Tri thức chuyên ngành
6 cách thức IBM hướng DN bảo vệ hệ thống CNTT khi có thảm họa
Submitted by nlphuong on Mon, 09/01/2012 - 22:35(ICTPress) - Năm 2011 là một năm với những thảm họa nhiều tỷ đô la. Do đó, khi xảy ra một sự cố bất ngờ, điều tất yếu là chúng ta cần phải bảo vệ dữ liệu cũng như duy trì hoạt động liên tục của các hệ thống CNTT.
(ICTPress) - Năm 2011 là một năm với những thảm họa nhiều tỷ đô la. Do đó, khi xảy ra một sự cố bất ngờ, điều tất yếu là chúng ta cần phải bảo vệ dữ liệu cũng như duy trì hoạt động liên tục của các hệ thống CNTT.
Thảm họa động đất, sóng thần hồi tháng 3/2011 tại Nhật Bản (Ảnh: ITU) |
Theo thống kê, năm 2011 là một năm với những thảm họa nhiều tỷ đô la, với một loạt những cơn bão và lốc xoáy tại các miền Trung Tây và Đông Nam nước Mỹ, sóng thần tại Nhật Bản, động đất ở Biển Đông, Colorado và Peru, trận lụt khủng khiếp tại Queensland và mới đây là trận lụt tại Bangkok. Có thể nói thảm họa tự nhiên là một trong những rủi ro lớn nhất.
"Hơn bao giờ hết, chúng ta đang ngày càng phụ thuộc vào công nghệ. Do đó, khi xảy ra một sự cố bất ngờ hay một thảm họa tự nhiên nào đó, điều tất yếu là chúng ta cần phải bảo vệ dữ liệu cũng như duy trì hoạt động liên tục của các hệ thống CNTT và kinh doanh trong tổ chức và doanh nghiệp (DN) của mình," Ông Hàn Quốc Ân, Giám đốc phụ trách bộ phận Dịch vụ công nghệ toàn cầu của IBM Việt Nam, cho biết. "Trong những trường hợp này, rõ ràng là những tổ chức và DN đã chuyển từ mô hình thụ động cũ - đó là hứng chịu tác động và tùy cơ phản ứng - sang một mô hình chủ động mới - đó là dự báo và điều chỉnh. Điều đó rõ ràng đã giúp chúng ta tránh được những hậu quả và gián đoạn hoạt động kinh doanh sau thảm họa hơn rất nhiều."
Dưới đây, IBM đưa ra 6 cách thức mà tổ chức và DN sẵn sàng đối phó với thảm họa trong trường hợp xảy ra:
Thứ nhất, nhân viên là tài sản quan trọng nhất của công ty, nhưng tài sản quý giá nhất của nhân viên lại là gia đình của họ. Vì thế, DN nên cân nhắc việc hỗ trợ sơ tán cả nhân viên lẫn gia đình họ khi cần thiết như thế nào, ví dụ như cung cấp và hỗ trợ tài chính trong trường hợp xảy ra thảm họa, hoặc cung cấp các dịch vụ tư vấn để giúp họ đối phó với hậu quả của thảm họa cũng là một vài gợi ý.
Thứ hai, phương thức truyền thông với nhân viên và đối tác. Sau con người, yếu tố quan trọng nhất là truyền thông. Các hoạt động truyền thông ở đây là truyền thông nội bộ DN cũng như với các đối tác, nhà cung cấp, khách hàng, cơ quan báo chí… và ngược lại. Những hoạt động truyền thông với các kênh này cần phải kịp thời, rõ ràng và trung thực, bởi nội dung truyền thông sai lệch có thể làm cho thảm họa trở nên nghiêm trọng hơn. DN cần xem lại họ đang sử dụng những công cụ truyền thông nào và quan trọng hơn là DN đã bao giờ chạy thử kế hoạch truyền thông này hay chưa.
Thứ ba, sao lưu dữ liệu. Hãy đảm bảo rằng dữ liệu của DN không bị sai lệch và luôn có thể truy cập được từ địa điểm khôi phục sau thảm họa. Cân nhắc việc sử dụng dịch vụ điện toán đám mây để lưu trữ những dữ liệu quan trọng bởi công nghệ này sẽ mang lại khả năng linh hoạt cao cũng như giảm thiểu mức độ gián đoạn hoạt động kinh doanh khi DN phải đối phó với những điều kiện biến động.
Thứ tư, cân nhắc “hiệu ứng đô-mi-nô” khi đánh giá rủi ro kinh doanh. Thực tế từ các thảm họa ở tầm khu vực đã cho thấy những sự cố ban đầu thường dẫn đến các hậu họa khác. Chẳng hạn, một cơn bão thường có gió lớn và mưa to sẽ gây ra lụt lội, đổ nhà, mất điện, gián đoạn hoạt động viễn thông và giao thông. Vì thế, khi cân nhắc và lên kế hoạch chuẩn bị đối phó với các thảm họa, DN cần xem xét đến các khả năng có thể liên quan này.
Thứ năm, lập kế hoạch để đối phó với những thảm họa có thể kéo dài. Ví dụ, các DN cần phải xem xét tầm ảnh hưởng nếu sự gián đoạn liên quan đến hạ tầng, mạng, công nghệ hoặc con người kéo dài hơn 3 ngày, một tuần, v.v... Trong thập kỷ vừa qua, chúng ta đã thấy nhiều thảm họa nghiêm trọng diễn biến kéo dài kèm theo những ảnh hưởng nặng nề về mặt tài chính. Các DN cần cân nhắc các lựa chọn nếu môi trường làm việc chính hoặc những nhân sự chủ chốt không thể trở lại hoạt động trong khoảng thời gian hơn 2 tuần.
Thứ sáu, DN cần suy nghĩ và hành động một cách tổng thể. Mỗi DN đều là một phần của một chuỗi hoặc một mạng lưới cung ứng. DN bạn có thể chuẩn bị sẵn sàng mọi việc nhưng các đối tác hay nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ liên quan cũng luôn phải sẵn sàng. Một phần quan trọng trong kế hoạch khôi phục sau thảm họa của tổ chức, là phải đảm bảo mọi người, mọi khâu, từng đơn vị trong toàn bộ hệ thống kinh doanh của DN cũng luôn được chuẩn bị sẵn sàng.
PL
Chuyển đổi bưu chính để phát triển
Submitted by nlphuong on Tue, 03/01/2012 - 10:19(ICTPress) - Bưu chính nhiều nước hiện nay đang tiến hành các chuyển đổi để tăng trưởng và phát triển bền vững do những thách thức mới như sự phổ biến của công cụ điện tử, khó khăn về kinh tế.
TS. Trần Thị Thập
Bưu chính nhiều nước hiện nay đang tiến hành các chuyển đổi để tăng trưởng và phát triển bền vững do những thách thức mới như sự phổ biến của công cụ điện tử, khó khăn về kinh tế.
Bài viết trình bày những sơ lược về các động lực chuyển đổi bưu chính, cách xây dựng chiến lược chuyển đổi và kinh nghiệm một số nước.
Các động lực chuyển đổi bưu chính và những quyết định chiến lược đầu tiên
Sự chuyển đổi bưu chính toàn diện bắt đầu từ 20 năm trước. Châu Âu là lục địa đầu tiên có những chuyển đổi bưu chính từ các tổ chức nhà nước sang các công ty bưu chính theo định hướng thị trường. Tuy vậy, bên cạnh tác động bởi khung pháp lý đến sự chuyển đổi bưu chính, các động lực khác cũng diễn ra với cường lực ngày càng mạnh, chủ yếu theo các bình diện sau:
- Toàn cầu hóa: toàn cầu hóa đã vượt qua thời kỳ được coi là một khẩu hiệu mà trở thành mục tiêu trọng tâm của các ngành kinh doanh, gồm cả các dịch vụ bưu chính. Với việc giảm các rào cản thương mại, mở cửa thị trường và việc cải thiện mạnh mẽ cơ sở hạ tầng thông tin, các công ty kinh doanh sẽ không chỉ đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt mà sẽ phải tìm kiếm các cơ hội mới trên thị trường quốc tế. Các nhà quản trị bưu chính sẽ không thể núp sau thị trường bưu chính nội địa khép kín dưới sự bảo hộ độc quyền bưu chính của nhà nước.
