian thư đi quốc tế hoặc thư quốc tế đến được xử lý trong lãnh thổ Việt Nam. Chỉ tiêu qui định:

- Thời gian xử lý trong nước đối với thư đi quốc tế: tối đa J + 5, tỷ lệ đạt chuẩn là 70% tổng số thư.

- Thời gian xử lý trong nước đối với thư quốc tế đến: tối đa 6 ngày, tỷ lệ đạt chuẩn là 70% tổng số thư.

6. Thời gian phát hành báo Nhân dân, báo Quân đội Nhân dân, báo do Đảng bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xuất bản: Là khoảng thời gian kể từ khi cơ quan báo chí giao báo cho BCVN cho đến khi báo được phát tới Uỷ ban Nhân dân xã, Hội đồng Nhân dân xã. Chỉ tiêu qui định:

- Thời gian phát hành báo Nhân dân, báo do Đảng bộ các tỉnh xuất bản đến Uỷ ban Nhân dân xã, Hội đồng Nhân dân xã: tối đa là 24 giờ, tỷ lệ đạt chuẩn là 90% tổng số xã.

- Thời gian phát hành báo Quân đội Nhân dân đến Uỷ ban Nhân dân xã, Hội đồng Nhân dân xã: tối đa là 24 giờ, tỷ lệ đạt chuẩn là 70% tổng số xã.

Một số kết quả tổng hợp về chất lượng dịch vụ BCCI qua các đợt khảo sát

Tính đến tháng 12 năm 2008, BCVN có:

- 18.554 điểm có người phục vụ (bưu cục, đại lý bưu điện, kiot, điểm Bưu điện Văn hóa xã), 14.763 thùng thư công cộng;

- 659 bưu cục khai thác (quốc tế, liên tỉnh, cấp 2, cấp 3);

- 5.205 đường thư (quốc tế, cấp 1, cấp 2 và cấp 3);

- 11.292 tuyến phát (thành phố, thị xã, trị trấn và tuyến phát xã)

Theo tính toán thì mạng lưới của BCVN có qui mô lớn, mức độ che phủ rộng và đảm bảo khả năng sử dụng dịch vụ của người dân ở hai chỉ tiêu cơ bản về bán kính phục vụ bình quân (2,39 km/điểm so với 3 km/điểm) và số dân phục vụ bình quân (4.380 người/điểm so với 8.000 người/ điểm) theo qui định. Tuy nhiên đối với các chỉ tiêu khác thì qua kết quả khảo sát thí điểm của Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện đối với một số tỉnh, thành cho thấy: Năm 2007 chỉ có 1/10 tỉnh đạt chỉ tiêu về độ an toàn; 2/9 tỉnh đạt chỉ tiêu thời gian toàn trình thư nội tỉnh. Năm 2009, chỉ tiêu thời gian toàn trình thư nội tỉnh trên địa bàn Hà Nội cũng chỉ đạt dưới mức qui định. Kết quả từ các cuộc khảo sát nói trên tuy chưa thực hiện theo số lượng mẫu qui định cũng như chưa toàn diện tất cả các chỉ tiêu chất lượng nhưng cũng phần nào phản ánh thực trạng chất lượng dịch vụ BCCI của BCVN.

Những nguyên nhân cơ bản khiến chất lượng dịch vụ BCCI của BCVN chưa được như mong muốn

Có rất nhiều nguyên nhân trong đó có thể nhận thấy một số nguyên nhân cơ bản dưới đây:

Thứ nhất là, tổ chức mạng lưới khai thác vận chuyển theo địa dư hành chính nhiều cấp

Với đặc điểm địa lý trải rộng, các bưu cục khai thác của BCVN hiện được bố trí theo khu vực và theo cấp hành chính huyện, tỉnh. Dưới các bưu cục này là bưu cục giao dịch và điểm phục vụ nên hành trình chuyển phát thư báo phải trải qua nhiều cấp (Hình 1). Hành trình vận chuyển xa nhất đối với thư nội tỉnh (từ bưu cục 3 đến bưu cục 3) phải qua 3 điểm trung gian. Tương tự là 5 điểm và 7 điểm đối với thư liên tỉnh cùng vùng và cách vùng. Nhiều cấp khai thác vận chuyển khiến cho thời gian chuyển phát bị kéo dài.

Hình 1: Tổ chức khai thác vận chuyển bưu chính

Thứ hai là, ý thức đảm bảo chất lượng dịch vụ BCCI chưa cao

Một số đơn vị bưu chính chưa xem trọng chất lượng đối với dịch vụ thư thường, giá rẻ. Xu hướng tập trung phát triển dịch vụ có doanh thu cao là đúng đắn, tuy nhiên việc xem xét hợp lý và năng động để phát triển dịch vụ có tính chất kinh doanh với dịch vụ công ích có thể gắn kết với nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển cần được quan tâm và coi trọng.

Về phía lao động sản xuất trực tiếp, do qui trình khai thác thư không có xác nhận giữa bưu điện và khách hàng khi nhận gửi và khi phát nên các khâu khai thác thường không chú trọng khai thác hết thư trong ngày. Tại chiều đi và khai thác quá giang, các thùng thư không được mở đủ số lần qui định, túi gói thư bị bỏ lại nhường ưu tiên cho các dịch vụ khác. Tại chiều đến, bưu tá và lực lượng phát xã thiếu trách nhiệm, nhiều trường hợp vứt bỏ thư để không phải đi phát, phát không hết thư đến trong ngày do ngại đường xa, hoặc nhờ người quen, trẻ em phát hộ. Bên cạnh đó, định biên lao động của bộ phận bưu tá chưa phù hợp cũng làm cho tâm lý của cán bộ, nhân viên khai thác bưu chính bị ảnh hưởng. Nhiều tuyến phát có khối lượng lớn nhưng được bố trí ít người khiến cho bưu tá tự cắt giảm công việc phải làm bằng cách bỏ tuyến, bỏ thư.

Thứ ba là, công tác kiểm tra, giám sát khai thác thư báo chưa được tổ chức một cách có hệ thống

Để đảm bảo chất lượng dịch vụ thì việc kiểm tra giám sát cần phải thực hiện tại từng khâu khai thác và theo nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Tuy vậy, chỉ có số ít đơn vị làm được điều này hoặc là không thực hiện, hoặc chỉ thực hiện rời rạc theo đợt cao điểm. Kiểm tra việc mở thùng thư chủ yếu bằng phiếu kiểm tra bỏ vào thùng thư để bưu tá mang về. Kiểm tra khâu phát thư thường sử dụng hình thức gắn phiếu kiểm tra vào mặt sau thư hoặc kiểm tra dấu ngày bưu cục nhận gửi, bưu cục phát  trên mẫu thư sống. Thông thường mỗi tỉnh kiểm tra một hoặc hai đợt trong năm.

Một số nguyên nhân khác:

- Hệ thống mã địa chỉ bưu chính chưa được triển khai trong cuộc sống làm hạn chế khả năng ứng dụng công nghệ trong khai thác.

- Phong bì thư không tiêu chuẩn dẫn tới tình trạng các thư có kích cỡ nhỏ bị thất lạc hoặc thư mỏng nhẹ bị kẹp dính nên lạc hướng.

- Hệ thống số nhà, đường phố chưa hoàn thiện hoặc thường xuyên thay đổi. Tình trạng nhà không số, phố không tên khiến bưu tá rất khó khăn phi phát.

- Áp lực giảm chi phí nhân công khiến cho các bưu điện tỉnh sử dụng nhiều lao động thuê ngoài, thời vụ. Những lao động này ngoài thù lao cố định ở mức thấp so với mặt bằng xã hội và thiếu cơ chế đặc thù để gắn trách nhiệm hoặc động viên khích lệ khiến cho họ không coi trọng, bỏ bê công việc.

- Các hộ gia đình, đặc biệt là tại khu vực thành phố, thị xã chưa có thói quen trang bị thùng thư báo khiến cho thư dù có được bưu tá mang phát nhưng vẫn phải nhét qua khe cửa hoặc quăng qua hàng rào dễ gây nên thất lạc…         

Các biện pháp khuyến nghị

Trên cơ sở nghiên cứu qui định về chất lượng dịch vụ BCCI, kết quả đánh giá sơ bộ chất lượng dịch vụ như đã nêu và thông qua tìm hiểu, phát hiện những nguyên nhân cơ bản ảnh hướng tới việc đảm bảo chất lượng dịch vụ, nhóm nghiên cứu xin đề xuất một số biện pháp được xem là cần thiết và cốt lõi để BCVN có thể đảm bảo được các yêu cầu về chất lượng dịch vụ BCCI của Chính phủ đề ra.

1. Rà soát và tổ chức lại mạng khai thác vận chuyển bưu chính

Thư, báo chí và các bưu gửi khác được vận chuyển bằng phương thức vật lý từ người gửi đến người nhận nên việc tổ chức mạng khai thác vận chuyển có ảnh hưởng rất lớn tới việc đảm bảo chỉ tiêu thời gian (thời gian toàn trình thư nội tỉnh, liên lỉnh, thư quốc tế đi và đến).

Việc tổ chức lại mạng khai thác vận chuyển bưu chính có thể thực hiện theo hai hướng sau đây:

Đối với khai thác vận chuyển cấp 1:

Xây dựng cơ chế linh hoạt tăng - giảm lượng nhân công khai thác, tăng - giảm tần suất chuyến thư hoặc điều chỉnh hướng chuyển nhằm lưu thoát kịp thời thư báo. Cơ chế này được vận hành trên cơ sở hệ thống báo cáo thống kê sản lượng thư báo đi và đến trao đổi giữa các trung tâm tỉnh với trung tâm khai thác khu vực.

Đối với khai thác vận chuyển trong nội bộ tỉnh:

- Tích nhập khai thác cấp 2 của một số huyện, theo đó thư và báo chí được đóng thẳng cho bưu cục cấp 2 của một huyện được chỉ định trong nhóm huyện gần nhau. Huyện được chỉ định có đủ điều kiện về giao thông để có thể tăng tần suất chuyến thư lên mỗi ngày 2 chuyến (chuyến thư tăng cường có thể sử dụng phương tiện xã hội để giảm chi phí).

