Tri thức chuyên ngành
Thanh toán mua sắm nhờ công nghệ nhận dạng khuôn mặt
Submitted by nlphuong on Fri, 26/07/2013 - 06:40(ICTPress) - Nếu bạn ở Helsinki không điện thoại hay ví, điều này không ngăn bạn đi mua sắm.
(ICTPress) - Nếu bạn ở Helsinki không điện thoại hay ví, điều này không ngăn bạn đi mua sắm.
Công ty Uniqul của Phần Lan đã đăng ký bản quyền và kiểm thử một hệ thống thanh toán mới cho phép bạn thanh toán hóa đơn bằng khuôn mặt của bạn. Bạn có thể thanh toán tại nhà ga hay trung tâm mua sắm mà không phải rút thẻ tín dụng, thay vào đó bạn nhìn vào chiếc máy ảnh và đợi cho đến khi chiếc máy nhận ra. Sau đó, chiếc máy đưa ra các thông tin của bạn, bạn bấm ok và thanh toán sẽ được hoàn tất.
Diex nhiên là Uniqul sẽ phải lưu giữ thông tin thẻ tín dụng của bạn. Tuy nhiên, theo Fast Company, Uniqul cho biết dữ liệu được bảo bảo vệ bởi mã hõa “cấp quân sự”.
Uniqul đã trải qua nhiều cấu trúc phí khác nhau và cho phép người sử dụng thanh toán với PayPal hoặc các thẻ tín dụng thông thường. Các kế hoạch thanh toán được chia theo khoảng cách. Cấp đầu tiên được cho là mất 1 USD/tháng và mở rộng phạm vi đến 1 – 2 km từ một điểm người sử dụng chọn. Cấp thứ 2 tốn hơn 9 USD/tháng và bao phủ phạm vi lớn hơn. Các cấp độ phụ thuốc vào số terminal ở khu vực và phạm vi rộng hơn thì giá cao hơn. Dịch vụ dự định sẽ tung ra ở Helsinki sớm.
Nếu công nghệ nhận dạng khuôn mặt chưa có, thì có thể sử dụng công nghệ nhận dạng vân tay hiện đã phổ cập.
Cách sử dụng các tab mới trong Gmail
Submitted by nlphuong on Wed, 24/07/2013 - 06:20(ICTPress) - Hộp thư Gmail lại thay đổi. Làm cách nào để các tab để phù hợp với bạn - nếu bạn thực sự không thích diện mạo mới - thì làm cách nào để hủy các tab này.
(ICTPress) - Hộp thư Gmail lại thay đổi. Để giúp bạn tìm hiểu các thay đổi này, dưới đây là những chi tiết về các tab mới được được tùy biến của dịch vụ thư điện tử này.
Được thiết kế để làm cho hộp thư của bạn được thuận tiện hơn, các tab tổ chức thư đến theo tiêu chí, cho phép bạn thoáng qua đã có thể xem những thư nào mới.
Dưới đây là những giải thích các tab mới, làm cách nào để các tab để phù hợp với bạn - nếu bạn thực sự không thích diện mạo mới - thì làm cách nào để hủy các tab này.
Tổng quan các tab mới của Gmail
“Chúng ta có rất nhiều loại thư: thư từ bạn bè, các thông báo xã hội, các hợp đồng và yêu cầu, thư khẳng định và biên nhận,…”, Giám đốc sản phẩm của Google Itamar Gilad đã viết trên một đăng tải blog khi hộp thư Gmail mới được tung ra.
“Tất cả những thư điện tử mới này có thể cạnh tranh lôi kéo sự chú ý của bạn và làm bạn khó tập trung vào những việc bạn cần thực hiện. Đôi khi nóp giống như việc các hộp thư đang kiểm soát chúng ta, chức không phải thứ gì khác”, Itamar Gilad cho biết.
Để giảm sự phức tạp của hộp thư, Gmail đã chia hộp thư thành các “tab” logic tách các thư được gửi đến thành các tiêu chí. Bấm vào từng mào đầu tab để nhanh chóng thấy những gì là mới.
Các tab mới
Có 5 tab mới, được mô tả dưới đây theo từ ngữ của Google:
Primary (thư chính): thư từ từ bạn bè và gia đình, cũng như các thư khác không xuất hiện trong các tab khác.
Promotions (thư quảng cáo): Các hợp đồng, các yêu cầu và các thư điện tử quảng cáo khác.
Social Messages (thư xã hội): từ các mạng xã hội, các trang chia sẻ truyền thông, các dịch vụ hẹn hò trực tuyến, các nền tảng chơi game và các trang web xã hội khác.
Updates (nội dung cập nhật): các thông báo nhưng khẳng định, biên nhận, hóa đơn và thông báo.
Forums (các diễn đàn): thư từ các nhóm trực tuyến, các ban thảo luận và danh sách gửi thư.
Các lựa chọn tùy biến
Khi hộp thư mới triển khai đến cho bạn, hộp thư sẽ triển khai các tab cố định - thường có "Chính", "Xã hội" và "Quảng cáo".
Bạn có thể biên tập các tab để hiển thị các tiêu chí bạn thích. Để làm việc này bấm vào ký hiệu "+" bên phải các tab mới để hiển thị menu “pop-up”.
Từ đây, kiểm tra hoặc không kiểm tra các bõ gần các tab bạn muốn trong hộp thư của bạn. Bấm vào “Save” (lưu) để thiết lập bất cứ những thay đổi nào bạn đã thực hiện.
Chuyển các thư điện tử đến các tab khác
Một khi bạn đã nắm được các tab bạn muốn, bạn có thể “huấn luyện” Gmail tự động gửi các thư điện tử đến những người gửi nhất định vào các tab cụ thể.
Để thực hiện được điều này, bấm chuột phải vào một thư điện tử đã được chuẩn bị theo mào đầu tab chưa chuẩn. Tuy nhiên, lựa chọn "Move to tab" (di chuyển đến tab) xuất hiện ở hộp pop-up và lựa chọn tab cần (chính hay xã hội).
Một cách khác là bạn có thể kéo thả các thư đến tab khác.
Gmail sau đó sẽ hỏi bạn liệu bạn có muốn điều này đến “làm việc này cho các thư sắp tới từ [email@example.com]?" Bấm “yes” (có) và các thư ráp từ địa chỉ đó sẽ tự động lọc vào tab được bạn thích.
Xóa bỏ các tab
Nếu bạn không thích các chức năng của tab mới và muốn quay lại hộp thư theo kiểu cũ, bạn bấm vào biểu tượng "+" bên phía phải của các mào đầu tab, hủy từng box tab (trừ “Chính” là một mặc định) và hộp thư của bạn sẽ chuyển đổi về kiểu cũ.
Để khôi phục các tab vào bất cứ lúc nào, bấm vào nút cog settings (cấu hình các cài đặt) và chọn "Configure inbox" (cấu hình hộp thư) để bạn quay trở lại.
QM
Chuông cửa thông minh cho phép bạn trả lời khi không ở nhà
Submitted by nlphuong on Tue, 23/07/2013 - 07:45(ICTPress) - Nếu bạn đang đợi một bưu kiện nhưng lại đang đi đâu đó, bạn có muốn thông báo từ xa với bưu tá để lại bưu kiện ở cửa nhà mình?
(ICTPress) - Nếu bạn đang đợi một bưu kiện nhưng lại đang đi đâu đó, bạn có muốn thông báo từ xa với bưu tá để lại bưu kiện ở cửa nhà mình?
Tin hay không, thì chuông cửa có khả năng WiFi sẽ cho phép bản tải video trực tiếp xem ai đang đứng trước cửa nhà bạn và cho phép bạn chat với họ qua một ứng dụng, thậm chí khi bạn không ở nhà.