- Giảm bớt độc quyền bưu chính: Xu hướng giảm bớt độc quyền bưu chính bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố mà những yếu tố này lại tác động mạnh mẽ tới các nhà hoạch định chính sách. Hai trong số đó là lĩnh vực tư nhân và và tổ chức tài chính thế giới. Lĩnh vực tư nhân là lực lượng chi phối hoạt động vận chuyển và truyền thông, họ thành lập các nhóm hoạt động và thông qua các yêu sách là cần thiết phải có một sân chơi bình đẳng, giảm độc quyền bưu chính xuống mức tối thiểu. Các tổ chức tài chính thế giới - như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) - ủng hộ hạn chế kiểm soát của chính phủ và tăng quyền tự chủ cho các công ty tư nhân.
- Sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia: Kinh doanh bưu chính có mối liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế quốc gia. Chuyển đổi bưu chính thành công thường gắn kết với những chuyển đổi tích cực cho các khu vực khác của nền kinh tế mà thu hút các nhà kinh doanh mới. Ngược lại, nếu nền kinh tế của đất nước mạnh thì lưu lượng bưu chính sẽ tăng.
- Thị trường của người mua: Những người mua - khách hàng bưu chính rất khắt khe và không bao giờ thỏa mãn với các tiêu chuẩn hiện có của dịch vụ bưu chính. Họ muốn được cung cấp các dịch vụ bưu chính nhanh hơn, đáng tin cậy hơn và theo các yêu cầu cá nhân của họ. Điều gì sẽ xảy ra nếu các công ty bưu chính không thể đáp ứng các nhu cầu đó? Đơn giản là khách hàng sẽ tìm kiếm các nhà cung cấp khác. Sự lựa chọn của khách hàng trong 5 năm tới là gì ? Nếu các doanh nghiệp bưu chính không sẵn sàng ở phía trước đó thì sẽ sớm gặp khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường mà trước kia phần lớn dành cho họ.
- Sự phát triển công nghệ: Công nghệ sẽ tạo ra sự tăng trưởng của các dịch vụ bưu chính. Rất nhiều nhà cung cấp dịch vụ đã chứng tỏ rằng họ có thể sử dụng công nghệ để tạo ra các dịch vụ bưu chính mới nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, mạng lưới phân phối và cung cấp các thông tin định vị bưu gửi cho khách hàng.
Rõ ràng là chuyển đổi bưu chính là thực sự cần thiết xét cả từ bên trong và bên ngoài khu vực bưu chính, tuy vậy việc chuyển đổi nên bắt đầu từ đâu là vấn đề mà các nhà quản trị bưu chính quan tâm. Ở châu Âu, Hà Lan và Đức là những nước đầu tiên thiết lập một khung pháp lý để cho phép bưu chính chuyển đổi các công ty cạnh tranh. Bưu chính Hà Lan (Dutch Post) và BC Đức (Deutsche Post) theo đuổi một chiến lược trở thành công ty hợp nhất toàn cầu. Các tổ chức bưu chính như Italia và Áo thực hiện chiến lược “theo sau người dẫn đạo” trong khu vực/hoặc dịch vụ, trong khi bưu chính các nước khác tập trung vào đáp ứng nghĩa vụ dịch vụ phổ cập quốc gia (USO). Dù là chiến lược nào đi chăng nữa thì các công ty bưu chính thành công đầu tiên đều tập trung vào việc tái cấu trúc cơ cấu kinh doanh cốt lõi của họ.
Ví dụ, Bưu chính Đức có bốn giai đoạn khác nhau trong toàn bộ quá trình chuyển đổi. Đầu tiên Bưu chính Đức tái cấu trúc các lĩnh vực kinh doanh như thư, bưu kiện và bán lẻ. Điều này tạo nền tảng cho giai đoạn tiếp theo là mở rộng việc kinh doanh theo địa lý. Giai đoạn thứ ba là mở rộng sang các lĩnh vực kinh doanh khác với sự tập trung mạnh mẽ vào lĩnh vực kho vận (logistics). Giai đoạn cuối là hình thành giá trị cao hơn cho các cổ đông của công ty.
Hình 1: Bốn lĩnh vực kinh doanh cơ bản của Deutsche Post DHL dựa trên hai trụ cột chính là bưu chính và giao nhận |
Có người cho rằng đa dạng hóa thoát khỏi việc kinh doanh cốt lõi là một chiến lược đúng đắn khi tính đến việc sụt giảm lượng thư rõ ràng như hiện nay. Do đó, thú vị là cả Bưu chính Hà Lan và Đức gần đây lại tập trung nhiều hơn vào việc kinh doanh cốt lõi là thư trong nước. Bưu chính Hà Lan đã bán hết các hoạt động kho vận trong năm 2006 để tập trung vào kinh doanh thư và chuyển phát nhanh. Bưu chính Đức đã bán bộ phận ngân hàng bưu chính. Cả hai công ty này hiện nay đã tập trung mạnh mẽ hơn vào việc kinh doanh thư trong nước hơn trước đây.
Tập trung vào kinh doanh bưu chính cốt lõi thậm chí phù hợp hơn với bưu chính các nước chưa tiến hành quá trình chuyển đổi lớn. Chỉ khi họ đã thành công trong tái cấu trúc hoạt động kinh doanh cốt lõi thì họ mới dành được quyền mở rộng vào các lĩnh vực kinh doanh hay các khu vực khác.
Khung chuyển đổi
Khung chuyển đổi được đề cập dưới đây phù hợp với bưu chính nhiều nước đang khởi động một chương trình chuyển đổi. Đó là mục tiêu thực tế mà khi ứng dụng có thể xem xét tình hình cụ thể của bưu chính để tiến hành chuyển đổi.
Xây dựng kế hoạch tổng thể
Làm rõ lý do chuyển đổi
Cần phải làm rõ cho tất cả các bên liên quan (nhân viên, cổ đông, khách hàng, công chúng) tại sao cần thiết phải chuyển đổi. Có phải là do khủng hoảng tài chính, hay bởi vì các quá trình kinh doanh truyền thống không còn phù hợp, hay bởi vì khách hàng không phải là trọng tâm? Có rất nhiều lý do để chuyển đổi và do đó một sự phân tích rõ ràng và mô tả tại sao phải chuyển đổi là rất cần thiết. Điều này cũng bao gồm việc thông báo sự chuyển đổi này khác với bất kỳ các chương trình chuyển đổi trước đây như thế nào.
Xác định định hướng chiến lược và các mục tiêu chuyển đổi
Bước tiếp theo là xác định định hướng chiến lược ở cấp công ty và cấp đơn vị kinh doanh (SBU) cho một khoảng thời gian cụ thể. Trên cơ sở định hướng chiến lược này, các mục tiêu chuyển đổi phải được xác định. Khi xem xét các mục tiêu tổng thể như cải tiến dịch vụ, gia tăng doanh thu, giảm các chi phí, tăng cường các khả năng nhân sự hay tăng cường hình ảnh của công ty cần phải xác định và ưu tiên các mục tiêu này có liên quan đến tình hình cụ thể của công ty hay không ? Các mục tiêu này nên được cụ thể và có thể đánh giá, ví dụ “tăng trưởng doanh thu trong kinh doanh cốt lõi là 10%”.
Thiết lập danh mục chuyển đổi
Công việc thực sự bắt đầu với việc xác định các sáng kiến nào là cần thiết để thực hiện được chương trình chuyển đổi. Một cách thực tế để đạt được các kết quả bền vững trong một khung thời gian hợp lý là việc kết hợp một mục tiêu từ trên xuống và từ dưới lên. Thường thì nhiều sáng kiến hay ý tưởng trong công ty có thể là một nền tảng cho sự chuyển đổi. Mục tiêu từ dưới lên là để đánh giá những sáng kiến và ý tưởng nào có thể hỗ trợ các mục tiêu chuyển đổi và những sáng kiến và giá trị đó có thể đóng góp bao nhiêu vào các mục tiêu.
Nhưng dĩ nhiên công ty bưu chính không nên đơn thuần dựa vào mục tiêu từ dưới lên này bởi vì nó không phải đạt được nhiều kết quả như mong muốn. Do đó một mục tiêu từ trên xuống cũng cần thiết. Dựa vào định hướng chiến lược và các mục tiêu các sáng kiến chính cho chuyển đổi phải được xây dựng chắc chắc từ quan điểm từ trên xuống. Vì đây cũng là những ví dụ thực tế của các tổ chức bưu chính có thể tính đến.