- Dựa trên đặc thù thư chiều có thể giảm không qua chia chọn, thư báo chiều đến mới phải khai thác qua bưu cục cấp 2, các bưu điện tỉnh có thể tổ chức tiếp nhận thư chiều đi trực tiếp từ các thùng thư công cộng độc lập hoặc các bưu cục đến điểm giao nhận chuyến thư gần nhất mà không nhất thiết phải qua bưu cục cấp 2 thuộc huyện đó quản lý. Điều này đồng nghĩa với việc tổ chức lại mạng thu gom thư theo tuyến giao thông thuận tiện mà không theo địa bàn huyện như hiện nay. Bưu tá, giao thông viên của huyện này (có trao đổi 2 chuyến thư mỗi ngày) có thể mở lấy thư trên địa bàn huyện khác (có trao đổi 1 chuyến thư mỗi ngày), như vậy thư sẽ được chuyển đi nhanh chóng hơn.

2. Phân định trách nhiệm quản lý chỉ tiêu chất lượng dịch vụ BCCI

Trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu chất lượng của Chính phủ ban hành, BCVN chủ động xây dựng hệ thống chỉ tiêu nội bộ ở mức tiên tiến hơn các chỉ tiêu được giao, làm rõ và phân cấp quản lý các chỉ tiêu chất lượng này.

Tại cấp Tổng công ty quản lý các chỉ tiêu chung như bán kính phục vụ bình quân, số dân phục vụ bình quân trên cơ sở quản lý mạng bưu cục, điểm phục vụ. Tổng công ty cũng quản lý chỉ tiêu thời gian toàn trình thư báo dựa trên tổ chức mạng vận chuyển cấp 1 và giám sát đối với mạng vận chuyển cấp 2. Các chỉ tiêu toàn trình sẽ được phân chia thành chỉ tiêu từng công đoạn khai thác và giao cho các đơn vị trực thuộc quản lý.

Tương tự tại các bưu điện tỉnh, chỉ tiêu cũng có thể được bưu điện tỉnh quản lý chung (như thời gian khai thác chiều đi, đến trong toàn tỉnh) hoặc phân định cho bưu điện huyện, hoặc từng bưu cục (như chỉ tiêu thời gian mở cửa phục vụ, tần suất thu gom và phát).

Hệ thống chỉ tiêu chất lượng xuyên suốt từ trên xuống phải đảm bảo nhịp nhàng, ăn khớp với nhau. Người có trách nhiệm quản lý các chỉ tiêu này phải được đào tạo để thiết lập hệ thống cảnh báo vi phạm chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu chất lượng dịch vụ BCCI do BCVN xây dựng và áp dụng nội bộ phải được coi là các chỉ số hiệu suất cốt yếu (KPI) của toàn hệ thống khai thác bưu chính với các đặc điểm cơ bản là: được đánh giá thường xuyên; chịu tác động bởi điều hành quản lý cấp cao; đòi hỏi nhân viên phải điều chỉnh để đảm bảo hiệu suất; và có tác động tích cực đối với mọi hoạt động khác của tổ chức.

3. Giảm thời gian khai thác, chia chọn bằng cách tổ chức riêng thùng thư liên tỉnh, nội tỉnh và quốc tế

Tại những bưu cục có lưu lượng lớn cần thiết phải tổ chức thùng thư riêng với chỉ dẫn rõ ràng thùng thư nào là thùng thư liên tỉnh, thư nội tỉnh và thư quốc tế. Bên cạnh đó việc chỉ dẫn để khách hàng bỏ thư vào thùng thư theo một chiều, một mặt nhất định cũng cho phép giảm đáng kể thời gian khai thác thư của nhân viên khai thác.

4. Sử dụng lực lượng bên ngoài tham gia giám sát chất lượng dịch vụ

Sử dụng lực lượng bên ngoài để kiểm tra, giám sát là một trong những phương pháp quản lý chất lượng tương đối hữu hiệu được áp dụng tại nhiều doanh nghiệp, nhiều quốc gia trên thế giới. Trong lĩnh vực bưu chính, Liên minh Bưu chính thế giới (UPU) cũng đã cụ thể hóa phương pháp này thông qua chương trình kiểm tra liên tục (Continous Testing). Tại Việt Nam, bên cạnh việc sử dụng đội ngũ cộng tác viên tham gia hệ thống kiểm tra liên tục về chỉ tiêu thời gian đối với thư trong nước và quốc tế, lực lượng bên ngoài mà cụ thể nhất là khách hàng cần được khuyến khích giám sát các chỉ tiêu chất lượng dịch vụ BCCI khác dưới nhiều hình thức:

-  Khách hàng có thể được khuyến khích thông báo qua điện thoại đến với đơn vị quản lý về giờ mở cửa bưu cục, điểm phục vụ không đảm bảo như đã cam kết.

- Ủy ban Nhân dân xã được gửi bản thông báo thời gian phát báo đối với từng loại báo ngày, báo tuần…để cùng giám sát việc thực hiện.

- Các đợt ghi nhận và trao quà cho những ý kiến đóng góp về chất lượng dịch vụ BCCI cũng cần được tổ chức…

5. Gắn nghĩa vụ đảm bảo chất lượng dịch vụ BCCI với lợi ích có được từ việc nâng cao hiệu năng của hệ thống khai thác bưu chính

Đảm bảo chất lượng dịch vụ BCCI một mặt là nghĩa vụ của BCVN đối với Chính phủ và với người dân, mặt khác là cơ sở để nâng cao hiệu năng của toàn bộ hệ thống khai thác bưu chính. Một khi chất lượng dịch vụ BCCI được đảm bảo bằng hệ thống cung ứng dịch vụ rộng khắp và ổn định thì cơ hội phát triển các dịch vụ kinh doanh khác là hoàn toàn có thể. Dịch vụ gần nhất là dịch vụ Bưu phẩm không địa chỉ hoặc dịch vụ chuyển phát ấn phẩm, thư mời, quảng cáo. Bên cạnh đó khi chất lượng dịch vụ BCCI được đảm bảo thì sản lượng dịch vụ sẽ tăng để thông qua đó BCVN tận dụng năng lực của mạng lưới, tăng năng suất lao động, tạo thế và lực trên thị trường dịch vụ bưu chính, chuyển phát. Quan điểm này cần được quán triệt đến tất cả các cán bộ, nhân viên của BCVN.

Tài liệu tham khảo:

[1]. Quyết định số 65/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/05/2008.

[2]. Quyết định số 50/2008/QĐ-BTTTT của Bộ TT&TT ngày 12/11/2008 ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dịch vụ bưu chính công ích”.

[3]. Báo cáo hoạt động cung ứng dịch vụ bưu chính, chuyển phát của BCVN năm 2008 (báo cáo của BCVN với Bộ Thông tin và Truyền thông).

[4]. Tài liệu hội nghị tập huấn chất lượng dịch vụ bưu chính công ích.

[5]. Các website: www.ictqc.gov.vn, www.mic.gov.vn, www.vnpt.com.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Bưu chính
Các chuyên mục liên quan: 
Tri thức chuyên ngành

Các dịch vụ truyền hình mới

Tóm tắt: 

Hội tụ trong truyền thông đang mang lại sự tiện lợi và đơn giản hóa việc sử dụng dịch vụ cho người tiêu dùng và cho doanh nghiệp, mang lại cho họ những dịch vụ truyền thông tiện ích với chi phí thấp.

Nguyễn Minh

Cơ hội sáng tạo và phát triển

Hội tụ trong truyền thông đang mang lại sự tiện lợi và đơn giản hóa việc sử dụng dịch vụ cho người tiêu dùng và cho doanh nghiệp, mang lại cho họ những dịch vụ truyền thông tiện ích với chi phí thấp.

Xu hướng hội tụ kết hợp và nâng cao các thế mạnh đơn lẻ của các nhà khai thác cung cấp dịch vụ và đưa ra một loạt các dịch vụ truyền thông hội tụ đa phương tiện phong phú, mở ra các cơ hội cho sự sáng tạo và các giá trị khác biệt, đó chính là yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững của các nhà khai thác cung cấp dịch vụ, vượt qua những cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt của thị trường nhờ vào các cơ hội và hình thức kinh doanh mới, trong đó bao gồm kinh doanh dịch vụ truyền hình.

Ảnh minh họa: myhomebizwiz

Đối với người tiêu dùng, truyền hình giờ đây không chỉ là chiếc tivi nằm ở một góc nào đó trong ngôi nhà, người sử dụng dịch vụ có thể xem truyền hình với chiếc máy tính xách tay, với chiếc điện thoại di động và còn có nhiều dịch vụ âm thanh và hình ảnh khác đang dần trở thành những dịch vụ không thể thiếu trong cuộc sống của họ.  Đồng thời các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông và truyền hình luôn đưa ra những ứng dụng mới, tiện ích mới để hấp dẫn người sử dụng.  

Truyền hình di động

Dịch vụ truyền hình di động (Mobile TV) giúp cho khách hàng có thể xem được truyền hình (Tivi), xem phim ảnh theo yêu cầu (Video on Demand), thưởng thức ca nhạc theo yêu cầu trên điện thoại di động của mình.

Các dịch vụ này bao gồm nhiều thể loại phong phú, hấp dẫn và ngày càng phát triển như: truyền hình thời gian thực (Live TV); xem phim ảnh theo yêu cầu (Video On Demand) với hệ thống cung cấp các bộ phim truyện đặc sắc, chọn lọc, hấp dẫn cho phép khách hàng lựa chọn tìm kiếm xem các bộ phim yêu thích. Kho phim truyện sẽ luôn được cập nhật theo yêu cầu của người dung; nghe nhạc theo yêu cầu (Music on Demand): Kênh ca nhạc theo yêu cầu: Cung cấp các clip ca nhạc, bài hát mới, tìm nghe xem các bài hát bản nhạc ưa thích. Thư viện nhạc sẽ liên tục được cập nhật theo yêu cầu của khách hàng.

Truyền hình thời gian thực (Live TV)

Truyền hình thời gian thực (Live TV) là một ứng dụng mà người sử dụng có thể truy cập các nội dung về truyền hình thông qua mạng 3G. Luồng Video chất lượng cao thời gian thực có thể được phát thông qua dịch vụ Video Call trong mạng 3G  hoặc có thể thực hiện qua kết nối đến hệ thống WAP Portal.