Phiên bản DoorBot mới nhất vừa được tung ra sẽ cho phép bạn có được chuông cửa thông minh. Tương tự với các model trước, sản phẩm này có thể treo ngoài cửa trước nhà bạn như chuông cửa thông thường khác (có thể gắn trên chuông hiện tại) và có một camera ở phía trước.
Khi ai đó bấm chuông, DoorBot sẽ gọi đến smartphone của bạn và truyền đi một video trực tiếp qua WiFi lắp trong các hình ảnh DoorBot thấy. Nó hiển thị qua một ứng dụng DoorBot miễn phí.
Sản phẩm này giờ có kích thước nhỏ hơn - 5,68 (cao) x 2,39 (rộng) - với một pin sạc lithium polymer bên trong, có thể dùng trong 1 năm. Tấm bề mặt cũng mỏng hơn và được thiết kế chắc chắn hơn, do đó thiết bị không thể dễ dàng bị đánh cắp.
Người sử dụng cũng có thể bổ sung dịch vụ gọi là Lockitron cho thiết bị, để khóa và mở cửa trước từ xa bằng smartphone. Tổng giá tiền của DoorBot khoảng 349 USD.
QM
Smartphone sẽ thông báo thư từ được chuyển phát đến hộp thư
Submitted by nlphuong on Mon, 22/07/2013 - 07:00(ICTPress) - Có nhiều lý do khiến bạn hoãn một chuyến đi: nhiệt độ nóng bức, bị thương, lười, mà chưa đề cập đến việc nhận được thư đến muộn.
(ICTPress) - Có nhiều lý do khiến bạn hoãn một chuyến đi: nhiệt độ nóng bức, bị thương, lười, mà chưa đề cập đến việc nhận được thư đến muộn.
Postifier, gần đây đã nhận được sự tài trợ ở Indiegogo, các nỗ lực giải quyết vấn đề này bằng cách thông báo cho smartphone của bạn nếu thư đã đến.
Đây là cách thức hoạt động: bộ giám sát Bluetooth của thiết bị được đặt bên trong thùng thư trước nhà bạn, và bộ cảm biến của thiết bị sẽ giám sát bất cứ sự thay đổi nào trong ánh sáng hồng ngoại, mà phần lớn diễn ra khi thùng thư có thứ gì đó (ví dụ là thư) được chuyển vào. Một khi sự thay đổi này được đăng ký bằng thiết bị Bluetooth, một tin báo sẽ được gửi thẳng tới smartphone của bạn, thông báo cho bạn sự thay đổi trạng thái thùng thư có thư.
Postifier có thể kết nối trong phạm vi 30 mét và pin có thể từ 6 tới 9 tháng kể từ khi sử dụng Bluetooth năng lượng thấp. Có nghĩa là Bluetooth chỉ khởi động khi bạn đi vào phạm vi hộp thư của bạn. Postifier sẽ tương thích với iOS và Android.
Ở Indiegogo, dự án này hiện nhận được 1.500 USD tài trợ, với mục tiêu cuối cùng lên tới 30.000 USD vào ngày 11/8. Nếu dự án thành công, ngày cung cấp ứng dụng này cho thiết bị sẽ khoảng tháng 12/2013.
QM
Tăng tốc chuyển đổi sang mô hình điện toán đám mây riêng
Submitted by nlphuong on Wed, 17/07/2013 - 19:35(ICTPress) - Xu hướng ảo hóa để đơn giản hóa hạ tầng điện toán đám mây riêng nhằm tăng hiệu quả và độ sẵn sàng của các tài nguyên đang được áp dụng ngày càng nhiều tại các doanh nghiệp Việt Nam.
(ICTPress) - Tập đoàn EMC nhà phát triển và cung cấp công nghệ và giải pháp cơ sở hạ tầng thông tin kết hợp với nhà phân phối NT&T tại Việt Nam vừa giới thiệu tới các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam một số giải pháp giúp tăng tốc chuyển đổi sang mô hình "điện toán đám mây riêng” với hiệu quả cao về chi phí.
Xu hướng ảo hóa để đơn giản hóa hạ tầng điện toán đám mây riêng nhằm tăng hiệu quả và độ sẵn sàng của các tài nguyên đang được áp dụng ngày càng nhiều tại các doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp đã ảo hóa được 20 - 30% máy chủ và sẵn sàng để chuyển đổi hoàn toàn sang mô hình điện toán đám mây riêng để thu được nhiều giá trị kinh doanh hơn từ hạ tầng CNTT của mình.
Công nghệ unified storage của EMC được thiết kế đặc biệt để hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển sang môi trường điện toán đám mây riêng dễ dàng, nhanh chóng, hiệu quả và an toàn.
Cùng với việc chuyển đổi sang mô hình điện toán đám mây, bài toán bảo vệ dữ liệu lại càng trở nên quan trọng và tiềm ẩn nhiều thách thức. Để có thể vận hành an toàn mô hình điện toán đám mây, thực hiện chuyển đổi máy chủ và ứng dụng là chưa đủ mà đòi hỏi phải thực hiện cả hạ tầng bảo vệ, phục hồi và lưu trữ lâu dài.
Ông Nguyễn Đức Toàn, Tổng giám đốc EMC tại Việt Nam nhận định: “Các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam đã rất tích cực chuyển đổi sang mô hình ảo hóa và điện toán đám mây và đã đạt được những kết quả rất tốt. Nhưng riêng trong việc bảo vệ cho mô hình này, nhiều doanh nghiệp tiếp cận theo những hướng khác nhau và nhiều khi không những không khai thác được các ưu điểm của điện toán đám mây mà còn làm ảnh hưởng tới quá trình chuyển đổi. Hiện này, với hơn 70% thị phần trong lĩnh vực bảo vệ dữ liệu trong môi trường điện toán đám mây, EMC mang lại cho khách hàng các giải pháp hoàn chỉnh nhất và phù hợp nhất và chúng tôi muốn giới thiệu các công nghệ này tới khách hàng Việt Nam”.
Ông Nguyễn Đức Toàn, Tổng Giám đốc EMC tại Việt Nam giới thiệu các giải pháp chuyển đổi sang điện toán đám mây của EMC |
EMC đã đưa ra các giải pháp tổng thể giành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ sao lưu dữ liệu chống trùng lặp (Deduplication) khắc phục được những nhược điểm cố hữu của công nghệ sao lưu trên băng từ hoặc đĩa cứng với giá cả hợp lý, thời gian hoàn vốn đầu tư nhanh và chất lượng dịch vụ cao. Đặc biệt, công nghệ sao lưu của EMC đã được tối ưu hóa và tích hợp với môi trường ảo hóa và Cloud computing theo xu hướng công nghệ của thế giới. Các giải pháp của EMC cũng được thiết kế để có thể kết hợp với các công nghệ và giải pháp của các hãng khác phù hợp với bất kỳ mô hình sẵn có nào.
Ông Mai Chí Trung, Giám đốc Kỹ thuật Công ty NT&T cho biết: “Trong mô hình điện toán đám mây, do độ tập trung rất cao và tỉ lệ tận dụng tài nguyên tới hơn 80%, việc bảo vệ theo phương pháp copy truyền thống 100% dữ liệu ra một phương tiện bên ngoài để thực hiện sao lưu sẽ không thể thực hiện được”.
“Với công nghệ Deduplication, dữ liệu sẽ được chia thành từng đoạn nhỏ, sau đấy thuật toán chống trùng lặp sẽ loại bỏ các đoạn dữ liệu trùng lặp hoặc đã được sao lưu trước đó. Chỉ có các đoạn dữ liệu mới phát sinh sẽ được sao lưu trên hệ thống lưu trữ sử dụng các ổ đĩa cứng có dung lượng cao được thiết kế đặc biệt cho sao lưu. Nhờ vậy mà cải thiện đáng kể về mặt tốc độ sao lưu lên hàng chục lần, giảm băng thông trên mạng tới hơn 80% và khôi phục dữ liệu khi có sự cố cũng tăng hàng chục lần. Ngoài ra dữ liệu sẽ được sao lưu giữ làm nhiều bản hơn, cải thiện đáng kể khả năng bảo vệ dữ liệu so với công nghệ cũ mà vẫn giữ tính cạnh tranh về giá thành”, ông Mai Chí Trung cho biết thêm.