Việc kết hợp của mục tiêu từ dưới lên và từ trên xuống sẽ tạo nên một danh mục các sáng kiến phù hợp. Những sáng kiến này có thể được phân bổ vào các mục tiêu chuyển đổi cũng như và bộ phận tổ chức liên quan trong một danh mục chuyển đổi.
Chuẩn bị thực hiện
Xây dựng một kế hoạch chuyển đổi là một việc nhưng tầm quan trọng giữa việc hình thành các kế hoạch tiến hành chắc chắc cho từng sáng kiến với các nhiệm vụ, trách nhiệm và khung thời gian cũng như tổ chức phù hợp cho việc thúc đẩy việc thực hiện này là cần thiết.
Thực hiện
Tiếp theo là thời điểm thực hiện. Việc thực hiện chuyển đổi phải được hỗ trợ bằng các công cụ báo cáo và giám sát thực tế. Tất cả các bên liên quan đến chuyển đổi phải tham gia vào trong đó có cả việc truyền thông về tiến trình chuyển đổi một cách phù hợp. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là tìm kiếm những người phù hợp để thực hiện việc triển khai và phát triển các khả năng thực hiện của những người này.
Thực tiễn chuyển đổi bưu chính ở một số nước
Bưu chính Malaysia chuyển đổi với 5 mục tiêu
Bưu chính Malaysia (Pos Malaysia Berhad) là một nhà cung cấp các dịch vụ thư độc quyền ở Malaysia. Với lịch sử 175 năm phát triển thực hiện các nhiệm vụ kinh doanh thư, vận tải, bán lẻ và các lĩnh vực liên quan. Năm 1992, Bưu chính Malaysia đã được chuyển đổi thành công ty và hoạt động như là một công ty của chính phủ (GLC).
Hiệu quả tài chính của Bưu chính Malaysia lúc đó đang sụt giảm với doanh thu hoạt động giảm từ 109 triệu Ringit năm 2005 xuống 82 triệu Ringgit năm 2009. Việc quản lý mới đã bắt đầu vào cuối năm 2008 mặc dù đến năm 2011 công ty này đối mặt với thua lỗ như một công ty bình thường. Do đó lãnh đạo công ty đã xây dựng một kế hoạch chuyển đổi tổng thể trong ba năm, được thông qua vào tháng 8/2009.
Điểm khởi đầu cho việc chuyển đổi này là một định hướng chiến lược rõ ràng: tập trung vào việc kinh doanh cốt lõi là thư, vận tải và bán lẻ trong nước trong thời gian ba năm. Việc chuyển đổi được dựa trên năm trụ cột, bắt đầu bằng các chữ cái FOCUS trong tiếng Anh:
-
Tập trung (Focus) vào các nhu cầu của khách hàng: hình thành các giải pháp mới để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng luôn có nhu cầu thay đổi.
-
Tối ưu trong hoạt động (Operation Excellence): Thúc đẩy những tiến bộ công nghệ mới nhất để cải tiến hiệu quả.
-
Tập trung (Concentrate) vào kinh doanh cốt lõi: bám sát việc kinh doanh có lãi và từ bỏ những đối nghịch.
-
Giải phóng (Unleash) nhân tài và các khả năng: phát triển và nuôi dưỡng các tài năng để nuôi dưỡng nhóm lãnh đạo tương lai.
-
Củng cố hình ảnh (Strengthen Image): Làm mới diện mạo và cảm hứng của các quầy giao dịch bưu chính và đơn giản hóa các quá trình để thỏa mãn khách hàng.
Có tất cả 39 sáng kiến đã được xác định để triển khai trong giai đoạn chuyển đổi ba năm. Những sáng kiến này bao gồm việc tăng doanh thu bằng cách giới thiệu các sản phẩm, sáng kiến mới để giảm các chi phí và cải tiến chất lượng dịch vụ. Danh mục này được bổ sung nhờ các sáng kiến nhân sự phát triển tài năng và các sáng kiến quảng bá hình ảnh của Bưu chính Malaysia thông qua việc thay đổi thương hiệu của công ty một cách toàn diện.
Giữa năm 2011 là hết một nửa thời gian của kế hoạch chuyển đổi 3 năm và việc cải tiến hiệu suất đã thực sự có kết quả. So với năm 2009 doanh thu đã tăng từ 903 triệu Ringgit lên 1,015 triệu Ringgit (+12.4%) và lợi nhuận hoạt động đã tăng từ 82 triệu Ringgit lên 106 trệu Ringgit (+29.3%). Các thành quả khác bao gồm việc giới thiệu điểm Internet bưu chính “PostMe.com.my”, các cải tiến dịch vụ như bao phủ chuyển phát D+1, giảm thời gian chờ đợi tại các quầy bưu chính và các hoạt động của trung tâm gọi.
Chương trình chuyển đổi thành công của Bưu chính Malaysia đã mang lại một số bài học có thể áp dụng rộng rãi vào ngành bưu chính:
-
Xác định rõ các mục tiêu chuyển đổi
-
Cam kết và củng cố: đạt được sự đồng thuận của những người liên quan trước khi bắt đầu chuyển đổi và sắp xếp quản lý và nhân viên trong các mục tiêu chuyển đổi.
-
Kết hợp mục tiêu từ dưới lên và từ trên xuống do đó để xây dựng dựa trên các sáng kiến hiện nay những cũng dựa trên các ý tưởng mới.
-
Tập trung vào danh mục các sáng kiến phù hợp.
-
Có các sáng kiến riêng.
-
Xác định một kế hoạch truyền thông được điều chỉnh phù hợp cho các nhóm mục tiêu khác nhau.
Bưu chính Canada tập trung đầu tư thiết bị
Hàng ngày, Bưu chính Canada (Canada Post) chuyển phát 45 triệu thư đến 15 triệu địa chỉ để giúp khách hàng liên lạc, gửi và nhận các thanh toán, quảng cáo và vận chuyển hàng hóa. Bưu chính Canada đang tiến hành làm mới hạ tầng quốc gia và chương trình này được gọi là Chuyển đổi Bưu chính (Postal Transformation). Chương trình nhiều năm này gồm những đầu tư lớn vào thiết bị, công nghệ và các quy trình sẽ mang đến phạm vi và khả năng tiếp cận cho nhân viên, khách hàng ở cả các kênh vật lý và điện tử, truyền thông mục tiêu hơn và các cơ hội để xây dựng mối quan hệ khách hàng.
Mục tiêu của Bưu chính Canada là nâng cao hiệu suất và hiệu quả, giảm lượng thư không thể chuyển phát và xây dựng nền tảng cho các dịch vụ mới và được cải tiến. Bưu chính Canada tự hào là đã mở được một nhà máy xử lý thư mới gần sân bay quốc tế trong năm 2010. Nhà máy hiện đại này được đặt gần các dịch vụ vận tải hàng không và mặt đất đã giúp cho việc tiếp cận của các khách hàng tăng lên.
Như một phần của kế hoạch chuyển đổi bưu chính, Bưu chính Canada đang triển khai các đầu tư đáng kể trên toàn lãnh thổ Canada. Nhiệm vụ của Chương trình chuyển đổi này là “làm mới mạng lưới vật lý và điện tử của Bưu chính Canada để hình thành Bưu chính hiện đại”.
Mục tiêu của Bưu chính Canada là hiện đại và/hay thay thế các nhà máy, thiết bị và các quy trình lỗi thời, nâng cao hiệu quả, hiệu suất và an ninh của nhân viên và để xây dựng một nền tảng cho các khả năng cung cấp dịch vụ mới. Lợi ích của những thay đổi thiết bị này bao gồm:
-
Việc chia chọn thư được cải tiến: Thiết bị hiện đại có nghĩa là các thời điểm xử lý nhanh hơn (nhanh hơn gần 25% thiết bị hiện tại) và thời gian ngừng máy giảm; Việc xử lý thủ công giảm và các quy trình và mô hình chuyển phát hợp lý hơn.
- Cải tiến các cung cấp hiện nay: Thông tin nhiều và kịp thời hơn để theo dõi bưu kiện/gói; Việc theo dõi thư thông suốt được tăng lên; Hiệu suất đọc mã vạch và nhận dạng địa chỉ được tăng lên.
-
Tái định hướng thư tốt hơn: Khả năng tái định hướng trên cùng hướng tạo ra sự quay vòng nhanh hơn, Khả năng tái định hướng bưu kiện cũng nằm trong giai đoạn lập kế hoạch.