Giải pháp dựa trên Menu cung cấp giao diện đơn giản và dễ sử dụng, định hướng đến một số kênh truyền hình, cho phép khách hàng lựa chọn kênh. Điện thoại di động của người sử dụng dịch vụ cần có tính năng như thiết bị điều kiển từ xa của TV thông thường. Để thuận tiện cho việc sử dụng dịch vụ, khách hàng sẽ thực hiện cuộc gọi Video đến một số tắt dễ nhớ.

Truyền hình tương tác (Participation TV)

Dịch vụ này cho phép khách hàng có thể tương tác với các chương trình truyền hình thông qua cuộc gọi Video. Khi thực hiện chương trình tương tác với truyền hình, hình ảnh của khách hàng sẽ được truyền hình trực tiếp trên màn hình TV. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt đối với một số nhóm khán giả. Một số triển khai thử nghiệm cho thấy dịch vụ này đem lại hiệu quả về mặt doanh thu.

Hình 1. Mô hình kết nối dịch vụ Truyền hình tương tác (Participation TV)

Nhật ký truyền hình (Video Blogging)

Khách hàng chỉ cần một máy điện thoại có camera và kết nối Video Call 3G bằng cách quay video call đến một số tắt và lựa chọn Video Blog menu. Khách hàng có thể chi sẻ Video cho người thân và bạn bè. 

Dịch vụ hộp thư truyền hình (Video Mail)

Tương tự như dịch vụ Voice Mail, dịch vụ Video Mail cho phép khách hang có thể chuyển cuộc gọi video vào hệ thống khi tắt máy hoặc ngoài vùng phủ sóng. Sau đó có thể truy cập lại vào hệ thống để nhận cuộc gọi video của mình.

Truyền hình quảng cáo (Video Push)

Dịch vụ truyền hình quảng cáo Video Push cung cấp cho khách hàng những thông tin cập nhật bằng Video chẳng hạn như: Bản tin tài chính, bản tin thời sự,… Khi khách hàng đăng ký sử dụng dịch vụ hệ thống sẽ khởi tạo một cuộc gọi Video đến máy của khách hàng. Nếu khách hàng bận, cuộc gọi sẽ được định tuyến vào hệ thống Video Mail và khách hàng có thể truy cập về sau. Có rất nhiều ứng dụng và dịch vụ có thể phát triển trên nền tảng của Video Push.

Dịch vụ hình ảnh và nhạc chờ đa phương tiện (Media RingBackTone)

Hình 2. Mô hình cuộc gọi hình ảnh và nhạc chờ đa phương tiện (Media RingBackTone)

 Quy trình thực hiện cuộc gọi Video RingBackTone như sau:

- Khách hàng có thể đăng ký dịch vụ hình ảnh và nhạc chờ đa phương tiện.

- Khi có cuộc gọi đến số điện thoại của khách hàng thì cuộc gọi sẽ được định tuyến đến hệ thống Video Ring BackTone thông qua Video Gateway. Người gọi đến sẽ nhận được Video Clip do khách hàng đăng ký dịch vụ đã chọn lựa trong quá trình thiết lập cuộc gọi. Khi cuộc gọi được thiết lập, Video Clip sẽ được giải phóng và cuộc gọi được kết nối.

Truyền hình giám sát (Video Surveillance)

Với dịch vụ truyền hình giám sát (Video Surveillance), các khách hàng có hệ thống IP camera có thể đăng ký với nhà cung cấp dịch vụ Video Surveillance và khách hàng có thể giám sát thông qua hệ thống Camera mọi lúc, mọi nơi. Đây là dịch vụ mang lại tiện ích cao và có nhiều tiềm năng.

Hình 3. Mô hình kết nối dịch vụ truyền hình giám sát

Một ứng dụng khác của dịch vụ truyền hình giám sát là Mobile Camera của  giúp cho khách hàng có thể xem được trạng thái giao thông tại các nút giao thông.

Dịch vụ này đã được triển khai tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, góp phần vào việc giải quyết ùn tắc giao thông đô thị.

Những ứng dụng khác

Cùng với việc triển khai các dịch vụ truyền hình trên nền mạng 3G, nhiều thể loại ứng dụng dịch vụ khác cũng đang được thử nghiệm và đưa vào áp dụng như: Các dịch vụ thanh toán (Payment) - cho phép khách hàng có thể mua bán thông qua tài khoản di động;  Các dịch vụ giao dịch ngân hàng, tài chính, chứng khoán: cho phép khách hàng có thể có thể mua bán trao đổi chứng khoán, vàng bạc trên các sàn giao dịch khắp thế giới; Các dịch vụ an ninh, bảo mật…

Tiềm năng của Việt Nam

Trong những năm qua, Việt Nam liên tục được các tổ chức quốc tế xếp hạng đứng trong top 20 về tốc độ phát triển viễn thông của các quốc gia.

Việt Nam đang sở hữu hạ tầng viễn thông hiện đại với đường trục truyền dẫn dung lượng cao, mạng viễn thông và Interrnet phủ rộng toàn quốc, một hạ tầng IP tiên tiến cùng các ứng dụng mới nhất dựa trên kiến trúc mạng thế hệ mới NGN và mạng thông tin di động 3G.

Một số dịch vụ hội tụ viễn thông và truyền hình đã được triển khai ở ViệtNam. Sự đa dạng và phong phú các thể loại dịch vụ mới đang mang lại cho người dùng những trải nghiệm thú vị.

Có thể nhận thấy một tiềm năng rất lớn trong việc phát triển các dich vụ truyền hình mới tại Việt Nam trong những năm tới nhờ mạng băng rộng di động.

Sự phát triển các dịch vụ viễn thông và truyền hình mới không những đem đến tiện ích cho người dùng, lợi nhuận cho các doanh nghiệp mà còn đóng góp vào sự phát triển của lĩnh vực ICT nói riêng và của xã hội nói chung.  

Tài liệu tham khảo

[1]. FlexiISN Service Awareness, Nokia Siemens Networks NSN course, 2008

[2]. 3GPP website www.3gpp.org

[3]. Dave Wissely, Philip Eardley and Louise Burness, IP for 3G Networking Technologies for Mobile Communication, John Wiley and Son 2002

[4]. 3G is Real, Qualcomm, December 2006.

[5]. 3G Network and Service, Presentation of  Ericsson, 2009.

[6]. 3G Service, Huwei Workshop, 2010.

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Phát thanh Truyền hình
Các chuyên mục liên quan: 
Tri thức chuyên ngành

Sưu tập tem kỷ niệm - một trong những sở thích phổ biến nhất trên thế giới

Tóm tắt: 

(ICTPress) - Sưu tập tem là một trong những sở thích phổ biến nhất trên thế giới hiện nay.

(ICTPress) - Sưu tập tem là một trong những sở thích phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Riêng ở Mỹ, số người sưu tập tem là khoảng 20 triệu người.

Con tem bưu chính đầu tiên, Penny Black, được phát hành ở Anh năm 1840 và đã ghi lại hình ảnh nữ hoàng Victoria thời trẻ. Số lượng các con tem kỷ niệm trên toàn thế giới đã lên đến hàng trăm tập và rất vô giá. Do đó những người sưu tập tem đã khoanh vùng phạm vi sưu tập của mình ở một số loại tem nhất định và một kiểu sưu tập tem phổ biến hơn cả là sưu tập tem kỷ niệm.

Ảnh: Stampuoso

Một con tem kỷ niệm được phát hành để vinh danh hay kỷ niệm một nơi chốn, sự kiện hay một con người. Hàng năm, bưu chính nhiều nước trên thế giới đã phát hành rất nhiều con tem như vậy, và thường xuyên tổ chức ngày phát hành đầu tiên ở những địa điểm liên quan tới các chủ thể của con tem.

Năm 1866, Vụ Bưu chính Mỹ, nay là Bưu chính Mỹ đã phát hành con tem được xem là con tem kỷ niệm đầu tiên của Mỹ - con tem về Lincoln trị giá 15 cent. Abraham Lincoln là người đầu tiên được vinh danh trên tem bưu chính Mỹ kể từ con tem đầu tiên được phát hành năm 1847. Công ty Tiền giấy Ngân hàng quốc gia đã in hơn 2.1 triệu con tem này.

Hiệp hội Tem Mỹ (APS) được thành lập năm 1886 để cổ vũ, hỗ trợ những người sưu tập tem. Hiện nay với 40,000 thành viên ở 110 nước, APS là một tổ chức phi lợi nhuận lớn nhất trên thế giới cho những người sưu tập tem. APS cung cấp một số dịch vụ và các cơ hội đào tạo cho phép các thành viên của mình tăng cường và nâng cao sở thích sưu tập đặc biệt này.

Fred Baumann là thành viên của APS đã 25 năm và gần đây là giám đốc quan hệ công chúng của tổ chức này. Vai trò của ông là thúc đẩy APS và các hoạt động của tổ chức, và sở thích chơi tem nói chung. Nhưng tem không chỉ là một công việc theo giờ hành chính đối với Baumann mà là sở thích của ông.

“Tôi thích thú sưu tập tem và thư sự kiện lịch sử, cũng như viết về những đề tài này. Tôi đã từng là biên tập viên của tờ tin tem của Linn từ năm 1987 đến 1988 và tại tờ Sưu tập Tem từ 1998 đến 2004. Tôi sưu tập tem Đức và trong gia đình tôi là người sưu tập thế hệ thứ ba, người đầu tiên là ông tôi. Tôi cũng sưu tậpBohemiavàMoravia,BosniavàHerzegovinavàDanzig, và tôi đã sưu tập 20 năm chuyên về lịch sử bưu chính thành phố Leipzig của Đức, cuối thế kỷ 15.

Baumann tin rằng sự phổ biến của việc sưu tập tem là nhờ khả năng tiếp cận của tem: “Nếu bạn có một thùng thư, bạn sẽ có một nguồn tem thư miễn phí, đã được sử dụng ở những lá thư được gửi đến. Những người sưu tập tem ở mọi lứa tuổi đã bắt đầu bằng việc nhúng nước những phong bì và tách những con tem ra.