EMC đã đưa công nghệ deduplication vào 2 sản phầm nổi tiếng của mình là Data Domain và Avamar kết hợp với hệ thống lưu trữ VNXe thành một giải pháp hoàn chỉnh cho khối doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài những tiện ích truyền thống của công nghệ deduplication, 2 sản phẩm này của EMC còn nhiều tính năng độc đáo khác như nhân bản (replication) ra nhiều hệ thống ở nhiều nơi khác nhau để phục vụ cho DR (Disaster Recovery - Phục hồi sau họa), dễ dàng tích hợp với môi trường ảo hóa và Cloud Computing.
Mạnh Vỹ
Đánh giá tiềm năng điện mặt trời nhờ sử dụng siêu máy tính của IBM
Submitted by nlphuong on Mon, 15/07/2013 - 07:55(ICTPress) - World Community Grid, được IBM xây dựng và quản lý, cung cấp sức mạnh điện toán cho các nhà khoa học bằng cách khai thác tài nguyên điện toán nhàn rỗi trên máy tính của những người tình nguyện đóng góp.
(ICTPress) - Những nỗ lực tìm kiếm các loại vật liệu đa năng, rẻ hơn và có thể tạo ra điện từ năng lượng mặt trời đã đạt được một bước tiến mới khi Trường Đại học Harvard công bố danh mục 2,3 triệu hợp chất các-bon hữu cơ có khả năng biến ánh sáng mặt trời thành điện năng.
Dự án mang tên Năng lượng Sạch (Clean Energy Project) của Trường Đại học Harvard đã sàng lọc các phân tử bằng cách sử dụng Mạng lưới cộng đồng thế giới (World Community Grid), một siêu máy tính ảo do IBM quản lý để khai thác sức mạnh điện toán dư thừa do các tình nguyện viên đóng góp. Dự án này đã đem lại đánh giá về hóa học lượng tử toàn diện nhất từng được thực hiện từ trước đến nay.
Giờ đây, các nhà khoa học có thể sử dụng các kết quả nghiên cứu này của Trường Đại học Harvard để tiếp tục khảo sát những hợp chất có tiềm năng nhất, từ đó có thể phát triển các vật liệu bán dẫn hữu cơ, các loại vật liệu mới và trên hết là các thiết bị phát điện, ví dụ như pin năng lượng mặt trời.
Khoảng 1.000 cấu trúc phân tử được đánh giá trong nghiên cứu của Trường Đại học Harvard có khả năng chuyển đổi ít nhất 11% lượng quang năng hấp thu được thành điện năng. 35.000 cấu trúc khác có khả năng đạt được hiệu suất chuyển đổi ít nhất là 10% hoặc hơn. Hiện nay, hầu hết các tế bào hữu cơ từng được đánh giá tính đến thời điểm hiện tại đều chỉ có thể chuyển đổi từ 4% đến 5% lượng quang năng hấp thu được trở thành điện năng. Các vật liệu năng lượng mặt trời sử dụng silicon tuy có thể đạt được hiệu suất khoảng 15% nhưng lại có giá thành đắt hơn nhiều.
Các pin năng lượng mặt trời hữu cơ có nhiều tiềm năng hơn so với các vật liệu truyền thống như silicon. Ví dụ, các loại vật liệu các-bon có thể được sản xuất với giá thành rẻ và số lượng lớn bằng chính công nghệ hiện đang được sử dụng để sản xuất túi ni lông, vì vậy các cộng đồng dân cư xa xôi và nghèo khó cũng có thể được hưởng lợi. Các phiên bản của pin năng lượng mặt trời có thể được bọc, sơn hoặc phun trên mái nhà, cửa sổ và tường nhà, và cũng có thể đủ mỏng và đủ nhẹ để được sử dụng trên các thiết bị cầm tay.
Công bố mới này được Văn phòng Chính sách Khoa học và Công nghệ của Nhà Trắng đánh giá cao. Trước đây, dự án Năng lượng Sạch của Trường Đại học Harvard và Mạng lưới cộng đồng thế giới World Community Grid của IBM đã được đưa vào sáng kiến MGI (Materials Genome Initiative - Sáng kiến Gen Vật liệu) do Tổng thống Obama khởi xướng từ tháng 6 năm 2011 trong khuôn khổ nỗ lực tạo việc làm mới, giải quyết các thách thức xã hội, và nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu của Mỹ thông qua việc thúc đẩy khoa học vật liệu.
Sáng kiến này đặt ra mục tiêu rút ngắn một nửa thời gian từ khâu khám phá các vật liệu mới đến khâu thương mại hóa các vật liệu này, đồng thời hạ thấp chi phí nhờ khả năng chia sẻ ở mức độ cao hơn những dữ liệu và kết quả phân tích cơ bản về vật liệu thông qua các hoạt động cộng tác như giữa Trường Đại học Harvard và IBM.
Với sự hợp tác của nhiều tổ chức và cá nhân, tính đến thời điểm hiện tại, World Community Grid đã cung cấp cho Dự án Năng lượng Sạch mức năng lực tính toán tương đương với một chiếc máy tính cá nhân thực hiện các tính toán khoa học trong vòng 17.000 năm.
World Community Grid, được IBM xây dựng và quản lý, cung cấp sức mạnh điện toán cho các nhà khoa học bằng cách khai thác tài nguyên điện toán nhàn rỗi trên máy tính của những người tình nguyện đóng góp. Ai cũng có thể tham gia đóng góp tài nguyên điện toán bằng cách tải về một phần mềm chạy trên máy tính Windows, Mac hoặc Linux, và phần mềm đó sẽ hoạt động khi bạn không làm việc hoặc chỉ chạy những ứng dụng điện toán nhẹ, không đòi hỏi nhiều tài nguyên.
Tài nguyên này được đánh giá cao bởi các nhà nghiên cứu không có đủ kinh phí hoặc không có khả năng truy cập các siêu máy tính để tăng tốc độ triển khai các chương trình mô phỏng và thí nghiệm của họ. Môi trường điện toán lưới này đã được sử dụng để hỗ trợ hoạt động nghiên cứu về năng lượng sạch, nước sạch và thực phẩm an toàn cũng như thuốc điều trị ung thư, AIDS, sốt rét và nhiều căn bệnh khác.
Hơn 2,3 triệu máy tính của hơn 600.000 người và tổ chức tình nguyện từ 80 quốc gia đã đóng góp sức mạnh tính toán cho các dự án trên World Community Grid trong suốt 9 năm qua. Kết quả của những đóng góp đó đã hình thành nên một trong những siêu máy tính ảo nhanh nhất hành tinh, góp phần đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu khoa học hàng trăm năm. Tới năm 2013, đã có ít nhất 22 dự án được triển khai hoạt động hoặc đã được hoàn thành nhờ World Community Grid. Kể từ khi bắt đầu được triển khai, dự án đã cung cấp hoàn toàn miễn phí cho các nhà nghiên cứu khoa học một công suất tương đương với hơn 750.000 năm tính toán.
World Community Grid hiện có gần 170 thành viên từ Việt Nam kết nối hơn 800 máy tính trên phạm vi cả nước.
QM
Mô hình kinh doanh dịch vụ trực tuyến Internet thân thiện “Vườn tri thức VNPT"
Submitted by nlphuong on Thu, 11/07/2013 - 06:28(ICTPress) - Mô hình “Vườn tri thức VNPT” đã được cộng đồng CNTT thế giới biết đến thông qua Diễn đàn CNTT thế giới WITFOR 2009, năm 2010 cùng với chương trình “Một triệu giờ đồng hành” được Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam bình chọn là một trong 10 sự kiện của tuổi trẻ cả nước.