- Quản lý địa chỉ được cải tiến: đã làm cho thư không thể chuyển phát được giảm đi và việc lợi nhuận từ đầu tư tốt hơn.
Sẵn sàng cho tương lai - Chương trình làm mới kinh doanh của Bưu chính Australia
Tháng 4/2010, Bưu chính Australia (Australia Post) công bố thực hiện một chương trình chuyển đổi tổ chức 5 năm với tên gọi Sẵn sàng cho tương lai (Future Ready). Chương trình này thiết lập các nền tảng để hình thành một Bưu chính Australia bền vững và trọng tâm vào khách hàng.
Thế giới đã tiến lên và đã chuyển từ điện tín sang điện thoại, Bưu chính Australia phải nắm lấy cơ hội số. Chương trình Sẵn sàng cho tương lai cho phép Bưu chính Australia làm mọi thứ đã làm trong thế giới vật lý có thể làm trong thế giới số. Theo chương trình này, một nền tảng phát triển mạnh mẽ được trông cậy vào việc kinh doanh bưu kiện, bán lẻ, chuyển phát nhanh từ doanh nghiệp đến doanh nghiệp thay cho lưu lượng thư giảm. Điều này có thể thực hiện được nhờ xây dựng văn hóa hướng tới khách hàng, hợp tác với trách nhiệm và sự thông suốt mạnh mẽ, Giám đốc điều hành và CEO của Bưu chính Australia Ahmed Fahour cho biết.
Những đơn vị kinh doanh chiến lược theo Chương trình này của Bưu chính Australia bao gồm: Dịch vụ bưu chính, Bán lẻ, Chuyển phát hàng và Các dịch vụ điện tử.
Bộ phận dịch vụ bưu chính có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ thư và bưu kiện cho phép Bưu chính Australia ngăn chặn việc sụt giảm thư bằng việc tăng trưởng bưu kiện. Trong khi Internet là đối thủ số 1 của việc kinh doanh thư nhưng với bưu kiện thì Internet là người bạn tốt.
Bộ phận dịch vụ bán lẻ có trách nhiệm về mọi việc Bưu chính Australia thực hiện và mọi sản phẩm, dịch vụ Bưu chính Australia cung cấp ở 4.433 cửa hàng bán lẻ. Bưu chính Australia hiện diện ở khắp các trung tâm, thị trấn ở Australia và Bưu chính Australia muốn trở thành trung tâm của các dịch vụ quan trọng được tin cậy như hộ chiếu, thẩm định nhận thực, thanh toán và nhiều hơn thế.
Bộ phận Chuyển phát nhanh giám sát vận tải của Bưu chính Australia và việc kinh doanh kho vận, các doanh nghiệp liên doanh bao gồm Chuyển phát nhanh hàng không Australia, Chuyển phát nhanh Star Track và Sai Cheng Logistics. Bộ phận này tập trung vào thị trường doanh nghiệp đến doanh nghiệp với trọng tâm là Australia và châu Á.
Bộ phận dịch vụ điện tử là đơn vị kinh doanh mới tập trung vào các cơ hội như an ninh, chứng thực nhận dạng, truyền thông số, các sáng kiến thương mại điện tử và các dịch vụ khác có thể cung cấp bằng đường điện tử, để củng cố mạng vật lý của Bưu chính Australia.
Chương trình chuyển đổi này sẽ tái cấu trúc Bưu chính Australia trong hai năm 2010 và 2011 và sau đó sẽ chuyển sang giai đoạn xây dựng lại và phát triển từ năm 2012.
Cấu trúc nhân sự ở Bưu chính Singapore để chuyển đổi và tăng trưởng
Dịch vụ E-Postcard được Bưu chính Singapore cung cấp tại sân bay quốc tế Changi |
Tháng 1/2011, Bưu chính Singapore ra thông báo việc sắp xếp lại tổ chức trong một bước tiến đẩy mạnh chuyển đổi và tăng trưởng của mình. Theo cấu trúc mới này ông Ng Hin Lee đã được bổ nhiệm làm CEO phụ trách các dịch vụ bưu chính và doanh nghiệp. Ông Ng Hin Lee tiến hành các nỗ lực chuyển đổi trong việc kinh doanh thư của SingPost và tập trung hơn vào các dịch vụ bưu chính, các giao dịch chiến lược và các dịch vụ hỗ trợ của công ty này.
TS. Wolfgang Baier được bổ nhiệm làm CEO phụ trách lĩnh vực quốc tế để thúc đẩy việc khu vực hóa và các nỗ lực đa dạng hóa của SingPost. Những kinh nghiệm quốc tế của ông đặc biệt trong lĩnh vực kho vận là chìa khóa cho việc mở rộng của SingPost trong khu vực, tạo doanh thu trong lĩnh vực kho vận và các lĩnh vực kinh doanh phi bưu chính khác. Ông cũng phụ trách lĩnh vực Kho vận, Các dịch vụ bán lẻ và tài chính, Bán hàng và Tiếp thị cũng như các giải pháp Quantium. TS Baier, đã làm việc với SingPost về các sáng kiến trong 5 năm qua và gia nhập SingPost ngày 7/2/2011. Ông Lim Ho Kee, Chủ tịch của SingPost cho biết: Ngành Bưu chính đang đối mặt với các thách thức to lớn đặc biệt là nhờ các công cụ điện tử. Trên toàn cầu, lưu lượng thư giảm. SingPost đã bắt đầu chuyển đổi việc kinh doanh 7 năm trước và khá thành công trong việc đảo chiều xu hướng sụt giảm thư. SingPost hy vọng và tự tin có lý do rằng có thể tiếp tục con đường chuyển đổi này.
Ban điều hành của SingPost nhận thấy sự cần thiết phải đẩy mạnh các nỗ lực chuyển đổi để thích nghi hoàn cảnh và tăng trưởng. Đồng thời, SingPost cam kết những lợi ích tốt nhất của các cổ đông khác nhau, các nghĩa vụ xã hội và dành các nguồn lực riêng để đảm bảo một cấp dịch vụ tốt mà công chúng mong đợi. SingPost cũng hướng tới các cổ đông, nhân viên, khách hàng để tiếp tục tăng trưởng cả trong nước và khu vực và duy trì sự bền vững.
Với một đội ngũ quản lý được củng cố và các nguồn lực đi cùng để tập trung hơn vào các dịch vụ bưu chính cũng như việc toàn cầu hóa và các nỗ lực đa dạng hóa, SingPost mong muốn đạt đến các hiệu suất cao hơn.
Để chuyển đổi thành công, bưu chính các nước phải đánh giá tình hình của mình, xác định và triển khai các chương trình chuyển đổi phù hợp với nước mình.
Tài liệu tham khảo
[1]. Marten Buettner, A major transformation programme, Monday, 4/7/2011.
[2]. Các trang web: Canada post, Australia Post
Wi-Fi tốc độ 1 Gbit/s sẽ xuất hiện vào năm 2012
Submitted by nlphuong on Mon, 26/12/2011 - 00:56Broadcom cho biết rằng chuẩn Wi-Fi 802.11ac sắp đến sẽ thay thế cho chuẩn 802.11n trong các dòng sản phẩm phần cứng điện tử dân dụng vào cuối năm 2012.
Wi-Fi 1Gbit/s 802.11ac của NTT giới thiệu hồi tháng 7/2011 |
Broadcom cho biết rằng chuẩn Wi-Fi 802.11ac sắp đến sẽ thay thế cho chuẩn 802.11n trong các dòng sản phẩm phần cứng điện tử dân dụng vào cuối năm 2012.
Chuẩn 802.11ac còn được biết đến với tên gọi khác là 802.11 VHT (Very High Throughput, tạm dịch là lưu lượng rất cao), sử dụng băng tần 5 GHz với các kênh có băng thông cực rộng 80 MHz và 160 MHz, tốc độ truy cập 1 Gbit/s.
Rahul Patel, Phó Tổng giám đốc Broadcom - phụ trách mảng không dây và di động, cho rằng đường truyền 802.11ac gần như gấp đôi 802.11n, với khả năng tăng băng thông khả dụng, cải thiện tuổi thọ của pin và khai thác phổ tần 5 GHz sẵn có.