Nhiều người sưu tập tem bắt đầu sở thích chơi tem chủ yếu từ những con tem kỷ niệm bởi vì nó xảy ra chưa quá lâu và có khả năng chi trả. Tuy nhiên, chi phí chỉ là một phần của sở thích. Những con tem kỷ niệm của Vương quốc Anh, Mỹ, Canada và nhiều nước khác rất rực rỡ, hấp dẫn và được thiết kế và in ấn kỹ lưỡng. Đó là những con tem nhỏ nhưng là những con tem sống động thể hiện những đại sứ của quốc gia và của nhân dân quốc gia đó.

Ngắm những con tem kỷ niệm phổ thông hơn Baumann cho biết thêm: “Ở Mỹ, con tem kỷ niệm về Elvis Presley được phát hành năm 1993 là con tem được nhiều người thích nhất từ trước tới nay với gần 125 triệu con đã được lưu giữ. Trên thực tế có một con tem kỷ niệm khác của Mỹ cũng rất nổi tiếng là con tem được phát hành để kỷ niệm 200 năm ngày sinh George Washington năm 1932 trị giá 2 cent, đã bán được 4.2 tỷ bản. Con tem này được nhiều người biết đến là do thiết kế sống động và được in trên nền tím khi cước thư trong nước tăng lên 3 cent vào cuối năm đó và hàng tỷ bản tem đã được bán vào những năm tiếp theo.

Bộ tem kỷ niệm lớn nhất đã từng được phát hành là bộ tem gồm 9 con tem được phát hành năm 1898 cho một cuộc triển lãm kỷ niệm việc khai khẩn vùng Tây nước Mỹ. Phần lớn những con tem này mô tả hoạt cảnh chiến thắng, trong đó có một người Anh điêng săn trâu từ trên lưng ngựa và một người lính cầm cờ và vẫy chiếc mũ trên đỉnh núi Rocky. Nhưng có một con tem giá 10 cent có tên “Những nỗi gian khổ của Sự di cư” - đã mô tả một cảnh di cư dữ dội, khốc liệt. Bộ tem đã giúp người xem hiểu được những thách thức giữa cái sống và cái chết mà những người khai hoang phải đối mặt”.

Ở nhiều nước đã có những cuộc tranh luận nóng bỏng về ai hay chủ thể nào sẽ được vinh danh trên tem bưu chính. Tiêu chí về chủ thể được vinh danh là rất khác nhau giữa các nước. Ví dụ ở Ấn Độ những con tem phần lớn là để kỷ niệm những cá nhân trong lĩnh vực chính trị, quân sự và tinh thần. Ở Vương quốc Anh và Canada, những con tem kỷ niệm thường là để kỷ niệm những nơi chốn hay những cá nhân bao gồm những công trình quan trọng, các viện và các tổ chức. Baumann kết luận: “Thời đại và khẩu vị đã thay đổi. Vương quốc Anh sản xuất ra con tem bưu chính gián keo đầu tiên trên thế giới vào năm 1840, nhưng đã không quan tâm đến việc vinh danh Shakespeare cho đến năm 1964. Nhưng vào năm 2005 nước này đã có những con tem chào mừng Thanh tra Morse, người muốn trở thành một triệu phú và chú gấu Paddington, nhân vật hoạt hình được rất nhiều trẻ em yêu thích.

Do đó làm thế nào để quyết định chủ thể nào hay nhân vật nào xứng đáng được vinh danh trên tem bưu chính? Ở Mỹ, Ban Tem được giao nhiệm vụ này. Các nhiệm vụ khác của ban này bao gồm đáp ứng các yêu cầu gửi thư từ catalog tem Mỹ, in và phân phối tem, và phát triển và sản xuất các sản phẩm tem. Bộ phận này cũng quản lý sự tham gia của Bưu chính Mỹ với APS và Hiệp hội đấu giá tem Mỹ.

Terry McCaffrey, giám đốc phát triển tem đã cùng làm với Bưu chính Mỹ gần 39 năm - trong đó 19 năm gần đây là ở Ban Tem. Ông là người thiết kế hình ảnh đầu tiên được Bưu chính Mỹ thuê và trong vai trò của mình là giám đốc nhiệm vụ chính của ông là theo dõi thiết kế các con tem bưu chính và đồ dung đi cùng tem. McCaffrey cũng theo dõi Ủy ban tư vấn tem của công dân (CSAC), là một cơ quan độc lập về các chuyên gia bên ngoài được Tổng giám đốc Bưu chính chủ định để xem xét và tập hợp những chủ đề và thiết kế tem bưu chính.

McCaffrey giải thích thêm: “Mỗi năm văn phòng của chúng tôi nhận được hơn 50.000 thư từ công chúng Mỹ liên quan đến tem và chủ đề tem. Trong số thư đó là hàng nghìn yêu cầu cho những ý tưởng tem mới. Công việc của tôi là đọc tất cả số thư này và xác định các chủ đề đáp ứng tiêu chí đã được CSAC đặt ra về chủ đề tem. Nếu chủ đề không đáp ứng được những tiêu chí này nó sẽ được xem xét trong quộc họp quý sau của CSAC. Việc xây dựng tem thông thường mất gần 2 đến 3 năm".

Các tiêu chí hướng dẫn chọn chủ đề tem của Bưu chính Mỹ:

- Một chính sách chung mà tem bưu chính Mỹ và những vật phẩm tem sẽ chủ yếu thể hiện các chủ đề liên quan đến nước Mỹ hoặc người Mỹ

- Người còn sống sẽ không được vẽ chân dung trên tem.

- Các sự kiện mang tính lịch sử sẽ được xem xét khi hơn 50 năm.

- Các con tem kỷ niệm hay các vật phẩm bưu chính vinh danh các cá nhân sẽ thường xuyên được phát hành hay liên quan đến những lễ kỷ niệm ngày sinh.

- Chỉ những sự kiện, con người và chủ đề mang tính quốc gia và tầm quan trọng sẽ được xem xét làm tem kỷ niệm.

- Không có con tem nào sẽ được xem xét phát hành nếu có một con tem cùng chủ đề đã được phát hành trong vòng 50 năm.

Một chủ đề đáp ứng và vượt qua những tiêu chí này là Elvis Presley. McCaffrey cho biết: Con tem này được phát hành năm 1993 và chưa con tem nào vượt qua con tem này vào thời điểm này - Elvis vẫn là vua. Mặc dù thậm chí không có cách chính xác nào chứng minh việc sở hữu chính xác những con tem này của những người sưu tập tem nhưng khoảng 125 triệu con tem Elvis đã được những nhà sưu tập và người hâm mộ sở hữu, thu được 26 triệu USD.

Tôi đã xem tất cả những con tem tôi đã được tham gia cùng với các con của tôi và tôi yêu từng con tem và từng kiểu của con tem. Tuy nhiên nếu tôi phải chọn một thì đó sẽ là con tem nửa bưu chính nửa từ thiện về chủ đề nghiên cứu ung thư vú (một con tem được phát hành để quên tiền cho một mục đích cụ thể, chẳng hạn như một việc từ thiện, và được bán cao hơn giá cước phí) được phát hành năm 1998. Ngoài một thiết kế tinh tế và một sự minh họa về một chủ đề khó về một chân dung sinh động, hình ảnh này đã tạo ra tiếng vang trong 10 năm qua và thu được 160 triệu USD cho nghiên cứu bệnh ung thư vú. Có nhiều thiết kế khác mà tôi đã rất thích thiết kế, minh họa hay chủ đề của nó nhưng tôi nghĩ con tem bán bưu chính về ung thư vú này là con tem quán quân ở tất cả các cấp độ”.

Một số người cho rằng tương lai của việc sưu tập tem là ảm đạm. Việc sử dụng Internet gia tăng đối với các nhu cầu bưu chính đang gây ra sự sụt giảm về lưu lượng thư và do đó tem ít được sử dụng hơn. Tuy nhiên, điện thoại là một sự thay thế cách mạng thư vật lý khi được xuất hiện vào thế kỷ 19 nhưng nó đã không chấm dứt việc gửi thư. Trên thực tế Internet đã mở ra các cơ hội mới cho sở thích này gồm cả việc nâng cao nhận thức của mọi người mà trước đây chưa làm được.

Nguyễn Đức

(Nguồn: Helen Norman, International Postal Technology)

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Bưu chính
Các chuyên mục liên quan: 
Tri thức chuyên ngành

IPTV và IPTV di động – Xu thế phát triển ở Việt Nam

Tóm tắt: 

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của số lượng thuê bao Internet băng rộng, các dịch vụ truyền hình IPTV và IPTV di động đã trở nên phổ biến ở một số nước trên thế giới và cũng đang phát triển ở Việt nam. Đó là một xu thế phát triển tất yếu của các dịch vụ thông tin truyền thông.

Quý Minh  -  Thanh Dương

CÁC ƯU THẾ CỦA IP TV

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của số lượng thuê bao Internet băng rộng, các dịch vụ truyền hình IP TV và IPTV di động đã trở nên phổ biến ở một số nước trên thế giới và cũng đang phát triển ở Việt nam. Đó là một xu thế phát triển tất yếu của các dịch vụ thông tin truyền thông.

IPTV là dịch vụ truyền hình số trên giao thức Internet (Internet Protocol Television). Vì dùng chung giao thức Internet, IPTV mang các đặc tính của Internet, với khả năng hội tụ, tương tác và cá thể hoá. Các dịch vụ IPTV cho phép các dịch vụ viễn thông và dịch vụ truyền hình hội tụ lại trên một hạ tầng truyền dẫn duy nhất. Do vậy, ngoài dịch vụ truyền hình, mạng IPTV có thể tích hợp nhiều dịch vụ đặc thù của mạng viễn thông như truyền tải dữ liệu băng rộng, Internet, điện thoại,… và có thể tích hợp cả các dịch vụ di động. Sự kết hợp Viễn thông - Truyền hình này còn cho phép hình thành các dịch vụ mới như truyền hình theo yêu cầu, điện thoại truyền hình…

 Hình 1. Mô hình các loại  mạng truyền hình

Không thụ động như truyền hình truyền thống, IPTV cho phép người dùng đặt lịch xem phim, xem truyền hình theo yêu cầu, không lệ thuộc vào giờ phát sóng, và thậm chí tham gia vào các chương trình truyền hình trực tuyến. Do đó nó thể hiện rõ tính tương tác cao. Đồng thời, nhờ khả năng tương tác những người dùng có thể đăng nhập hệ thống dịch vụ với các tài khoản khác nhau vào các không gian giải trí trực tuyến khác nhau và có thể tự do tuỳ biến giao diện khiến IPTV có khả năng cá thể hóa [1, 2, 3, 4, 5].