1. Giới thiệu
Kinh doanh thông qua những tiện ích của Internet, CNTT đang là mô hình được áp dụng rộng rãi tại rất nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, việc kinh doanh này đang trong giai đoạn khởi đầu, đa phần tập trung ở những thành phố lớn, khu đông dân cư. Còn tại các vùng nông thôn hay miền núi, việc đưa Internet đến với người dân vùng sâu, vùng xa, dân tộc ít người,v.v. thực sự hết sức khó khăndo dân trí thấp, thói quen, tập quán và sự e ngại khi tiếp cận với máy tính. Kinh doanh Internet vẫn chủ yếu là các cửa hàng, đại lý Game online nhỏ lẻ, hiệu quả kinh tế không cao, không ứng dụng được Internet vào thương mại điện tử.
Mô hình kinh doanh dịch vụ Internet thân thiện “Vườn Tri thức VNPT” đã được triển khai để tối ưu hoá lợi nhuận, mở rộng mạng lưới kinh doanh viễn thông, CNTT và nhất là các tiện ích của Internet, giới thiệu trực tiếp thông qua hệ thống thương mại điện tử các sản phẩm trưyền thống, đặc trưng địa phương ra các nước trong khu vực và trên thế giới. Với ý tưởng tạo ra một môi trường sinh hoạt CNTT, tiếp cận Internet cho giới trẻ tại các khu vực vùng sâu, vùng xa, vừa đáp ứng nhu cầu sử dụng và phổ cập CNTT vào đời sống như các chương trình cộng ích Bộ Thông tin và Truyền thông, các hoạt động phổ cập tin học quốc tế của Quỹ Melinda - Bill Gates vừa đạt mục tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh Internet.
Điểm mấu chốt là mô hình đã tạo ra sự gần gũi với môi trường và văn hoá người dân các vùng miền khác nhau, kích thích người dùng tham gia sử dụng Internet hỗ trợ trực tiếp cho đời sống lao động và học tập, vì họ có thể biết được giá cả các loại hàng hoá, địa chỉ mua bán, kiến thức canh nông, thông tin, sức khoẻ, v.v.. Mô hình cũng đã kết hợp kinh doanh qua mạng các sản phẩm dịch vụ viễn thông, CNTT, sản phẩm làng nghề truyền thống, đặc sản địa phương với việc quản lý mềm dẻo của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội như Đoàn thanh niên, Hội nông dân,..
2. Tình hình triển khai mô hình “Vườn tri thức VNPT”
Mô hình “Vườn tri thức VNPT” đã được triển khai giai đoạn 1 với mục tiêu chủ yếu phục vụ công ích, phổ cập tin học cho đối tượng là thanh thiếu niên nông thôn và nhân dân vùng sâu, vùng xa. Sau khi triển khai giai đoạn 2 với mục đích kinh doanh hiệu quả các sản phẩm dịch vụ viễn thông và CNTT, mô hình đã phát huy khả năng kinh doanh biến Vườn tri thức VNPT giống như một chuỗi hệ thống liên hoàn gồm Siêu thị Viễn thông, Trung tâm Internet cộng đồng, Khu bày bán sản phẩm làng nghề, khuôn viên giao lưu văn hoá Wifi. Mô hình đã tạo ra sự gần gũi với phong tục, tập quán của người dân địa phương, khắc phục những rào cản trong tâm lý, thói quen khi tham gia sử dụng dịch vụ CNTT.
Vườn tri thức VNPT đã được triển khai thí điểm tại các vùng miền khác nhau cho các đối tượng khác nhau nhằm khảo sát, nghiên cứu định tính và định lượng, quan sát nhu cầu và sở thích khi sử dụng máy tính cũng như Internet của các đối tượng khách hàng để phục vụ đời sống, lao động, học tập của người dân địa phương. Qua nghiên cứu các mô hình đã triển khai, rút kinh nghiệm và xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh phát huy hiệu quả kinh tế của “Vườn tri thức VNPT”, cụ thể như sau:
+ Năm 2006: Nhà Thiếu nhi - Tỉnh đoàn Ninh Thuận: được lấy tên là “Vườn tri thức” cho đối tượng thanh thiếu nhi bao gồm 13 máy tính, tủ sách, hệ thống mạng,...
+ Năm 2007: Điểm BĐVHX Hồng Khê (Bình Giang - Hải Dương): được đặt tên là “Vườn tri thức trẻ” tại với mục tiêu phát huy những tiện ích của điểm BĐVHX, tạo ra môi trường tiếp cận Internet cho thanh thiếu niên (TTN) nông thôn và tăng cường hình ảnh VNPT đối với cộng đồng, xã hội: VTT quy định trong tuần có hai buổi truy cập Internet miễn phí vào sáng thứ 3 và chiều thứ 5 hàng tuần, các buổi còn lại thu cước phí, kinh doanh bước đầu thu đủ bù chi. Tổng trị giá 140.000.000đ.
+ Năm 2008: “Vườn tri thức VNPT” được đặt tên thống nhất đã triển khai tại Trung đoàn E952 – Hải quân vùng 1, Đảo Thanh niên Bạch Long Vĩ (Hải Phòng) mà đối tượng phục vụ là bộ đội, chiến sĩ trên đảo: 04 máy tính, 01 máy in, hệ thống Hub, cáp mạng, webcam, tủ sách khoa học, các thiết bị như TV, đầu ĐV,.. miễn phí truy cập Internet băng thông ADSL 1 tháng, tổng giá trị 60.000.000đ
+ Năm 2008: Tại trường tiểu học An Phước (Đà Nẵng), việc xây dựng Vườn tập trung vào đối tượng là học sinh, TTN các xã lân cận. Từ tháng 6/2009 đến nay, đã có 4238 lượt TTN, học sinh và giáo viên truy cập Internet và đọc sách tại đây. Vườn còn tổ chức đào tạo tin học cho 50 lượt cán bộ Đoàn xã; Tổng trị giá 100.000.000đ.
+ Năm 2009: Còn tại Bến Tre, với sự đầu tư 40 máy tính của VNPT Bến Tre và nhiều đầu sách, báo của Tỉnh Đoàn có tổng trị giá 400.000.000đ. Không chỉ ĐVTN ở đây được tiếp cận Internet phục vụ cho học tập mà hoạt động kinh doanh tại đây cũng rất có hiệu quả (từ tháng 10/2009 đến nay, doanh thu tại Vườn tri thức do Đoàn Thanh niên VNPT Bến tre thực hiện từ dịch vụ bán hàng đạt trên 1 tỉ đồng). Ngoài ra, Vườn còn đào tạo được 7 khóa học cho Công an tỉnh, 1 lớp bằng A tin học cho cán bộ đoàn và 1 lớp học cơ bản cho thanh niên nông thôn.
+ Năm 2009: Trung đoàn Cảnh sát cơ động tại miền Trung - Tây Nguyên (E25) thuộc Tổng cục Cảnh sát đóng tại Gia Lai, cán bộ chiến sĩ ở đây cũng trở thành đối tượng chính được tiếp cận với Internet trong khuôn viên truy cập mạng của Vườn tri thức VNPT rộng 300m2, có đủ vườn hoa, ghế đá, cây cảnh … và 10 bộ máy tính có kết nối Internet, 01 máy in, webcam…Bên cạnh đó là Tủ sách tri thức của VNPT với hàng trăm đầu sách báo khác nhau để các cán bộ chiến sĩ đọc, tìm hiểu sau những giờ trực vất vả. Trong vòng 3 tháng đầu sau khai trương, cán bộ chiến sĩ và bà con nhân dân được miễn phí truy cập Internet 100% và được miễn 50% trong 6 tháng tiếp theo. Huy động them nguồn lực thừ Ban thanh niên Tổng cục Cảnh sát, BIDV, CAVICO: tổng trị giá khoảng 146.000.000đ
+ Thư viện Huyện Côn Đảo (Vũng Tàu) cho các đối tượng là thanh thiếu nhi, nhân dân trên đảo. Tổng trị giá 170.000.000đ.