"Băng tần 2,4 GHz chỉ có 3 kênh, trong khi đó băng tần 5 GHz có đến 20 kênh lẻ để sử dụng; vì thế, có nhiều tuyến truyền dẫn cao tốc rộng hơn cho lưu lượng thông tin”, Rahul Patel cho biết thêm, mặc dù thừa nhận tiêu chuẩn sẽ không được sửa đổi trong một thời gian dài. “Chỉ có một điều là 20 kênh cũng không đủ, nhưng chúng tôi sẽ có giải pháp trong vài năm tới”.
Tiêu chuẩn tiếp theo sẽ là 802.11ad, khi đó Wi-Fi sẽ được bổ sung băng tần 60 GHz. Sự hợp nhất tiềm năng Wi-Fi với băng tần 60 GHz dưới dạng chuẩn 802.11ad, sẽ cho phép cải thiện hơn băng tần 60 GHz trên cơ sở thiết lập các mạng Wi-Fi.
Dưới đây là thông tin về lộ trình phát triển của các chuẩn Wi-Fi:
- IEEE 802.11n: Tăng tốc độ dữ liệu thô cực đại từ 54 Mbit/s lên 600 Mbit/s bằng cách sử dụng 4 spatial streams (tạm dịch là chuỗi dữ liệu không gian) với một kênh rộng gấp đôi (40 MHz). Cấu trúc MIMO và các kênh rộng hơn đã cải thiện tốc độ của các kênh trên băng tần 5 GHz và 2,4 GHz.
- IEEE 802.11ac: Cung cấp lưu lượng cao trên băng tần 5 GHz, sử dụng các kênh có băng thông rộng 80 MHz hoặc 160 MHz (tối đa 40 MHz với 802.11n) và hỗ trợ lên đến 8 spatial streams (thay vì 4 spatial streams như 802.11n).
- IEEE 802.11ad: Cung cấp lưu lượng cao trên băng tần 5 GHz và 60 GHz. Băng tần 60 GHz có phạm vi phủ sóng nhỏ, do khả năng xuyên thấu thấp, nhưng với phổ tần rộng sẽ hỗ trợ lưu lượng lên đến 7 Gbit/s.
- WiGig: Một biến thể của chuẩn 802.11ad, được thiết kế riêng cho luồng video độ nét cao. Liên minh Wi-Fi và liên minh WiGig sẽ hợp tác công nghệ trên băng tần 60 GHz. WiGig có thể đạt tốc độ truyền dữ liệu lên đến 7 Gbit/s và đã được chấp nhận cho các kết nối video không dây HDMI.
- WirelessHD: Nhóm được dẫn đầu bởi SiBeam, cho phép truyền dẫn số cả có nén (H.264) lẫn không nén các tín hiệu video độ nét cao, âm thanh và dữ liệu; về cơ bản tương đương với HDMI không dây. Các đặc tính kỹ thuật của WirelessHD có các quy định để mã hoá nội dung thông qua DTCP (Digital Transmission Content Protection, tạm dịch là bảo vệ nội dung truyền dẫn số). SiBeam đã được Silicon Image mua lại hồi tháng 4/2011.
Theo Ali Sadri, Giám đốc của Intel Mobile Wireless Group và là Chủ tịch liên minh WiGig, WiGig được xác nhận như một đặc điểm kỹ thuật cơ bản cho dự thảo chuẩn 802.11ad. WiGig đã phát triển cấu hình cho các giao diện HDMI không dây, DisplayPort, USB và PCIe cũng như bảo vệ nội dung HDCP 2.0.
Liên minh WiGig hiện đang kêu gọi tạo ra một chuẩn kết nối nhiều Gbit để cho phép kết nối màn hình hiển thị từ các thiết bị khác nhau như PC, máy tính bảng, điện thoại cầm tay.
Bộ settop box và máy thu hình (TV) sẽ là một trong những thiết bị đầu tiên sử dụng chuẩn WiFi siêu nhanh.
Theo một báo cáo của In-Stat xuất bản vào tháng 02/2011, các lô hàng thiết bị sử dụng chuẩn 802.11ac sẽ tăng gần đến con số 1 tỷ và năm 2015. Chuẩn 802.11ac được kỳ vọng sẽ tăng tốc độ và hiệu suất, đáp ứng nhu cầu người dùng, nhưng vẫn duy trì khả năng tương thích ngược với chuẩn 802.11n.
Thiên Tường
rfd.gov.vn/Dailywireless
Mô hình đầu tư viễn thông, viễn thông công ích
Submitted by nlphuong on Mon, 19/12/2011 - 14:52(ICTPress) - Bài viết sẽ tập trung vào nội dung đổi mới quản lý đầu tư trong viễn thông, viễn thông công ích để góp phần phát triển bền vững thị trường viễn thông...
TS. Bùi Xuân Chung
Việt Nam đã hội nhập kinh tế được 5 năm, thị trường viễn thông Việt Nam đã có bước phát triển và cạnh tranh sâu sắc. Đối với lĩnh vực viễn thông công ích (VTCI) đã chuyển đổi từ nghĩa vụ phổ cập sang hình thức phổ cập thông qua Quỹ Dịch vụ VTCI để minh bạch và công bằng với các nhà khai thác viễn thông.
Bài viết sẽ tập trung vào nội dung đổi mới quản lý đầu tư trong viễn thông, và VTCI để góp phần phát triển bền vững thị trường viễn thông, tránh các hiện tượng cạnh tranh phá giá ảnh hưởng đến tính hiệu quả của thị trường viễn thông.
1. Những nội dung cần sự đồng thuận
Tách nghĩa vụ cung cấp dịch vụ VTCI ra khỏi quyền kinh doanh
Thực tế phát triển thị trường viễn thông đã chỉ ra việc tách nghĩa vụ công ích và kinh doanh viễn thông là thông lệ tốt trong phát triển thị trường viễn thông, những bùng nổ của thị trường viễn thông từ năm 2007 đến này đã minh chứng cho chủ trương đúng đắn này. Do vậy, giải pháp can thiệp của nhà nước thông qua hình thành Quỹ dịch vụ VTCI để cung cấp dịch vụ VTCI là đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển thị trường.
Hoạt động cung cấp dịch vụ VTCI không có tính bắt buộc với doanh nghiệp
Doanh nghiệp (DN) tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông như một hoạt động kinh doanh sản xuất hàng hoá công cho chính phủ. Có thể thấy rõ thông qua các hoạt động sản xuất thuộc y tế, và các sản phẩm y tế khác khi đưa vào phục vụ dự phòng y tế hoặc cung cấp cho đồng bào vùng sâu sẽ trở thành hàng hoá công do mục đích sử dụng. Do vậy, trong hoạt động cung cấp dịch vụ VTCI cần tính toán đủ các yếu tố để DN có thể sản xuất cung cấp dịch vụ viễn thông tiêu chuẩn.
Hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông sẽ bị điều chỉnh theo luật kinh doanh hơn là các quan hệ hành chính
Những thoả thuận cơ bản trong hợp đồng đặt hàng dịch vụ VTCI là thoả thuận giữa các bên trong cung cấp dịch vụ sẽ bị điều chỉnh theo các luật dân sự, luật thương mại và các quy định liên quan. Do vậy các quyết định hành chính sẽ không có hiệu lực với hoạt động cung cấp dịch vụ VTCI của DN.
Thị trường và việc lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ VTCI
Những hình thức lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ công trong bối cảnh thị trường viễn thông phát triển và cạnh tranh sẽ tối ưu với xã hội khi sử dụng hình thức đấu thầu. Việc phân bổ theo kế hoạch nên hạn chế và thực hiện với quy mô nhỏ.
2. Nội dung phương pháp ROI
Mô hình tỷ suất lợi nhuận trên đầu tư
Một phương pháp đo lường hiệu suất sử dụng để đánh giá hiệu quả của việc đầu tư hoặc để so sánh hiệu quả của các khoản đầu tư khác nhau là phương pháp ROI (Return on Investment). ROI được tính bằng tỷ suất của lợi ích (yêu cầu) của một khoản đầu tư chia cho chi phí đầu tư, kết quả được thể hiện dưới dạng tỷ lệ phần trăm. Mức lợi tức yêu cầu của khoản đầu tư được tính toán theo công thức sau:
Trong công thức trên "Giá trị thu được từ khoản đầu tư", đề cập đến số tiền thu được từ việc một khoản đầu tư hoặc mức lợi tức yêu cầu đối với khoản đầu tư đó. Hiệu suất đầu tư là một thước đo rất phổ biến vì tính linh hoạt và đơn giản trong quá trình hoạch định đầu tư. Tỷ suất này được sử dụng trong lựa chọn danh mục các khoản đầu tư hoặc đặt ra mục tiêu cho các khoản đầu tư.