Với IPTV, khán giả có thể tuỳ ý yêu cầu, lựa chọn các nội dung muốn xem mà không lệ thuộc vào giờ phát sóng, với âm thanh, hình ảnh chất lượng cao, đồng thời có thể cung cấp không giới hạn các dịch vụ tương tác qua truyền hình như chăm sóc sức khoẻ tại nhà, học tập từ xa, mua sắm trực tuyến, giao dịch ngân hàng tại nhà, ...

Đây thực sự là một cuộc cách mạng về hạ tầng truyền thông - truyền hình, cho phép cung cấp các dịch vụ truyền hình kỹ thuật số hai chiều trên các hạ tầng mạng IP băng rộng như ADSL, FTTH, HFC, 3G, Wimax…. Việc hội tụ đa dịch vụ truyền thông trên một hạ tầng truyền dẫn duy nhất này được gọi là Multiplay. Những ưu điểm nổi bật kể trên khiến IPTV đã và đang dần trở thành một xu thế mới.

Hiệu quả kinh tế

Theo các số liệu nghiên cứu [4, 5], dự kiến đến năm 2013, doanh thu video trực tuyến là 31 tỷ đô la so với 2.1 tỷ đô la năm 2007 (ABI Research).

Cũng đến năm 2013, có 1 tỷ người dùng video trực tuyến từ con số 295 triệu người năm 2007 (ABI Research).

Các luồng VOD sẽ vượt con số 7 tỷ vào năm 2012, tăng 6 lần so với 2007; 55% số TV số sử dụng tại gia đình sẽ là HDTV vào năm 2012, tăng từ con số 34% vào năm 2007. Internet Video làm gia tăng băng thông với tỷ lệ tăng trưởng gộp hàng năm (CAGR) là 41%. Tới 2012, 90% lưu lượng Internet sẽ là video.

Hình 2: Truyền hình tương tác và video theo yêu cầu nhìn từ  phía người sử dụng

Nhu cầu và tốc độ phát triển của loại hình dịch vụ tích hợp viễn thông – truyền hình được dự đoán khá khả quan. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất được đặt ra hiện nay là làm thế nào để có thể triển khai IPTV ở quy mô lớn với chi phí thấp và phù hợp với những điều kiện đặc thù ở Việt Nam.

IP TV và IP TV di động ở Việt Nam

Cũng như tình hình chung ở nhiều nơi trên thế giới, việc phát triển các dịch vụ IPTV ở Việt Nam tương đối độc lập, thường chỉ giới hạn trong nội mạng, chưa thực sự định hình về tính tiêu chuẩn hoá cũng như về mô hình tổ chức triển khai dịch vụ ở quy mô lớn (liên kết mạng, liên thông dịch vụ,… trên đa dạng nền tảng mạng).

Do yêu cầu khắt khe của một mạng truyền hình chất lượng cao, các mạng dịch vụ IPTV thường phải là các mạng cam kết chất lượng theo mô hình cung cấp từ- đầu-cuối-đến-đầu-cuối (end-to-end). Bên cạnh đó, cùng với nhiều nguyên nhân từ bài toán kinh tế cục bộ, nên các giải pháp IPTV hiện nay thường có xu thế đóng kín với các công nghệ độc quyền, để có thể tối đa hoá lợi nhuận với đầu tư tối thiểu mà không phải quan tâm nhiều đến các tham số phức tạp của bài toán chung.

Tính cục bộ trong giải pháp và hiện trạng phân tán về tiêu chuẩn trên từng mạng dịch vụ riêng biệt (mạng đóng) dẫn đến hạn chế khả năng phát triển thuê bao (giới hạn trong nội mạng) và tăng chi phí cho thiết bị đầu cuối cũng như tăng chi phí phát triển thuê bao mỗi khi kết nối, mở rộng và khó khăn cho việc phối hợp chia sẻ dịch vụ giữa các nhà cung cấp do bị lệ thuộc vào các công nghệ độc quyền.

 Việc thiếu sự thống nhất các tiêu chuẩn tham chiếu chung cũng dẫn đến những hạn chế trong khả năng kết nối liên mạng dịch vụ, gây nhiều bất tiện cho người sử dụng, hạ tầng đầu tư chồng chéo gây nhiều lãng phí cho xã hội.

 Bên cạnh đó, việc tăng trưởng tối ưu lợi ích cục bộ mà không quan tâm đến bài toán tổng thể sẽ nhanh chóng tạo ra các mâu thuẫn và xung đột lợi ích với người tiêu dùng, đồng thời gây ra nhiều khó khăn trong công tác quản lý nhà nước. Về lâu dài, chính các nhà cung cấp dịch vụ cũng sẽ gặp nhiều khó khăn khi thị trường chỉ bó hẹp trong số thuê bao hiện có, với các dịch vụ tự phát triển hiện có.

Hinh 3. Mô hình triển khai đa  phương tiện gia đình (Home Media)

Công việc thiết lập các khung tham chiếu tiêu chuẩn chung cho một địa bàn rộng lớn ở tầm quốc gia và khu vực thông thường sẽ vượt ra ngoài phạm vi hoạt động của một doanh nghiệp đơn lẻ, mà thuộc về phạm vi của các cơ quan quản lý nhà nước, với những hoạt động hỗ trợ kỹ thuật của các dự án cấp quốc gia cùng sự tư vấn chặt chẽ của của các liên minh công nghệ lớn và sự phối hợp của nhiều doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông - truyền hình trên toàn quốc.

Cùng với việc hỗ trợ công tác quản lý nhà nước về kiểm soát và nâng cao chất lượng dịch vụ, việc thống nhất các mô hình triển khai với một khung tham chiếu chung cho phép các mạng dịch vụ có thể liên thông (roaming), làm giảm giá thành và nâng cao tiện nghi cho người tiêu dùng khi đăng ký và sử dụng dịch vụ.

Tại mỗi gia đình, toàn bộ các dịch vụ truyền thông giải trí, liên lạc, tự động hoá ngôi nhà,… được kiểm soát thông qua màn hình TV với một cổng truyền thông gia đình (Home Gateway). Đó là ý tưởng của một trong những chương trình KHCN trọng điểm cấp nhà nước về CNTT và Truyền thông giai đoạn 2006 – 2010 [6]. Chương trình nghiên cứu này cũng đề xuất một mô hình khung tham chiếu chung (Reference Framework) về Open IPTV và hạ tầng kỹ thuật tích hợp đa dịch vụ truyền thông trên nền IP (Multiplay) cho các nhà cung cấp hạ tầng và dịch vụ viễn thông - truyền hình tại Việt Nam.

Xuất phát từ việc nghiên cứu, phân tích các yêu cầu của người sử dụng dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ, và của hoạt động quản lý nhà nước, 2 khung tham chiếu chính đã được đề xuất. Đó là: HomeMedia® Framework  và  MPF® Framework.

+ HomeMedia® Framework: Khung tham chiếu cục bộ cho thiết lập một hạ tầng mạng tích hợp đa dịch vụ truyền thông tại một khu đô thị hay cụm dân cư.

HomeMedia® Framework tập trung vào môi trường truyền thông toàn diện trong các gia đình và quan hệ Doanh nghiệp-Người tiêu dùng (B2C) với các đặc tả mạng dịch vụ người dùng  và các mô tả cho phép thiết lập các mạng quy mô nhỏ có khả năng sẵn sàng liên thông (roaming) tới các mạng dịch vụ khác để phát triển thuê bao và chia sẻ nội dung/dịch vụ. 

 + MPF® Framework: Khung tham chiếu chung về kiến trúc mạng dịch vụ quy mô lớn, tập trung vào giao diện và mối quan hệ giữa các doanh nghiệp (B2B) nhằm tạo ra một thị trường chung từ khâu cung cấp nội dung, mạng truyền tải, tới người tiêu dùng trong trong một chuỗi cung ứng dịch vụ có quy mô toàn quốc.

Nhằm cân đối hài hoà tất cả các lợi ích có liên quan, MPF® Framework và HomeMedia®Framework đưa ra các điều kiện ràng buộc về phát triển hạ tầng trong một môi trường phát triển bền vững. 

Những ràng buộc này ban đầu cũng sẽ có thể gây ra những trở ngại nhất định đối với các nhà cung cấp dịch vụ, chủ yếu là xuất phát từ các yếu tố tâm lý. Tuy nhiên, vì mục tiêu cuối cùng của các khung tham chiếu này là để tạo ra một môi trường phát triển bền vững trong một tầm nhìn dài hạn, nên chắc chắn rằng các nhà cung cấp dịch vụ sẽ hưởng ứng một cách tích cực hơn khi nhận ra và đánh giá đúng về các lợi ích trong tầm trung và dài hạn.