“Vườn tri thức VNPT” đã được xã hội ghi nhận về những hữu ích của công trình về việc hỗ trợ cộng đồng xã hội trong việc ứng dụng Internet vào lao động và học tập, rút ngắn khoảng cách số giữa thành thị và nông thôn. Tuy vậy, các “Vườn tri thức VNPT” hiện tại đã triển khai mới chỉ tập trung tăng cường hình ảnh thương hiệu VNPT và phát huy tính tiện ích của các điểm Bưu điện văn hóa xã, trường học, doanh trại quân đội, công an, khuôn viên tỉnh đoàn, v.v. chưa kết hợp được việc kinh doanh dịch vụ, tạo doanh thu chủ yếu từ dịch vụ băng rộng cũng như các dịch vụ Bưu chính, Viễn thông và CNTT khác. Do đó, cũng khó khăn khi bố trí nguồn chi phí, nguồn nhân lực sửa chữa, bảo dưỡng và duy trì hoạt động của Vườn tri thức. Vì vậy, tại một số điểm không mang lại kết quả như mong muốn, chỉ mang tính phục vụ cộng đồng, rất khó khăn trong việc duy trì và quản lý lâu dài. Việc kết hợp với đoàn thanh niên địa phương hay trường học cũng chỉ duy trì được thời gian từ 3 đến 4 năm, sau đó thiết bị hỏng dần và bộ phận quản lý không có nguồn để tu sửa, bảo dưỡng hệ thống máy tính.
3. “Vườn tri thức VNPT” tại Hưng Yên - Mô hình kinh doanh dịch vụ Internet thân thiện
Từ những kinh nghiệm đó, “Vườn tri thức VNPT” tại Hưng Yên được thiết kế là một công trình kinh doanh kết hợp công ích hoàn chỉnh, đầy đủ các hạng mục để tạo ra nguồn thu và bộ phận quản lý lâu dài. “Vườn tri thức VNPT” được xây dựng trong khuôn viên VNPT Hưng Yên, có diện tích 500m2 bao gồm cả Trung tâm mạng máy tính với 10 bộ máy tính được nối mạng Internet (đầu tư giai đoạn 1), máy in, máy chiếu, webcam….; Showroom trưng bày - bán hàng dịch vụ bưu chính viễn thông và khuôn viên truy cập mạng wifi bao gồm vườn hoa cây xanh. Sau khi chính thức đưa vào hoạt động, Vườn tri thức là địa chỉ sinh hoạt cộng đồng hữu ích cho cho giới trẻ, là không gian tri thức xanh cho thanh niên nông thôn, kết hợp việc nâng cao kiến thức kinh tế- xã hội trên môi trường Internet với việc ứng dụng ngày một hiệu quả hơn công nghệ thông tin trong nghiên cứu, học tập và tạo ra các giá trị hữu ích cho xã hội.
“Vườn tri thức VNPT” tại Hưng Yên (trị giá đầu tư thiết bị 750 triệu đồng) được đánh giá là một mô hình của tương lai, đưa Internet đến vùng sâu, vùng xa có tính bền vững cao bằng việc thiết kế sáng tạo “phần hồn” của các phòng máy tính cộng đồng chính là người quản lý, quy trình vận hành và luồng không khí trẻ trung. Đặc biệt là tạo nguồn thu cho bộ phận quản lý là tổ chức Đoàn thanh niên và các cán bộ đoàn. Không gian gồm 4 phần: Siêu thị Viễn thông, Phòng Internet cộng đồng, Không gian sản phẩm làng nghề và Khuôn viên giao lưu Wifi.
Phòng Internet cộng đồng |
Được thiết kế theo phòng giao dịch chuẩn của VNPT về màu sắc và nhận diện thương hiệu có màu chủ đạo là màu xanh VNPT, không gian trong phòng gồm 3 phần, được phân biệt bằng độ cao mặt sàn và giá trị sử dụng của từng phần cụ thể: Trưng bày, trình chiếu các sản phẩm dịch vụ của VNPT, có ý nghĩa như điểm giao dịch trưng bày, tiếp nhận các sản phẩm. dịch vụ VNPT; Nhận là điểm quảng bá, giới thiệu sản phẩm; Ngày bình thường phòng có sử dụng nhạc cổ điển, một số tác phẩm âm nhạc kinh điển để tạo không khí thanh bình cho những người đến sử dụng dịch vụ.
Phòng Internet cộng đồng
- Tốc độ băng thông cao với mục đích nghiên cứu, học tập và giải trí.
- Đào tạo tin học văn phòng, công nghệ thông tin theo yêu cầu của tỉnh Đoàn, Hội Nông dân có quy mô nhỏ, có thể đào tạo theo cụm hoặc theo huyện, trong đó Đoàn VNPT Hưng Yên chịu trách nhiệm đào tạo, các chi phí về tài liệu cho học viên. (Định kỳ quý 1 lần).
- Đào tạo cho các tổ chức cá nhân có nhu cầu.
-Thông qua Internet, vườn tri thức VNPT Hưng Yên là điểm để thanh, thiếu nhi trong tỉnh đến học tập nghiên cứu và giải trí:
-Tủ sách Thanh niên: Lưu trữ các tài liệu liên quan đến công tác Đoàn và các tài liệu khác do thanh niên ủng hộ tạo điều kiện để đoàn viên, TTN đến tra cứu tìm đọc và khai thác kiến thực, tư liệu phục vụ công tác chuyên môn.
- Tổ chức các buổi giao lưu, toạ đàm, sinh hoạt chuyên đề, tổ chức hội họp của thanh niên.
+ 30% máy tính phục vụ công tác học tập, nghiên cứu miễn phí.
+ 70% máy tính truy cập còn lại sử dụng vào mục đích giải trí thu phí theo quy định hiện hành của VNPT Hưng Yên để đủ chi phí trang trải cho các khoản thuê nhân công, các chi phí khác luôn đảm bảo hiệu quả khai thác Vườn Tri thức và có doanh thu như một điểm giao dịch của VNPT Hưng Yên.
Không gian sản phẩm làng nghề (Youth Cafe)
- Thông qua việc trưng bày các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đặc sản làng nghề địa phương, có niêm yết giá, nếu khách hàng có nhu cầu, có thể bán và hưởng tỷ lệ phần trăm hoa hồng.
- Sử dụng Website: vuontrithuc.com để giới thiệu sản phẩm và bán hàng qua mạng.
- Kinh doanh trà thảo dược, café, giải khát.
Không gian sản phẩm làng nghề |
Khuôn viên giao lưu Wifi
- Thiết kế kiểu sân vườn treo, có quầy bar, phục vụ café, giải khát nhẹ, có công trình vệ sinh cộng cộng, trong đó có giàn hoa phong lan, một số cây cảnh, hòn non bộ, một số cây to toả bóng mát, bên ngoài giáp hành lang Quảng trường được tôn cao nền, lợp mái là vị trí để công nhân viên chức, thanh niên thư giãn có thể truy cập Wifi,…
- Đây cũng là điểm tổ chức các hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ, thể thao của thanh thiếu niên trong tỉnh.
- Vườn Tri thức VNPT tại Hưng Yên, không chỉ là điểm học tập, sinh hoạt văn hoá tinh thần thông qua giao diện Internet của thanh thiếu nhi trong tỉnh, mà còn được tổ chức thành lập Tổng đại lý để kết hợp phát triển dịch vụ VNPT với việc tăng thêm nguồn thu cho các cán bộ Đoàn, gây quỹ Đoàn tại địa phương. Tại “Vườn tri thức” sẽ được tổ chức thường xuyên các hoạt động giao lưu thanh niên, phổ cập tin học và Internet, đào tạo từ xa, tôn vinh và trao tặng các suất học bổng khuyến học “VNPT chắp cánh tài năng Việt” cho các em học sinh nghèo có hoàn cảnh khó khăn, học giỏi tại địa bàn tỉnh Hưng Yên.