Phương pháp ROI như một thang đo về kết quả cơ bản đối với các khoản đầu tư của xã hội. Kết quả tính toán theo phương pháp ROI là một cơ sở để hoạch định đầu tư, đối với vấn đề đầu tư của một ngành phương pháp ROI thường được tính toán trong quản lý nguồn lực xã hội đã và sẽ đầu tư cho ngành đó.
3. Tại sao phương pháp ROI đáp ứng yêu cầu
Phương pháp ROI thể hiện rõ những yêu cầu về lợi ích của các bên tham gia đầu tư, do vậy phương pháp ROI sẽ tính toán và đảm bảo cho DN phát triển bền vững trong cung cấp dịch vụ nói chung và dịch vụ công nói riêng. Những nội dung đem lại cho phương pháp ROI tính phù hợp trong thẩm định dự án phát triển dịch vụ viễn thông công ích, cụ thể:
- ROI là thang đo chuẩn mực trong việc xác định các hiện tượng phá giá, hoặc gian lận trong việc đấu thầu cung cấp dịch vụ công.
- ROI là thang đo trong việc thẩm định, lựa chọn công nghệ trong cung cấp dịch vụ VTCI.
- ROI là cơ sở để xác định mức hỗ trợ phù hợp để khuyến khích các nhà đầu tư tham gia cung cấp dịch vụ VTCI.
Đối với lĩnh vực quản lý công, việc tính toán lợi ích đầu tư thông qua phương pháp ROI sẽ là cơ sở để Chính phủ phát hiện các hành động phá giá hoặc đầu tư quá mức vào một ngành làm méo mó nguồn lực xã hội. Ngoài ra, các kết quả tính toán từ phương pháp ROI là cơ sở để Chính phủ hỗ trợ cho việc cung cấp dịch vụ công hoặc điều tiết nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực xã hội.
4. Sử dụng ROI phân tích dịch vụ VTCI và dịch vụ viễn thông kinh doanh
Bài viết sẽ sử dụng phương pháp ROI để phân tích vấn đề đầu tư trong cung cấp dịch vụ VTCI. Sử dụng chỉ tiêu ROI để tính toán các lợi ích của nhà đầu tư khi đầu tư hoặc lựa chọn công nghệ trong cung cấp dịch vụ điện thoại. Kết quả tính toán trong Bảng 1.
Bảng 1: ROI khi đầu tư vào dịch vụ điện thoại ((Nguồn phân tích dữ liệu các dự án viễn thông và các báo cáo của tổ chức BMI) |
Đối với công nghệ di động, thông tin gần đây cho thấy các nhà khai thác sẽ chưa thực hiện thu cước đối với các thuê bao có mức cước nhỏ hơn 1 USD (20.000 VNĐ)(1), chứng tỏ một nội dung: khi thị phần đã lớn các chi phí quản lý được phân bổ thấp hơn họ có thể chuyển dịch công nghệ di động sang cung cấp dịch vụ điện thoại cố định vô tuyến là một hoạt động hiệu quả phần đầu tư của nhà khai thác. Bên cạnh đó DN cũng sẵn sàng cung cấp dịch vụ với giá cạnh tranh thấp hơn mức tính toán trong bài báo.
Phía ngược lại, thông tin đối với dịch vụ cố định gần đây cho thấy mức suy giảm thuê bao điện thoại cố định, mức cước thu được trên thuê bao chỉ còn 2 USD (40.000 đồng) là những thông tin cảnh bảo về sự thay thế và lấn át của dịch vụ điện thoại cố định di động.
4. Phân tích phương án của nhà đầu tư và chính phủ
Hành vi của các chủ thể trong đầu tư và tài trợ của Chính phủ trong cung cấp dịch vụ điện thoại cố định và cố định di động, trong phân tích giả định mức gia tăng lợi ích của một thuê bao cố định di động giống với sự gia tăng một thuê bao di động.
Theo quan điểm tách bạch giữa kinh doanh và công ích thì tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư đối với hoạt động VTCI phải gần bằng với tỷ suất lợi nhuận của ngành. Tỷ suất này hiện tại khoảng 15% (Nguồn điều tra DN Việt Nam).
Sau đây là các nội dung bình luận về kết quả phân tích các kịch bản gắn với xu thế phát triển của dịch vụ điện thoại trong vùng công ích.
Kịch bản 1 (điện thoại cố định) và Kịch bản 2 (Điện thoại cố định vô tuyến): Kết quả tính toán cho thấy chưa thực sự khuyến khích nhà đầu tư đầu tư vào cung cấp dịch vụ điện thoại tại vùng công ích vì đều có ROI nhỏ hơn 15%. Nếu đầu tư theo trách nhiệm xã hội của DN thì nhà đầu tư sẽ lựa chọn phương thức đầu tư vào dịch vụ điện thoại cố định vô tuyến.
Kịch bản 3: Các nhà đầu tư sẽ thực hiện đầu tư nếu được hỗ trợ bằng phần chênh lệch với trung bình ngành là 14, 55% (15%-0,45%=14,5%).
Kịch bản 4: Các nhà đầu tư sẽ thực hiện đầu tư nếu được hỗ trợ bằng phần chênh lệch với trung bình ngành là 2, 95% (15%-12,05%=2,95%).
5. Các phát hiện nâng cao hiệu quả đầu tư VTCI
Từ việc xây dựng, lựa chọn mô hình phân tích và các số liệu thực tế bài viết đã xây dựng hệ thống phương án thể hiện mối quan hệ lợi ích giữa các bên trong đầu tư cho VTCI. Trên cở các kết quả phân tích tác giả đưa ra các phát hiện cơ bản để nâng cao hiệu quả và khuyến khích DN đầu tư vàoVTCI.
Phát hiện thứ nhất: Những phân tích nội dung công nghệ theo bốn kịch bản đã chỉ ra sự cần thiết lựa chọn công nghệ trong phổ cập dịch vụ điện thoại cố định. Với những DN đã đầu tư vào mạng cố định có sẵn nếu không hỗ trợ thì số lượng thuê bao điện thoại cố định sẽ giảm xuống gây tổn thất cho khoản đầu tư xã hội.
Phát hiện thứ hai: Phân tích về tỷ suất ROI chỉ ra nguyên nhân xu thế giảm dần của các thuê bao điện thoại cố định giống như kinh nghiệm của các nước phát triển như Nhật Bản và Hàn Quốc. Do vậy công tác quy hoạch của Chính phủ cũng cần hạn chế các dòng đầu tư vào dịch vụ điện thoại cố định để tránh tổn thất và lãng phí cho xã hội.
Phát hiện thứ ba: Khi thị trường viễn thông phát triển có tính cạnh tranh, các hợp đồng đầu thầu cung cấp dịch vụ điện thoại, mức hỗ trợ là một cơ sở quan trọng trong tính toán giá trị hợp đồng, do vậy việc tính toán mức hỗ trợ cần dựa trên mức giá đầu thầu gắn với công nghệ và dịch vụ cung cấp.
Phát hiện thứ tư: Các hiện tượng có tính phá giá như không nhận hỗ trợ trong phát triển dịch vụ sẽ làm thông tin thị trường bị méo sẽ là căn nguyên gây nên tổn thất xã hội và tạo ra lãng phí xã hội và sự giảm số lượng thuê bao điện thoại khi hết hỗ trợ.
Phát hiện thứ năm: Để ổn định trong cung cấp dịch vụ điện thoại tại các vùng khó khăn, cần có các giải pháp quy hoạch dài hạn để ổn định và nâng cao tính sẵn sàng trong cung cấp dịch vụ điện thoại. Khi đó các giải pháp có tính thị trường như Đầu thầu cung cấp dịch vụ, đấu thầu thực hiện theo hình thức BOT, BT, BTO trong cung cấp hạ tầng và dịch vụ sẽ góp phần tối ưu và hiệu quả trong cung cấp dịch vụ điện thoại tại các vùng khó khăn.
Bài viết sử dụng một phương pháp phân tích giản đơn với hy vọng đưa ra các gợi ý để phát triển bền vững dịch vụ điện thoại tại các vùng khó khăn.