HomeMedia® Solution là giải pháp về một hạ tầng tích hợp đa dịch vụ truyền thông cho các cụm dân cư và khu đô thị mới, được xây dựng dựa trên khung tham chiếu HomeMedia® Framework, hướng vào các tiện nghi truyền thông giải trí toàn diện cho các cộng đồng dân cư với các tiêu chuẩn quốc tế và phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Thông qua một mạng IP băng rộng (đến từ mạng viễn thông băng rộng hoặc cáp truyền hình), HomeMedia® Solution cung cấp nhiều tiện nghi truyền thông với đa dạng các dịch vụ hội tụ số cho mỗi gia đình. Chẳng hạn như: Các dịch vụ truyền thông giải trí nghe nhìn: Truyền hình theo yêu cầu và rạp hát gia đình;Nghe nhạc/Game theo yêu cầu…Các dịch vụ truyền thông liên lạc, internet và truyền số liệu: Chăm sóc sức khoẻ trực tuyến (Home-Care) và e-Learning; Điện thoại truyền hình và chia sẻ dữ liệu băng rộng; Gửi nhận email và duyệt web qua màn hình TV; Giao dịch thương mại trực tuyến và ngân hàng tại nhà…; Các dịch vụ tự động hoá ngôi nhà, camera giám sát, kết nối thiết bị gia dụng và các dịch vụ ngôi nhà thông minh khác; Cổng tích hợp truyền thông trong gia đình (Home Gateway)

Mô hình khung tham chiếu chung (Reference Framework) về Open IPTV và hạ tầng kỹ thuật tích hợp đa dịch vụ truyền thông trên nền IP (Multiplay) cho các nhà cung cấp hạ tầng và dịch vụ viễn thông - truyền hình tại Việt Nam đã được đề xuất. Đây là cơ sở để tiêu chuẩn hoá cho việc triển khai các dịch vụ IPTV ở quy mô lớn, trên phạm vi toàn quốc để có thể cùng tạo một nền tảng chung nhằm phát triển mạnh mẽ dịch vụ này ở Việt Nam.

Việc thống nhất các mô hình triển khai với một khung tham chiếu chung cho phép các mạng dịch vụ có thể liên thông, nâng cao chất lượng và giảm giá thành dịch vụ, điều đó mang lại nhiều tiện ích cho người sử dụng, lợi nhuận cho nhà cung cấp, đồng thời cũng hỗ trợ công tác quản lý nhà nước về chất lượng mạng và dịch vụ.

Hình 4. Triển khai IPTV

Tại thị trường Việt Nam, trong những năm qua số lượng thuê bao di động tăng lên rất nhanh. Tỷ lệ tăng trưởng của thị trường di động trong khu vực nằm ở mức cao nhất trên thế giới. Các dịch vụ thông tin di động ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành một phần tất yếu trong cuộc sống của người dân Việt Nam. Cùng với đó, một thành phần quan trọng không thể thiếu trong các dịch vụ thông tin di động đó là các dịch vụ giá trị gia tăng. Việc phát triển các dịch vụ nội dung cho phép các nhà khai thác mạng phối hợp cùng các nhà cung cấp nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đồng thời mang lại nguồn doanh thu lớn.

Hiện nay, cùng sự ra đời của các giải pháp cho mạng và dịch vụ 3G, với trọng tâm là triển khai các dịch vụ giá trị gia tăng truyền số liệu và các dịch vụ trên nền Internet, cơ hội thu hút và tăng trưởng nhảy vọt về doanh thu của các nhà mạng và các nhà cung cấp nội dung đã xuất hiện. Nhiều nhà khai thác có kinh nghiệm và có chính sách phát triển các dịch vụ giá trị gia tăng tốt có thể phát triển được tới trên 30% tổng doanh thu của mạng.

Các dịch vụ 3G và IP TV di động phổ biến nhất mà các nhà mạng tại Việt Nam hiện nay đang giới thiệu đến người dùng là:

- Cuộc gọi thấy hình (Video Call)

- Internet di động (Internet Mobile)

- Truyền hình di động (Mobile TV)

- Cmera di động

- Di động băng rộng (Mobile Broadband)

- Cổng thông tin Portal

-  Các dịch vụ nội dung khác: xem và tải clip về điện thoại, nghe và tải nhạc, game online…

Sự quan tâm chú trọng phát triển giá trị gia tăng đã và đang đem lại những kết quả khả quan minh chứng cho sự lựa chọn đúng đắn của các nhà mạng. Kết quả kinh doanh của các nhà khai thác viễn thông cho thấy: tỷ trọng doanh thu dịch vụ giá trị gia tăng trong tổng doanh thu của toàn mạng liên tục tăng cao. Con số tăng trưởng có thể lên tới 30%, thậm chí là 50%.

Lợi nhuận từ các dịch vụ giá trị gia tăng phát triển rất nhanh và điều đó khẳng định xu hướng của thị trường khi mà nhu cầu sử dụng các dịch vụ thoại đang chững lại và nhu cầu sử dụng các dịch vụ giá trị gia tăng đang tăng mạnh. Sự hội tụ, công nghệ 3G cùng với IP TV, IP TV di động …đã mở ra cơ hội lớn để phát triển mạnh mẽ các loại dịch vụ cho thông tin di động.

Tài liệu tham khảo

[1].“ FlexiISN and Core Network”, Nokia Siemens Networks, 2008

[2]. 3GPP website www.3gpp.org

[3]. Broadband - Network and Service, ZTI Training, 2010.

[4]. 3G Services,  Huwei Presentation, Sep 2010.

[5]. IP Trend, Cisco report, 2008.

[6]. Đề tài cấp nhà nước KC.01.14/06-10

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Viễn thông
Các chuyên mục liên quan: 
Tri thức chuyên ngành
Phát thanh Truyền hình

Một số vấn đề bảo mật cho IPv6 (IPv6 Security)

Tóm tắt: 

Bài viết này sẽ tập trung vào vài khía cạnh được nâng cao về mặt bảo mật của giao thức IPv6 so với IPv4 và các nguy cơ vẫn tồn tại đối với giao thức IPv6 mới này.

Đào Trung Thành 

Giới thiệu

Giao thức mới IPv6 (Internet Protocol version 6) có những cải tiến đáng kể, giải quyết nhiều vấn đề tồn tại về mặt bảo mật trong giao thức IPv4 cũ. Việc tích hợp giao thức IPSec (IP security) là bắt buộc trong IPv6, điều này khiến cho giao thức IPv6 trở nên an toàn hơn giao thức IPv4 cũ.

Tuy nhiên, bên cạnh tính mềm dẻo, giao thức IPv6 cũng đặt ra một số vấn đề bảo mật mới. Giao thức IP di dộng (Mobile IP protocol) được xây dựng trên giao thức IPv6 nhưng giải pháp cho vấn đề bảo mật của giao thức này vẫn đang được phát triển. Hơn nữa, tính năng mềm dẻo trong việc cấu hình động (Stateless Address Auto-Configuration) cũng gây ra vấn đề bảo mật nghiêm trọng nếu như thiết lập  cấu hình không đúng. Mặc dù về mặt tổng quan, giao thức IPv6 đã tăng cường bảo mật cho toàn bộ hệ thống mạng dựa trên TCP/IP nhưng kẻ tấn công vẫn có khả năng khai thác các phần khác trong giao thức.

Bài viết này sẽ tập trung vào vài khía cạnh được nâng cao về mặt bảo mật của giao thức IPv6 so với IPv4 và các nguy cơ vẫn tồn tại đối với giao thức IPv6 mới này.

Ảnh minh họa: pcworld.com

Giao thức IP thịnh hành là IPv4 được phát triển từ thập kỷ 1970. Giao thức này có nhiều giới hạn về không gian địa chỉ cấp phát và thiếu tính năng bảo mật. Vì vậy IETF (Internet Engineering Task Force) đã phát triển một phiên bản mới để khắc phục các khuyết điểm của phiên bản cũ đồng thời nâng cao hiệu suất, tiện lợi trong việc cấu hình, quản trị. Các chỉ tiêu kỹ thuật cơ bản của giao thức mới được đề cập trong nhiều RFC (Request for Comment) như  RFC  2460 [1]  (IPv6  Protocol),  RFC  4861 [2] (IPv6  Neighbour  Discovery), RFC  4862 [3] (IPv6  Stateless Address  Auto-Configuration), RFC  4443 [4] (Internet  Control Message Protocol  for  IPv6  (ICMPv6)), RFC 4291 [5] (IPv6 Addressing Architecture), and RFC 4301[6] (Security Architecture  for  IP or IPsec). IPv6 được coi như giao thức IP thế hệ sau (next generation IP - IPng). Có sự khác nhau rõ rệt giữa các header của IPv6 (Hình 1) và IPv4 (Hình 2).

Hình 1: Header của IPv6

 Hình 2: Header của IPv4

 Một số tính năng cải tiến tiêu biểu so với IPv4 được giới thiệu trong IPv6 như sau:

- Định dạng header mới

- Không gian địa chỉ lớn hơn (128 bit so với 32 bit của IPv4)

- Việc đánh địa chỉ và sử dụng trong hệ thống định tuyến có cấu trúc và hữu hiệu hơn

- Tự động cấu hình địa chỉ

- IP security bắt buộc

-  Hỗ trợ QoS (Quality of Service) tốt hơn

- Có giao thức tương tác với node lân cận (neighbouring node interaction)

- Khả năng mở rộng

 Từ các tính năng tiêu biểu trên, IPv6 đã cải thiện, nâng cao bảo mật so với IPv4:

Không gian địa chỉ lớn

Điều này khiến cho kỹ thuật quét cổng (port scanning) dùng bởi kẻ tấn công như là một công cụ tìm hiểu, thu thập mạng trở nên tốn kém, mất nhiều thời gian hơn. Ước tính mất khoảng 10 giờ với băng thông đủ rộng có thể quét toàn bộ không gian địa chỉ IPv4 (32 bit) để tìm các địa chỉ đang trực tuyến hay đang được sử dụng.  Thời gian dùng để quét sẽ gia tăng đáng kể khi không gian địa chỉ đã mở rộng từ 32 bit sang 128 bit. Đó thực sự là một rào cản với kẻ tấn công muốn thu thập các địa chỉ trực tuyến bằng phương pháp quét cổng. Tuy nhiên, không có sự khác về mặt kỹ thuật quét cổng trong hai giao thức IPv6 và IPv4 ngoại trừ một không gian địa chỉ cần quét quá lớn trong IPv6. Cho nên, các biện pháp phòng chống port scanning trong IPv4 như lọc (filter) địa chỉ nội mạng (internal- use address) ở bộ định tuyến ngoại biên hay lọc các dịch vụ không dùng tại các tường lửa (firewall) vẫn tiếp tục sử dụng trong mạng IPv6.