4. Kết quả triển khai
Tính đến thời điểm hiện nay, “Vườn tri thức VNPT” tại Hưng Yên do Trung tâm dịch vụ khách hàng và Đoàn thanh niên VNPT Hưng Yên quản lý đã có doanh thu bán hàng cho VNPT Hưng Yên khoảng 500 triệu đồng /tháng, phát triển bình quân mỗi ngày 20 đến 50 dịch vụ bưu chính viễn thông các loại; kinh doanh thương mại như máy tính, điện thoại, thiết bị viễn thông,.. Ngoài ra, Ban quản lý còn tự cân đối thu chi các khoản thuê nhân công, bảo dưỡng thiết bị, tái đầu tư, mở rộng các hoạt động tổ chức sự kiện, cho thuê địa điểm đào tạo tin học, game online, v.v..
Mô hình “Vườn tri thức VNPT” đã được cộng đồng CNTT thế giới biết đến thông qua Diễn đàn CNTT thế giới WITFOR 2009, năm 2010 cùng với chương trình “Một triệu giờ đồng hành” được Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam bình chọn là một trong 10 sự kiện của tuổi trẻ cả nước. Các cơ quan truyền thông như Báo Lao Động, Báo Nhân Dân, Báo Bưu Điện, Báo Điện tử Vnmedia, Báo Tiền Phong, Báo Thanh Niên... đã đánh giá: “Vườn tri thức VNPT” tại Hưng Yên khẳng định tính bền vững của mô hình phổ cập tin học và Internet cho các tầng lớp nhân dân vùng sâu, vùng xa, thực hiện chủ trương của Chính phủ sớm đưa nước ta trở thành nước mạnh về CNTT trên thế giới.
5. Kết luận
Việc triển khai mô hình kinh doanh Internet thân thiện Vườn tri thức VNPT rất khả thi cho các địa phương mới tiếp cận với CNTT và chuẩn bị ứng dụng rộng rãi thương mại điện tử trong thời gian tới. Để phát huy tính bền vững và hiệu quả, các doanh nghiệp Viễn thông và CNTT cần kết hợp chính sách công ích của các sở, ban, ngành địa phương, phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị đoàn thể để tiết kiệm tối đa chi chí xây dựng và chi phí quản lý và thuê nhân công bằng việc thiết lập “Vườn tri thức VNPT” như một Tổng đại lý uỷ quyền mà thành viên chính là các cấp cán bộ đoàn thể, chính trị-xã hội.
Nguyễn Đồng Long
Tài liệu tham khảo
[1]. Trương Đình Chiến, Sách “Quản trị kênh phân phối”, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2010.
[2. Trần Thị Ngọc Trang, Trần Văn Thi, Sách “Quản trị kênh phân phối”, NXB Thống kê.
[3]. Lữ Ý Nhi, Bài viết “Kênh phân phối siêu thị”, Báo Doanh nhân Sài Gòn, số 104 tháng 8 năm 2010.
[4]. Thanh Huyền, “Chợ truyền thống - kênh phân phối hàng Việt hiệu quả”, Báo Hà Nội Mới Online, ngày 8/5/2013.
[5]. Philip Kotler, Quản Trị Marketing, NXB Lao động - Xã hội, 2008.
[6]. Tạp chí Công nghệ Thông tin & Truyền thông số tháng 8/2011.
[7]. Tuần tin VNPT số 159, 160, 161 phát hành ngày 15/8/2011 đến 4/9/2011.
[8]. Tạp chí Doanh nhân & Pháp luật các sô 25, 27 ra ngày 5/7/2011 và 20/7/2011.
[9]. http://www.vnpt.vn
[10]. http://www.vuontrithuc.com
6 nhóm khách hàng sử dụng Internet và di động cần chinh phục
Submitted by nlphuong on Mon, 08/07/2013 - 05:57(ICTPress) - Các nhà khai thác nên quảng bá cho các yếu tố khác chứ không chỉ chú trọng vào giá.
(ICTPress) - Tính đến quý 1 năm 2013, thế giới đã có 1,2 tỷ thuê bao smartphone và dự kiến sẽ có 4,5 tỉ thuê bao smartphone vào năm 2018.
Bộ phận nghiên cứu khách hàng của Ericsson (ConsumerLab) đã nghiên cứu và phân khúc 6 nhóm khách hàng sử dụng Internet và Di động để giúp các nhà cung cấp hiểu từng nhóm khách hàng, nhằm cung cấp các dịch vụ phù hợp và làm hài lòng họ nhất.
3 nét nổi bật từ nghiên cứu này cho thấy: việc được trải nghiệm trực tuyến là rất quan trọng nhất là khi smartphone đã đi vào cuộc sống.
Có 4 nhân tố ảnh hưởng lớn nhất tới trải nghiệm của khách hàng là hiệu năng của mạng, giá cả, tương tác giữa người dùng và nhà cung cấp, và loại thiết bị. Các nhà khai thác nên quảng bá cho các yếu tố khác chứ không chỉ chú trọng vào giá.
6 nhóm khách hàng dưới đây được phân khúc dựa trên sự quan tâm của họ đối với 4 nhân tố quan trọng nhất nói trên.
-
Nhóm 1 - Performance Seekers (“Cần nhất là chất lượng”): đặc biệt coi trọng chất lượng mạng và các dịch vụ. Công nghệ đi vào mọi khía cạnh trong cuộc sống của họ. Họ hiểu rõ giá trị của công nghệ và đòi hỏi một dịch vụ Internet di động nhanh và ổn định.
- Nhóm 2 - Devicers (“Thiết bị sành điệu”): Nhóm khách hàng coi thiết bị cầm tay không chỉ là phương tiện để liên lạc mà là sử thể hiện hình ảnh, lối sống và đẳng cấp xã hội. Họ cần các nhà mạng cung cấp loại thiết bị ưng ý nhanh nhất cho họ.
-
Nhóm 3 - VIP: Nhóm khách hàng muốn được đối xử đặc biệt mọi lúc. Họ sẵn sàng trả chi phí dịch vụ cao miễn là luôn nhận được sự ưu tiên.
-
Nhóm 4 - Cost Cutters (“Giảm chi phí”): Nhóm khách hàng luôn tìm kiếm mức giá thấp, không chấp nhận việc phát sinh chi phí và chỉ cần những dịch vụ cơ bản nhất đáp ứng đúng nhu cầu của họ.
- Nhóm 5 - Curious novices (“Thích khám phá”): Nhóm khách hàng luôn tìm kiếm sự gợi ý và đề cao sự hỗ trợ từ nhà mạng. Nhóm khách hàng này muốn gia nhập xu hướng mới trong liên lạc kết nối nhưng chưa rõ phải làm thế nào. Họ cần những sự hỗ trợ kỹ thuật, cảm giác cởi mở thân thiện khi được tư vấn
-
Nhóm 6 - Control Seekers (“Thích kiểm soát”): Nhóm khách hàng muốn kiểm soát được chi phí và lưu lượng họ sử dụng dịch vụ thông qua các gói dịch vụ. Họ thường sử dụng các dịch vụ trả trước.
Qua đây có thể cơ hội dành cho các nhà khai thác viễn thông. Nhà khai thác cần cung cấp cho nhóm khách hàng “Performance Seekers” những cách có thể đánh giá được chất lượng mạng. Nhóm Curious Novices sẽ gắn bó với nhà mạng luôn có một người hỗ trợ cho họ các vấn đề về kỹ thuật nếu có. Và nhóm Control Seekers sẽ cần được đảm bảo và cho quyền được trả lại những dịch vụ mà không đáp ứng được mong muốn của họ.