Ghi chú:
([1]) Trong kinh tế khi doanh thu cận biên (MR) lớn hơn chi phí cận biên (MC) thì DN vẫn tiếp tục sản xuất, mức 1 đô la là giới hạn mà DN không muốn cung cấp dịch vụ.
Tài liệu tham khảo
[1]. Điều tra doanh nghiệp Việt Nam (http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=440&idmid=5)
[2]. Investment science (1998), Oxford University press
[3]. Vietnam telecom report (2009), BMI
5 kinh nghiệm ngừng phát hình analogue ở Nhật
Submitted by nlphuong on Mon, 12/12/2011 - 06:38(ICTPress) - Số hóa phát hình mặt đất là một xu hướng của thế giới. Ở Nhật Bản gần như toàn bộ dân số xem truyền hình qua phát hình mặt đất. Nhật Bản là quốc gia đầu tiên trên thế giới triển khai việc chấm dứt analogue trên diện rộng như vậy. Sau đây là 5 kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc triển khai ngừng phát hình analogue thành công.
(ICTPress) - Số hóa phát hình mặt đất là một xu hướng của thế giới. Ở Nhật Bản gần như toàn bộ dân số xem truyền hình qua phát hình mặt đất. Nhật Bản là quốc gia đầu tiên trên thế giới triển khai việc chấm dứt analogue trên diện rộng như vậy. Sau đây là 5 kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc triển khai ngừng phát hình analogue thành công.
Ngày 24/7/2011, theo như kế hoạch đã định, Nhật Bản chấm dứt mạng truyền hình số analogue ở tất cả các vùng, trừ những vùng bị thảm họa động đất sóng thần ngày 11/3/2011. Do thảm họa xảy ra, nên chính phủ Nhật đã tạm ngưng việc chuyển đổi sang truyền hình số mặt đất ở các quận tỉnh, Miyagi và Fukushima đến cuối tháng 3/2012.
Ở Nhật Bản, chính phủ, các đài phát hình, các nhà máy và nhiều bên liên quan khác đã nỗ lực to lớn để hoàn thành số hóa toàn diện việc phát hình mặt đất. Có rất nhiều loại công nghệ truyền hình số mặt đất được sử dụng trên toàn thế giới. Nhật Bản sử dụng công nghệ phát truyền hình số mặt đất dịch vụ tích hợp (ISDB-T - Chuẩn này được mô tả trong Hệ thống C trong Khuyến nghị ITU–R BT.1306).
Truyền hình số mang lại hình ảnh đẹp và chất lượng âm thanh hoàn hảo hơn, cũng như có nhiều kênh và chương trình để người xem lựa chọn. Các đài truyền hình có thể cung cấp nhiều chương trình đồng thời, sử dụng lượng phổ tần cần thiết cho chỉ một kênh analogue. Hơn nữa, việc chuyển sang các công nghệ số sẽ làm giảm hiệu ứng nhà kính rất lớn - gần 10 lần - do việc tiêu thụ nguồn của các trạm phát sóng giảm. Số các trạm phát cũng có thể được giảm xuống bằng cách phát nhiều chương trình trong một kênh tần số.
Ở Nhật Bản, cùng với ISDB-T, một dịch vụ phát di động được gọi là “One-Seg” mang lại một trải nghiệm xem mới mà không tốn thêm chi phí. Sự hấp dẫn của phát truyền hình số và việc tiếp cận dễ dàng các ưu điểm đã nhận được sự tin cậy của người dân Nhật Bản.
Nhật Bản đã phải hứng chịu một thảm họa động đất và sóng thần chưa từng có vào ngày 11/3, chỉ trước ngày hạn chót chấm dứt truyền hình analogue. Hiện nay, Nhật Bản đang nỗ lực xây dựng lại hạ tầng đã bị phá hủy, với sự trợ giúp của bạn bè quốc tế và bằng cách triển khai một nỗ lực quốc gia lớn “Ganbaro, Nippon!!!”. Nhiều người đã được cứu thoát từ việc cảnh báo sóng thần do One-Seg thực hiện.
Mặc dù bị thiệt hại nặng nề, việc số hóa phát hình mặt đất ở Nhật Bản đã diễn ra quy mô như kế hoạch ban đầu. Thứ 7 ngày 24/7/2011, Nhật Bản đã hoàn thành số hóa phát hình mặt đất bằng cách chấm dứt phát hình analogue, trừ các khu vực chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của động đất và sóng thần.
5 kinh nghiệm thành công
Số hóa phát hình mặt đất là một xu hướng của thế giới. Ở Nhật Bản, hơn 120 triệu người, gần như toàn bộ dân số, xem truyền hình qua phát hình mặt đất. Nhật Bản là quốc gia đầu tiên trên thế giới triển khai việc chấm dứt analogue trên diện rộng như vậy.
Sau đây là những kinh nghiệm thành công của Nhật Bản trong việc triển khai chấm dứt phát hình analogue thành công:
Kinh nghiệm 1: Tư vấn toàn diện cho nhân dân (thông qua sự hợp tác của chính phủ, các đài phát hình, các nhà sản xuất và các thợ điện)
Truyền hình là một dịch vụ phổ cập và là một hạ tầng quan trọng, mà phần lớn nhiều người coi truyền hình là một nguồn tin. Do đó việc đưa truyền hình đến với mọi người chưa biết công nghệ số, đặc biệt là những người lớn tuổi và những người có thu nhập thấp là cần thiết. Với quan điểm này Bộ Nội vụ và Truyền thông (MIC) Nhật Bản đã hợp tác với các đài truyền hình, các nhà sản xuất và các thợ điện để thiết lập 51 trung tâm hỗ trợ (được gọi là Digi- Suppos) cho người xem truyền hình số mặt đất. Những trung tâm hỗ trợ này được đặt ở các tỉnh, cho phép mọi người tiếp cận và đặt ra các câu hỏi dễ dàng. Bên cạnh đó ngay trước thời hạn ngừng phát analogue, các trạm tạm thời đã được mở nhờ sự hợp tác với các chính quyền địa phương để hỗ trợ những người dân vẫn chưa chuyển sang truyền hình số. Những tình nguyện viên cũng giúp đỡ bằng cách kêu gọi những người lớn đứng ra khẳng định họ đã chuyển sang truyền hình số.
Kinh nghiệm 2: Triển khai các biện pháp theo chương trình và ngày mục tiêu
Để chuẩn bị cho các mạng truyền dẫn, một “kế hoạch tổng thể” đã được thông báo rộng rãi về kế hoạch bắt đầu phát hình số ở từng vùng. Kế hoạch tổng thể bắt đầu ở ba thành phố lớn (Tokyo, Nagoya và Osaka) vào năm 2003 và các thành phố nhỏ hơn vào năm 2006. Những ngày bắt đầu cho các khu vực khác cũng được đề ra trong kế hoạch.
Khi phần lớn các trạm truyền dẫn đã được xây dựng, Bộ Nội vụ và Truyền thông Nhật Bản đã chuyển sự chú ý sang việc chuẩn bị một môi trường xã hội cho phát số. Digi-Suppos đã hỗ trợ các công dân giải quyết bất kỳ sự khó khăn nào về tiếp nhận, ví dụ ở đâu sóng bị chặn do núi và các tòa nhà cao tầng.
Ở những vùng đường biên của vùng phủ analogue, thì mức độ sóng thu được là rất yếu, các biện pháp bổ sung đã được thực hiện, như lắp đặt các trạm thu chia sẻ hay thay thế các anten bằng các anten khuếch đại cao. Những nơi các biện pháp này không thể thực hiện trước ngày dừng analogue, Bộ Nội vụ và Truyền thông và các đài phát hình sẽ cung cấp các mạng vệ tinh như là một biện pháp tạm thời để phát các chương trình truyền hình mặt đất.
Kinh nghiệm 3: Tăng cường sự hiện diện của đầu thu số
Chuẩn hóa các yêu cầu chức năng tối thiểu cho hộp set-top, cộng thêm các nỗ lực của các nhà sản xuất để cải tiến công nghệ, đã tạo ra các sản phẩm rẻ hơn và do vậy phổ biến được các đầu thu số. Bên cạnh đó, chính phủ đã khích lệ các khách hàng mua và chuyển sang các tivi số (được gọi là chương trình “điểm tiết kiệm”). Chương trình này đã thúc đẩy sự phổ biến của các đầu thu số. Do vậy, đã có 25 triệu chiếc tivi màn hình mỏng trong năm 2010 xuất xưởng (so với 10 triệu năm 2009). Số lượng bán ra năm 2010 là cao gấp 5 lần tháng 11/2009, nhờ được khuấy động bởi một thông báo là nửa số điểm tiết kiểm sẽ đóng cửa.