Địa chỉ được tạo mã hóa (Cryptographically Generated Address)

Trong IPv6, có thể tạo một khóa dùng làm chữ ký điện tử (public signature key) cho mỗi một địa chỉ IP. Địa chỉ này được gọi là  địa chỉ được tạo mã hóa CGA (Cryptographically Generated Address) [7]. Tính năng này gia tăng mức độ bảo vệ được dùng trong cơ chế phát hiện bộ định tuyến lân cận (neighbourhood router discovery mechanism) cho pháp người dùng cuối cung cấp bằng chứng sở hữu (proof of ownership) địa chỉ IP của mình. Tính năng này hoản toàn mới ở phiên bản IPv6 và nó đem lại các lợi điểm sau:

-  CGA khiến cho việc giả mạo (spoof) và đánh cắp địa chỉ trong IPv6 khó khăn hơn

-  Cho phép các thông điệp được đảm bảo tính nguyên vẹn bằng chữ ký điện tử

- Không yêu cầu phải nâng cấp hay thay đổi hệ thống mạng

IP Security

IP Security [8] hay ngắn gọn IP Sec cung cấp các dịch vụ mã hóa chất lượng cao, tương thích với nhiều hệ thống và hoạt động ở lớp IP (IP layer). IP Sec là tùy chọn trong IPv4 nhưng là bắt buộc trong IPv6. IP sec tăng cường tính năng bảo mật cho lớp IP nguyên thủy bằng cách cung cấp tính năng xác thực (authenticity), tính nguyên vẹn (integrity), tính bí mật (confidentiality) và điều khiển truy nhập (access control) thông qua việc sử dụng hai giao thức AH (Authentication header) và ESP (Encapsulating Security Payload).

Thay thế ARP (Address Resolution Protocol) bằng ND (Neighbourhood Discovery)

Trong IPv4, địa chỉ lớp 2 (L2) không được rằng buộc trực tiếp với địa chỉ lớp 3. Kết nối giữa hai địa chỉ L2, L3 này phải thông qua một giao thức tên là ARP (address Resolution Protocol). Giao thức này có nhiệm vụ ánh xạ địa chỉ L3 thành các địa chỉ L2 cục bộ tương ứng. ARP có nhiều vấn đề bảo mật trong quá khứ, như giả  ARP (ARP spoofing) chẳng hạn. Trong IPv6, ARP không cần thiết nữa bởi vì phần xác định giao diện ID (Interface Identifier) của địa chỉ L3 của IPv6 được suy ra trực tiếp từ L2 của thiết bị (MAC address). Địa chỉ L3 cùng với phần ID đặc trưng của thiết bị được dùng ở phạm vi toàn cục (global level) trong mạng IPv6. Kết quả là các vấn đề bảo mật liên quan đến ARP đã được giải quyết trong IPv6. Giao thức ND được mô tả trong RFC 4861 [2] (Neighbourhood Discovery) thay thế ARP trong IPv6.

Các tấn công ở IPv4 vẫn tiếp tục xảy ra tại IPv6

Mặc dù có nhiều tính năng bảo mật được tăng cường, nhưng IPv6 không thể giải quyết tất cả các tồn tại trong IPv4. Giao thức IPv6 không thể ngăn được các cuộc tấn công ở lớp trên lớp mạng (network layer). Các cuộc tấn công có thể là:

 -  Tấn công ở lớp ứng dụng: các cuộc tấn công ở lớp 7 mô hình OSI như tràn bộ đệm (buffer overflow), virus, mã độc, tấn công ứng dụng web,…

-  Tấn công brute-force hay dò mật khẩu trong các mô-đun xác thực

-  Thiết bị giả (rogue device) : các thiết bị đưa vào mạng nhưng không được phép. Các thiết bị này có thể là một máy PC, một thiết bị chuyển mạch (switch), định tuyến (router), server DNS, DHCP hay một thiết bị truy cập mạng không dây (Wireless access point),…

- Tấn công từ chối dịch vụ: vẫn tiếp tục tồn tại trong IPv6

- Tấn công sử dụng quan hệ xã hội (Social Engineering): lừa lấy mật khẩu, ID,email spamming, phishing,…

Chuyển tiếp từ IPv4 sang IPv6

Có nhiều công cụ cho phép ứng dụng IPv4 chạy trên mạng cung cấp dịch vụ IPv6 và ngược lại, ứng dụng IPv6 chạy trên mạng cung cấp dịch vụ IPv4. Tuy nhiên, kẻ tấn công có thể thực hiện việc khai thác lỗ hổng này nếu vấn đề bảo mật không được chú trọng, xem xét kỹ lưỡng.

Nhiều kỹ thuật cho phép chuyển tiếp lưu lượng từ hai mạng IPv4, IPv6 sang nhau như 6to4 (định nghĩa trong RFC 3056 [9]), Simple  Internet Transition (SIT) [10], và  IPv6 over UDP  (như là Teredo [11]). Trong các mạng chuyển tiếp lưu lượng IPv6 trên IPv4, nhiều tường lửa cho phép lưu lượng UDP đi qua, cho phép lưu lượng IPv6 over UDP xuyên qua tường lửa mà người quản trị không hề hay biết. Kẻ tấn công có thể lợi dụng các đường hầm 6to4 (6to4 tunnel) để lẩn tránh, vượt qua hệ thống phát hiện truy nhập trái phép IDS (Intrusion Detection System). Vài hệ thống tường lửa cũ chỉ cho phép lọc các lưu lượng IPv4 mà không có khả năng lọc các lưu lượng IPv6 và đơn giản là cho qua tất cả các lưu lượng IPv6 này. Do đó kẻ tấn công cũng có thế tận dụng các nhược điểm nêu trên để tấn công hệ thống bằng việc dùng các gói tin IPv6.

Đối với việc bảo mật của các máy chủ (host security), cần phải nhận thức rằng các ứng dụng vẫn tiếp tục bị tấn công, dễ bị tổn thương trong mạng hỗn hợp IPv4-IPv6 (IPv4-IPv6 mixed networks). Vì vậy nếu lưu lượng cần thiết bị chặn thì lưu lượng này nhất thiết cần bị chặn trên cả hai hệ thống IPv4 và IPv6 và trên tất cả các thiết bị bảo mật như tường lửa, IDS, VPN, etc.

Tóm lại, phiên bản mới của giao thức IP đã cải tiến nhiều tính năng bảo mật. Tuy nhiên, IPv6 cũng đặt ra các vấn đề bảo mật mới và cần phải được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện nhằm đáp ứng các áp lực gia tăng về an ninh, an toàn dữ liệu trong không gian điều khiển.

Tài liệu tham khảo

 [1]. http://tools.ietf.org/html/rfc2460

 [2]. http://tools.ietf.org/html/rfc4861

 [3]. http://tools.ietf.org/html/rfc4862

 [4]. http://tools.ietf.org/html/rfc4443

 [5] http://tools.ietf.org/html/rfc4291

 [6] http://tools.ietf.org/html/rfc4301

 [7] http://www.ietf.org/rfc/rfc3972.txt

 [8] http://tools.ietf.org/html/rfc4301

 [9] http://tools.ietf.org/html/rfc3056

 [10] http://playground.sun.com/ipv6/ipng-transition.html

 [11] http://www.microsoft.com/technet/network/ipv6/teredo.mspx

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
CNTT
Các chuyên mục liên quan: 
Tri thức chuyên ngành

Ngăn chặn truy cập nội dung xấu trên Internet

Tóm tắt: 

Internet mang lại rất nhiều tiện ích nhưng đồng thời cũng mang lại những hiểm họa, đặc biệt là từ những trang web có nội dung xấu. Làm thế nào để ngăn chặn việc truy cập những nội dung xấu trên Internet là vấn đề đang thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý và của cả xã hội ở Việt Nam nói riêng và ở nhiều quốc gia trên thế giới nói chung.

(ICTPress) - Internet mang lại rất nhiều tiện ích nhưng đồng thời cũng mang lại những hiểm họa, đặc biệt là từ những trang web có nội dung xấu. Làm thế nào để ngăn chặn việc truy cập những nội dung xấu trên Internet là vấn đề đang thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý và của cả xã hội ở Việt Nam nói riêng và ở nhiều quốc gia trên thế giới nói chung.

Hai chuyên gia nổi tiếng của Liên bang Nga trong lĩnh vực an ninh thông tin là tiến sĩ Igor Ashmanov và bà Natalya Kaspersky đã có một số hội thảo về chủ đề này tại Hà Nội. Bài viết giới thiệu một số nội dung đã được trình bày và bàn luận tại các hội thảo đó.

Kỷ nguyên kỹ thuật số

Trong kỷ nguyên mới của truyền thông kỹ thuật số, công cụ sử dụng để xây dựng các nội dung số có công năng ngày càng mạnh và có giá thành ngày càng rẻ. Internet cùng với các công nghệ mới, các phương tiện thông tin và truyền thông di động, đang tạo ra một hệ thống thông tin toàn cầu có khả năng tạo lập, chia sẻ và tham gia vào những gì đang diễn ra của cuộc sống, cho phép con người đưa tin tức, suy nghĩ, ý tưởng, hình ảnh đi bất cứ đâu, vào bất kỳ thời điểm nào. Hệ thống thông tin Internet bao gồm rất nhiều mạng máy tính của các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, chính phủ và người dùng cá nhân trên toàn cầu. Hệ thống này cung cấp một khối lượng thông tin và dịch vụ khổng lồ. Những người dùng Internet bình thường có thể công bố trực tuyến những tác phẩm của mình dưới nhiều hình thức, có cả âm thanh và hình ảnh, đó là một trong những lý do thúc đẩy sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các trang web cá nhân, các mạng xã hội...

Tờ báo tường đa quốc gia

Internet ngày càng trở nên gắn bó mật thiết với đời sống hằng ngày của tất cả chúng ta. Nhờ có Internet, mỗi cá nhân có thể trình diễn những tác phẩm của mình cho các độc giả trên khắp thế giới. Có thể hình dung Internet như một tờ báo tường khổng lồ, đa quốc gia; nơi mà bất cứ cá nhân hay tổ chức nào đều có thể tự do viết tin bài.

Đặc điểm của tờ báo tường đa quốc gia này là:

Số lượng người viết và nội dung cá nhân. Số lượng người viết đã lên tới hàng trăm triệu và con số này vẫn không ngừng tăng lên. Một số lượng rất lớn nội dung trên Internet được hình thành bởi những cá nhân cụ thể. Đó là nhật ký (blog), phương tiện truyền thông tư nhân, các trang web cá nhân trong các mạng xã hội v.v... Trong khá nhiều trường hợp, người viết trên Internet giấu danh tính thật của mình khi tham gia viết trên Internet.