Minh Anh
Đi bộ 4 km sạc đầy iPhone
Submitted by nlphuong on Wed, 03/07/2013 - 05:57(ICTPress) - Khi bạn đi lại, năng lượng phát ra từ những bước chân được chuyển thành nguồn điện được lưu vào trong pin.
(ICTPress) - Thật ngán ngẩm khi thiết bị di động của bạn bị hết pin. Thay cho việc bạn phải cắm vào các ổ cắm điện trên tường và đợi được sạc đầy thì nay công ty ở Pittsburgh, Pa., Mỹ đã thiết kế một giải pháp cho vấn đề này thậm chí có thể giúp đỡ cho các nước đang phát triển.
Công ty tiết kiệm năng lượng SolePower đã sáng tạo ra một chiếc đế giày có thể sạc cho các thiết bị di động trong khi bạn đang đi lại. Chiếc đế giày đặc biệt này vừa vặn với đôi giày của bạn và có một dây sạc điện kéo dài. Dây sạc này sẽ cắm vào pin, buộc quanh mắt cá chân hay buộc chặt vào giày của bạn.
Khi bạn đi lại, năng lượng phát ra từ những bước chân được chuyển thành nguồn điện được lưu vào trong pin. Pin sau đó có thể được cắm vào các thiết bị điện tử xách tay như điện thoại di động, radio hoặc các thiết bị GPS. Hiện tại mẫu đế giày này được sử dụng cho 100 triệu bước đi. Mục tiêu là sẽ có các đế giày có thể sạc đầy iPhone chỉ cần đi bộ 2,5 dặm (4km).
SolePower bắt đầu như là một dự án thiết kế tại Đại học Carnegie Mellon và nhóm này hiện tiếp tục phát triển thông qua công ty nuôi dưỡng tài năng AlphaLab có trụ sở tại Pittsburgh. Công ty mới này hi vọng giúp đỡ các quốc gia đang phát triển thông qua một chương trình mua 1 tặng 1. Đế giày này không giống như model TOMS Shoes nhưng SolePower cho phép người Mỹ mua hai đế giáy và gửi 1 đế giày cho ai đó ở nước ngoài.
SolePower đang nỗ lực thu được 50.000 USD để phát triển hơn nữa mẫu đế giày này và sẽ giúp kết luận sản phẩm. Với 40 ngày còn lại trong chiến dịch, những người ủng hộ đã thu được hơn 13.700 USD. Một số lượng người ủng hỗ giới hạn đã thu được ít nhất 100 USD có thể là những người đầu tiện nhận được đế giày SolePower.
QM
Chuyển đổi IPv6: Kinh nghiệm thực tiễn của Trung Quốc
Submitted by nlphuong on Mon, 01/07/2013 - 00:19(ICTPress) - Không những Chính phủ phải sớm ban hành chương trình quá độ sang IPv6 mà chính phủ còn phải ra các văn bản chỉ đạo mục tiêu và kế hoạch phát triển cho từng giai đoạn, đồng thời phải ban hành một loạt chính sách để hỗ trợ quá độ sang IPv6.
(ICTPress) - Tháng 4 vừa qua, Diễn đàn IPv6 toàn cầu và Trung Quốc đã phối hợp tổ chức Hội nghị cấp cao thế giới về IPV6 tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Hội nghị lần này có chủ đề: “Tăng tốc xây dựng cơ sở hạ tầng cho mạng Internet thế hệ mới, thúc đẩy sử dụng rộng rãi mạng Internet”.
Ông Latif Lakid, Chủ tịch Diễn đàn IPv6 toàn cầu nhấn mạnh trong bài phát biểu tại Hội nghị: Trong 10 năm qua, trên toàn thế giới IPv6 phát triển khá tốt. Hiện nay toàn thế giới có 22,4% các mạng cao cấp sử dụng IPv6 và có khoảng 18% thuê bao Internet sử dụng IPv6. Trung Quốc đã đóng một vai trò quan trọng không thể phủ nhận, trong 10 mạng cao cấp của thế giới, có 3 mạng là của Trung Quốc. 5% số thuê bao sử dụng IPv6. Điều đó chứng tỏ hiệu suất xây dựng IPv6 của Trung Quốc đang được nâng cao.
Ông Lưu Đông, Chủ tịch Liên minh mạng Internet thế hệ mới của Trung quan Thôn (Khu khoa học công nghệ cao của Trung Quốc), Đồng Chủ tịch Hội nghị Diễn đàn Internet toàn cầu thế hệ mới cho rằng: IPv6 đã trở thành con đường phát triển duy nhất và tất yếu cho mạng Internet toàn thế giới thế hệ mới, toàn bộ hệ thống mạng Internet hiện tại sẽ được nâng cấp toàn diện.
Theo các báo cáo của Trung Quốc thì đến cuối tháng 12/2012, toàn Trung Quốc có có 331 triệu địa chỉ IPv4, bình quân đầu người có 0,6 địa chỉ, trong khi đó bình quân đầu người ở Mỹ có 6 địa chỉ. Bộ Công nghiệp Thông tin Trung Quốc dự báo 5 năm tới Trung Quốc cần có 34,5 tỷ địa chỉ IP!!!
Nhận rõ tầm quan trọng của IPv6 và nhu cầu nội tại, Trung Quốc đã sớm triển khai nghiên cứu thử nghiệm IPv6 với sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ. Ngay từ năm 2003, Chương trình Mạng Internet thế hệ mới của Trung Quốc (Viết tắt là CNGI) được 7 Bộ và cơ quan nhà nước bảo trợ đã chính thức công bố. Tại Olympic Bắc Kinh năm 2008, Trung Quốc đã giới thiệu mạng Internet sử dụng IPv6. Tháng 10/2009, Dự án mạng trục CERNET2 (nằm trong chương trình CNGI) ứng dụng IPv6 đã kết nối 25 cổng truy nhập Internet ở 25 thành phố của Trung Quốc. Đầu năm 2012, Chính phủ Trung Quốc công bố “Những ý kiến chỉ đạo về mạng Internet thế hệ mới trong giai đoạn 2012 - 2015”, trong đó xác định đến năm 2015 mức độ phổ cập Internet ở Trung Quốc phải đạt đến 45%. Số thuê bao băng rộng kết nối với IPv6 đạt 25 triệu (trong tổng số 370 triệu cổng kết nối băng rộng). Tốc độ kết nối Internet cho các thuê bao ở thành phố đạt 20Mbit/s, ở nông thôn là 4Mbit/s.
Tính đến tháng 3/2012 số địa chỉ IPv6 đi vào sử dụng ở Trung Quốc đứng thứ 3 thế giới, tăng 23 lần so với đầu năm 2011. Dưới đây là vài nét về kế hoạch và kết quả triển khai chuyển đổi IPv6 của 3 đại gia viễn thông ở Trung Quốc.
China Telecom: đã khai trương dịch vụ IPv6 băng rộng ở 3 thành phố: Nam Kinh, Trường Sa, Vô Tích. Dự kiến đến cuối năm 2013 tiếp tục mở rộng ra 20 thành phố, trong đó có Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Tây An v.v.... Hiện nay ở các khu vực mà China Telecom đang thử nghiệm IPv6, số thuê bao băng rộng kết nối IPv6 đã lên tới 20 vạn. China Telecom đã cùng với Công ty thông tin có dây Comcast của Mỹ trở thành 2 nhà khai thác viễn thông có mạng IPv6 lớn nhất thế giới.
China Mobile: Phát triển IPv6 di động chia làm 3 giai đoạn. Ở giai đoạn khởi động, China Mobile đang tiến hành thử nghiệm rộng rãi tại nhiều địa điểm; Giai đoạn 2014-2015 sẽ tiến hành nâng cấp toàn mạng lên IPv6; Trong năm 2016, China Mobile sẽ mở rộng thí điểm sử dụng IPv6 ở 10 thành phố, ước tính số thuê bao IPv6 sẽ đạt khoảng 3 triệu địa chỉ IPv6.
China Unicom: China Unicom phát triển IPv6 theo 3 giai đoạn: từ 2011 đến đầu năm 2013 là giai đoạn tổ chức các thí điểm mang tính thương mại; từ 2013 đến 2015 là giai đoạn nâng cấp xây dựng mạng IPv6 một cách bài bản và quy mô. China Unicom hy vọng trong 2 giai đoạn này đến cuối năm 2013 sẽ có khoảng 3 triệu thuê bao băng rộng kết nối IPv6, đến năm 2015 thực hiện việc kết nối IPv4 và IPv6 cùng sử dụng song song và kết nối với nhau. Từ 2015 đến 2020 là giai đoạn phát triển và phổ cập IPv6.
IPv6 có ưu thế tuyệt đối về địa chỉ IP vô hạn so với IPv4 và các ưu điểm khác như độ an toàn cao, dễ mở rộng, dễ quản lý, kết nối dễ v.v... Tuy nhiên thực tế, việc xây dựng IPv6 trên toàn thế giới là không đồng đều, thậm chí ở một số nơi đạt hiệu quả thấp. Trung Quốc cũng như nhiều nước khác khi quá độ từ IPv4 sang IPv6 sẽ gặp ngay 3 trở ngại lớn sau đây:
Trở ngại lớn thứ nhất: Các thiết bị và mạng thông tin sử dụng IPv4 hiện nay đã đi sâu vào công việc và đời sống xã hội, rất khó có thể chuyển dịch toàn bộ sang IPv6 trong một thời gian ngắn. Hơn nữa, trong giai đoạn phát triển ban đầu của IPv6, các nhà nghiên cứu chưa chú ý đến việc nghiên cứu các giải pháp sử dụng song song IPv4 và IPv6 mà mới tập trung nghiên cứu giải quyết các khuyến nghị để xây dựng mạng Internet thế hệ mới, điều này là một trở ngại lớn để mở rộng IPv6. Tuy nhiên, các nước đều đang tích cực xây dựng kế hoạch để có giải pháp quá độ thuận lợi từ IPv4 sang IPv6. Hiện nay có 3 giải pháp chủ yếu: sử dụng “dual stack”, thiết lập đường hầm và thay đổi địa chỉ.
Trở ngại lớn thứ hai: Thực tiễn cho thấy để chuyển đổi một khối lượng thiết bị, mạng lưới và các ứng dụng từ IPv4 sang IPv6 cần có khoản đầu tư lớn và thời gian khá dài và trong một thời gian ngắn thì khoản đầu tư này chưa cho thấy hiệu quả rõ rệt. Các doanh nghiệp (DN) thường phải cân đối thu chi, tính toán lỗ lãi khi đầu tư. Chính vì thế mà phần lớn các DN vừa và nhỏ khá thận trọng và rụt rè khi chuyển đổi sang IPv6. Vì vậy ở Trung Quốc cũng như trên thế giới, thời gian việc nâng cấp lên mạng Internet IPv6 hầu hết tập trung ở các tập đoàn, doanh nghiệp lớn như Google, Facebook, Yahoo v.v....
Trở ngại lớn thứ ba: IPv6 có nhiều ưu điểm so với IPv4, tuy nhiên trước mắt thì những ưu thế về kỹ thuật này chưa thể hiện được nhiều trong các ứng dụng. Hiện nay phần lớn các ưu thế của IPv6 được thể hiện trong việc chế tạo các thiết bị phần cứng của các nhà sản xuất, còn các thành viên khác trong chuỗi sản xuất của mạng Internet thế hệ mới khó cảm nhận được điều này. Đó là chưa kể khi sử dụng mạng IPv6 và sử dụng mạng IPv4 cảm nhận của thuê bao không khác biệt là mấy. Vì vậy, không ít thuê bao rất khó từ bỏ IPv4 để chuyển sang IPv6.
Để giải quyết những trở ngại lớn này, kinh nghiệm thực tiễn của Trung Quốc cho thấy cần hết sức chú trọng tiến hành những giải pháp sau đây:
1/ Nêu cao vai trò chỉ đạo và chủ động của Chính phủ
Không những Chính phủ phải sớm ban hành chương trình quá độ sang IPv6 mà chính phủ còn phải ra các văn bản chỉ đạo mục tiêu và kế hoạch phát triển cho từng giai đoạn, đồng thời phải ban hành một loạt chính sách để hỗ trợ quá độ sang IPv6.
Trong ý kiến chỉ đạo về phát triển mạng Internet thế hệ mới của Trung Quốc giai đoạn 2012 - 2015, chính phủ Trung Quốc đã xác định sách lược: “Chính phủ dẫn dắt, thúc đẩy ứng dụng, tích cực quá độ, mở cửa sáng tạo, bảo đảm an toàn, phát triển nhảy vọt”. Ngoài ra, Chính phủ còn sớm dành những khoản đầu tư cho nghiên cứu phát triển IPv6 và đầu tư để hỗ trợ các DN mạnh dạn chuyển đổi sang IPv6…
2/ Thúc đẩy sự liên kết và hợp lực của chuỗi các DN trong ngành để đưa nhanh IPv6 vào khai thác thương mại
Chuyển đổi sang IPv6 cần thời gian dài và đầu tư lớn, một DN riêng lẻ không thể triển khai được mà cần có sự liên kết, hợp lực của nhiều thành viên trong chuỗi DN trong ngành, trước hết là các nhà khai thác viễn thông. Chính vì vậy, Chính phủ Trung Quốc đã đề ra nhiệm vụ cụ thể cho các đại gia viễn thông của Trung Quốc như China Mobile, China Telecom, China Unicom, China Netcom v.v.... khi quá độ sang IPv6. Hiện nay các DN viễn thông và công nghệ thông tin của Trung Quốc đã đạt được nhận thức chung khi quá độ sang IPv6 là: quá độ sang IPV6 không phải là việc một sớm một chiều, trong tương lai dự kiến IPv4 và IPv6 sẽ cùng tồn tại lâu dài, đồng thời lấy IPv6 làm chính, IPv4 làm phụ cho đến khi IPv6 hoàn toàn thay thế IPv4.
Các cơ quan nghiên cứu của Trung Quốc cũng cho biết: Hiện nay trên mạng Intrenet của Trung Quốc tồn tại sự chuyển đổi giữa 2 cấp địa chỉ IP. Chuyển đổi từ IPv4 sang IPv6 có thể kết nối trực tiếp qua lớp ứng dụng. Cần thúc đẩy các nhà cung cấp ứng dụng và các nhà khai thác tiến hành thương thảo, tích cực giải quyết các trở ngại khi chuyển đổi.
3/ Tăng cường công tác thông tin truyền thông về quá độ sang IPv6 cho cộng đồng các DN và các thuê bao, đồng thời sớm xây dựng và ban hành các gói cước hấp dẫn để khuyến khích các thuê bao chuyển sang sử dụng IPv6.
Hy vọng những kinh nghiệm thực tiễn của quá trình xây dựng mạng Internet thế hệ mới của Trung Quốc với những kết quả khả quan sẽ giúp ích cho chúng ta trong bước đường quá độ sang IPv6 sắp tới.
Nguyễn Ngô Hồng
Tài liệu tham khảo
[1]. Liêu Kiếm Phong, Ba trở ngại lớn khi quá độ sang IPv6, cần các doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất đồng tâm hiệp lực, Báo Thông tin và Truyền thông, WWW.cnii.com.cn ngày 17/4/2013.
[2]. www.apnic.net/ipv6content/chinesse.
[3]. www.en.Wikipedia.org/IPV6 deployment.
[4]. www.gov.cn 11/6/2012.
[5]. www.cnii.com.cn ngày 18/4/2013 Lưu Đông.