Sự công khai nội dung và dễ dàng sao chép. Bất kỳ ý kiến, tác phẩm, văn bản, hình ảnh, video nào trên Internet đều có thể được truy cập dễ dàng và không hạn chế về đối tượng. Việc sao chép nội dung cũng rất dễ dàng với vài thao tác đơn giản như nhấp chuột hay bàn phím.

Dung lượng thông tin khổng lồ và  không có ranh giới địa lý. Hiện nay, theo các ước tính khác nhau dung lượng Internet toàn cầu là từ 50 đến 100 tỷ trang.

Trách nhiệm với xã hội

Cũng chính sự phát triển mạnh mẽ và rộng rãi của Internet, giờ đây tất cả những người sử dụng Internet đều biết rằng Internet mang lại rất nhiều tiện ích nhưng đồng thời cũng mang lại những hiểm họa, đặc biệt là từ những trang web có nội dung xấu. Ai sẽ chịu trách nhiệm về vấn đề này - đó là câu hỏi đang được đặt ra ở nhiều quốc gia.

Các nước Tây Âu và Mỹ: Các nhà cung cấp dịch vụ Internet chịu trách nhiệm cho việc truy cập hoặc cung cấp chỗ lưu trữ nội dung, và sẽ chấm dứt việc lưu trữ nội dung theo yêu cầu của tòa án hoặc cơ quan quản lý, các hoster được miễn trách nhiệm truy tố vì nội dung xấu.

Trung Quốc: Các ISP và các web-hoster chịu trách nhiệm về nội dung xấu trong các kênh truyền thông hoặc trên các máy chủ của mình. Điều này có nghĩa là các đối tượng này phải có nghĩa vụ thực hiện các hoạt động tìm kiếm những nội dung xấu này. Các nhà cung cấp dịch vụ hosting chịu trách nhiệm về nội dung cùng với các chủ sở hữu trang web và phải tự giám sát các nội dung được đăng tải trên hệ thống của mình. Tuy nhiên, chính phủ giúp giảm nhẹ gánh nặng giám sát nội dung của các hoster bằng cách cung cấp và thường xuyên cập nhật danh sách các “từ xấu” không được phép đăng tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng và cả các trang web. Danh sách này có thể được tải về từ website của chính phủ và người ta có thể sử dụng một phần mềm đơn giản để kiểm tra sự có mặt hay không của các “từ xấu” trên các trang web.

Một số nước Ả Rập: Các ISP đang bị buộc phải lắp đặt các bộ lọc mạng (tường lửa) cho phép ngăn chặn truy cập vào "website xấu".

Một số phương pháp ngăn chặn truy cập nội dung xấu trên Internet

Làm thế nào để ngăn chặn việc truy cập tới những nội dung xấu trên Internet đã và đang trở thành vấn đề được quan tâm không chỉ của các nhà quản lý, các chính trị gia, các doanh nhân mà là vấn đề của xã hội. Sau đây là nguyên lý, cơ chế hoạt động của các bộ lọc trang tin điện tử (web-filter) và một số phương án triển khai:

Ảnh minh họa: english.aljazeera.net

Nguyên lý và cơ chế hoạt động

Các bộ lọc trang tin điện tử được dùng để ngăn chặn người sử dụng Internet truy cập tới những nội dung xấu. Đứng từ góc độ người sử dụng, bộ lọc này giống như một web-proxy mà tất cả lưu lượng web phải đi qua. Bộ lọc phân tích và rút ra từ nội dung trang web những tổ hợp từ quan trọng, tính toán hệ số phù hợp và chủ đề của nó. Mỗi trang web đều được gắn với một hoặc nhiều chủ đề khác nhau. Bộ lọc thực hiện việc tự động phân loại các trang web, có nghĩa là nó nhận biết được nội dung của từng trang web.

Mỗi trang web được yêu cầu đều được kiểm tra sự xuất hiện của những nội dung không mong muốn. Sau đó hệ thống sẽ xem xét để ra quyết định – cho phép, ngăn chặn hiển thị trang web hay thực hiện những hành động khác (cảnh báo, chuyển hướng). Khi trang web được yêu cầu lại, bộ lọc không truy cập Internet nữa. Điều này giúp tiết kiệm băng thông cũng như đẩy nhanh tốc độ truy cập. Đối với mỗi người sử dụng hoặc nhóm người sử dụng, dịch vụ cho phép xây dựng các ”chính sách lọc”.

Tiêu chí lọc

Sau đây là một số tiêu chí trong việc lọc:  

- Trang web thuộc một chủ đề xác định

- Trang web thuộc một phân loại lĩnh vực xác định

- Trang web có chứa đường dẫn tới những địa chỉ xấu

- Trang web có chứa trích dẫn tới những nội dung xấu

- Trang web có quảng cáo ép buộc hoặc spam

- Trang web có chứa virus hoặc mã độc

Căn cứ trên các tiêu chí này, việc lọc sẽ được tiến hành theo một số quy tắc như: Chủ đề bị cấm, các website bị cấm, các loại giao thức bị cấm (video, torrents)... Cụ thể, một số biện pháp sẽ được thực hiện như: Cấm vô điều kiện, cho phép hiển thị trang web, cảnh báo người sử dụng, ngăn chặn/thay đổi một số thành phần trang web, hạn chế theo thời gian...

Các phương án triển khai:

Có 3 phương án triển khai việc lọc các trang tin điện tử, đó là: Bộ lọc web trung tâm; Bộ lọc cho doanh nghiệp (gateway, appliance) và Bộ lọc cho máy tính cá nhân.

Phương án 1: Bộ lọc web trung tâm

Cluster gồm hàng trăm/nghìn máy chủ, dùng để lọc nội dung của hàng triệu người sử dụng, bao gồm:

- Người dùng cá nhân,

- Người dùng là tổ chức (trường học, cơ quan nhà nước, các công ty);

- Các dịch vụ truy cập Internet đại chúng (ISP, Internet Café, quán Internet).

Với phương án này, nhìn từ góc độ người dùng, bộ lọc web giống như một web proxy duy nhất.

Một số thông số kỹ thuật được đưa ra để tham khảo cho phương án này:

- Hiệu suất cho một Node của cluster:  50Mbit/giây.

- Cấu hình: Cluster có cấu hình phân tán, các node của cluster độc lập với nhau.

- Cập nhật dữ liệu và phần mềm: tự động và độc lập, không ảnh hưởng tới hệ thống. Việc cập nhật nhiều lần trong một giờ.

- Dung lượng: Để lọc cho một triệu người dùng (10Gbit/sec) cần khoảng từ 150-200 server và các thiết bị mạng.

Phương án 2: Bộ lọc quy mô doanh nghiệp

Bộ lọc nội dung sử dụng cho mạng nội bộ của bất cứ một tổ chức nào.

- Thành phần: Máy chủ đặt tại cửa ra vào của mạng nội bộ của một tổ chức, hoạt động giống như proxy cho tất cả người sử dụng mạng doanh nghiệp; được quản lý bởi quản trị viên hệ thống.

- Hình thức cung cấp: Một máy chủ được cài đặt và cấu hình với đầy đủ các phần mềm cần thiết. Để hoạt động chỉ cần thực hiện việc cấu hình rất đơn giản và lựa chọn các chính sách lọc nội dung.

- Cập nhật phần mềm và dữ liệu tự động theo một lịch trình định trước.

- Dịch vụ có thể được thực hiện theo hình thức trả phí thuê bao hàng tháng (bao gồm giá thuê thiết bị và chi phí cập nhật phần mềm, dữ liệu).

Phương án 3: Bộ lọc cho PC

- Thành phần: Phần mềm dành cho các cá nhân, CSDL lọc được cập nhật từ hệ thống máy chủ trung tâm.

- Phần mềm được cài đặt cùng với máy tính mới khi xuất xưởng, hoặc phần mềm được bán với giá thành thấp để các đại lý bán hàng và người sử dụng cài đặt trước khi sử dụng.

- Việc phát triển và hỗ trợ cho một sản phẩm phần mềm riêng biệt như vậy cho các loại hệ điều hành khác nhau là một công việc khá phức tạp. Có thể thay thế bằng cách sử dụng dịch vụ bộ lọc web trung tâm với việc cấu hình lại proxy trên trình duyệt.

Kinh nghiệm thực tế

Kinh nghiệm thực tế triển khai tại Liên bang Nga và các quốc gia khác cho thấy mỗi nhóm người sử dụng có thể lựa chọn phương án triển khai và sử dụng những tính năng kỹ thuật của dịch vụ web-filter một cách phù hợp nhất theo nhu cầu của mình. Thời gian tới, phiên bản tiếng Việt của bộ lọc web sẽ có mặt tại Việt Nam, với các thiết kế được chỉnh sửa để phù hợp với cácđiều kiện Việt Nam. Điều đó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và làm lành mạnh môi trường Internet.

 Nguyễn Minh

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
CNTT
Các chuyên mục liên quan: 
Tri thức chuyên ngành

Các mạng riêng ảo hoạt động như thế nào?

Tóm tắt: 

Trong bài viết này, chúng ta sẽ xét tới một số các khái niệm cơ bản của VPN và tìm hiểu về các thành phần cơ bản của VPN, các công nghệ, bảo mật VPN và đường truyền dẫn.

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Tri thức chuyên ngành

LTE hay WiMAX sẽ thống trị công nghệ băng rộng?

Tóm tắt: 

Xét ở khía cạnh quy mô, LTE đang có nhiều lợi thế hơn WiMAX và thực tế nhiều nhà điều hành mạng WiMAX đang xem xét chuyển sang LTE.

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Tri thức chuyên ngành

Lựa chọn phần mềm tạo diễn đàn myBB, phpBB và vBulletin

Tóm tắt: 

Nếu không muốn phụ thuộc vào những dịch vụ tạo diễn đàn trực tuyến thì bạn có thể tự tay tạo ra một diễn đàn theo phong cách riêng, cùng với các gói mã nguồn diễn đàn.

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Tri thức chuyên ngành