Để đảm bảo cho những người không có đầu thu số, các hộp set-top đã được phát miễn phí cho các hộ gia đình thu nhập thấp từ năm 2009.
Kinh nghiệm 4: Công bố tỷ lệ phổ biến số và ngày ngừng phát analogue thông qua hệ thống phát analogue
Chính phủ Nhật đã chia sẻ những thống kê về số hóa qua truyền thông. Những thống kê này bao gồm cả các kết quả của một cuộc thăm dò về sự phổ biến của các đầu thu số hộ gia đình và một cuộc thăm dò về sự nhận thức của người xem về thời điểm ngừng phát analogue. Các báo cáo về việc sử dụng các hệ thống thu chia sẻ tại các khu chung cư cũng đã được thông báo. Người xem do đó nhận thức rằng việc chuyển sang phát truyền hình số đang đạt được những tốc độ nhanh chóng.
Thành phố Suzu, thuộc tỉnh Ishikawa có xấp xỉ 10.000 hộ gia đình đã ngừng phát hình số trước hạn 1 năm. Kinh nghiệm này đã giúp cho việc chuẩn bị ngừng phát analogue trên toàn quốc.
CHIDEJIKA là con vật mang lại may mắn cho chiến dịch truyền hình số mặt đất ở Nhật Bản. “CHIDEJI” có nghĩa là “truyền hình số mặt đất” (terrestrial digital television) và “-KA” tương đương hậu tố của “-ization” trong tiếng Anh. “JIKA” cũng có nghĩa là hươu (deer). Do đó, “CHIDEJI”+”JIKA”=”CHIDEJIKA” là một chơi chữ cho chiến dịch lấy con hươu làm biểu tượng. Hai cái sừng của hươu CHIDEJIKA giống như hình của những chiếc anten. |
Các hãng truyền hình đã thông báo cho người xem thông qua một chương trình analogue phát trên tất cả các kênh là phát hình analogue sẽ chấm dứt vào 24/7/2011. Từ “analogue” được hiển thị trên màn hình đã thông báo cho người xem là họ đang xem chương trình analogue. Từ 1/6/2011, trong một nỗ lực cuối cùng để nâng cao nhận thức, các đài phát đã thêm một hình ảnh trên màn hình hiển thị số ngày còn lại đến ngày ngừng phát analogue. Những biện pháp này đã ngăn chặn sự phức tạp khi phát hình analogue chấm dứt.
Kinh nghiệm 5: Thúc đẩy việc chuyển sang phát hình số mặt đất bằng cách mời các nhân vật và những cá nhân như một phần của chiến lược truyền thông
Ngành đã xây dựng nhiều chiến dịch và thương mại khác nhau sử dụng hình ảnh con vật cũng như nhiều biểu tượng cho các nhóm tuổi khác nhau để thúc đẩy việc chuyển sang phát số. Các đoạn clip quảng cáo được chiếu cho người hâm mộ tại các sân vận động bóng đá và bóng rổ chuyên nghiệp, các đường đua ngựa. Những chiến dịch xã hội này đã tạo ra sự thân thiện trên toàn quốc đối với việc chuyển sang phát hình số mặt đất. Không chỉ như vậy mà còn các sản phẩm kèm theo mang hình ảnh con vật mang lại nhiều may mắn đã mang lại những tác động sâu rộng.
Bình Minh
Tham khảo: ITU, soumu.go.jp,Terrestrial Broadcasting Division
Công nghệ nào cho năm 2012 và sau nữa
Submitted by nlphuong on Mon, 05/12/2011 - 06:30(ICTPress) - Bốn công nghệ dưới đây được xem là những công nghệ tiên phong trong những năm tới.
(ICTPRess) - Một loạt các xu hướng công nghệ đang nổi lên, theo quy luật một số công nghệ đang bừng lên nhưng số khác có thể biến mất không dấu vết.
Các yếu tố đảm bảo sự bền vững của các công nghệ cụ thể thường có trạng thái thay đổi từ việc cần thiết thuần túy sang trạng thái đóng băng, từ sáng tạo đến chi phí. Bốn công nghệ dưới đây được xem là những công nghệ tiên phong trong những năm tới.
Nối mạng định nghĩa bằng phần mềm (Software defined networking SDN): SDN được dựa trên cơ chế khai phá tách bạch việc kiểm soát một luồng mạng với luồng dữ liệu. SDN là kết quả của nỗ lực tiên phong của trường Đại học Stanford và California, Berkeley và được dựa trên giao thức luồng mở (Open Flow Protocol). SDN tách định tuyến và chuyển các luồng dữ liệu riêng rẽ và chuyển kiểm soát luồng sang thành phần mạng riêng có tên gọi là thiết bị kiểm soát luồng (Flow controller). Điều này cho phép luồng các gói dữ liệu đi qua mạng được kiểm soát theo một cách có lập trình.
Giao thức luồng mở có ba thành phần - bộ kiểm soát luồng, thiết bị luồng mở và bảng luồng - và một kết nối an ninh giữa bộ kiểm soát và tổng đài. SDN cũng bao gồm khả năng ảo hóa các nguồn lực mạng. Các nguồn lực mạng được ảo hóa được biết đến như là một “ngăn mạng” (network slice). Một ngăn có thể mở rộng nhiều thành phần mạng bao gồm đường trục mạng, bộ định tuyến và các host. Khả năng kiểm soát nhiều luồng lưu lượng một cách lập trình sẽ tạo ra sự linh hoạt và nguồn lớn hơn trong tay người sử dụng.
Lưới điện thông minh (smart grid): Ngành năng lượng đã sẵn sàng cho việc chuyển đổi toàn diện với sự phát triển của khái niệm lưới điện thông minh. Hiện nay có một nhu cầu mới về hiệu quả của việc tạo nguồn, truyền dẫn và phân phối cộng với việc giảm các tổn thất năng lượng. Trong bối cảnh này, nhiều nhà cung cấp hàng đầu trong ngành năng lượng đã hướng tới lưới điện số đầu cuối tới đầu cuối được kết nối để quản lý thông minh việc truyền dẫn và phân bổ năng lượng.
Lưới điện số sẽ có các máy đo lường, bộ cảm biến và các thiết bị khác thông minh được đặt trên toàn mạng cho phép cảm biến, thu gom, phân tích và phân bổ dữ liệu đến các thiết bị hoạt động trên đó.
Phần lớn lượng dữ liệu được thu gom sẽ được chuyển đến thiết bị thông minh sẽ sử dụng các mạng không dây 3G để truyền dữ liệu. Hoạt động tương ứng như phân phối năng lượng tối ưu và định tuyến khác sẽ diễn ra sau đó. Lưới điện thông minh là một sự đảm bảo cho việc giải quyết được nhu cầu khốc liệt của việc quản lý năng lượng hiệu quả.
NoSQL: có nghĩa là Non-Relational - không ràng buộc, tuy nhiên hiện nay người ta thường dịch NoSQL là Not Only SQL - Không chỉ SQL. Trong nhiều ứng dụng web lớn nơi hiệu suất và quy mô là những mối quan tâm đầu tiên thì một cơ sở dữ liệu không ràng buộc như NoSQL là một lựa chọn tốt hơn cho nhiều cơ sở dữ liệu ràng buộc truyền thống. Có rất nhiều ví dụ về các cơ sở dữ liệu như vậy - đó là những ví dụ còn tranh cãi như BigTable, Hbase của Google, Dynamo, CouchDB và MongoDB của Amazon.
Những cơ sở dữ liệu này phân tán dữ liệu theo chiều ngang và phân tán trong nhiều server thương mại. Tiếp cận các dữ liệu này được dựa trên một loại chìa khóa đơn giản hay bộ chìa khóa API giá trị. Khả năng phân tán dữ liệu và các yêu cầu đến một trong nhiều server mang lại những lợi ích quy mô quan trọng. Các ứng dụng phải thường xuyên tiếp cận và quản lý nhiều petabyte dữ liệu rõ ràng phải chuyển sang cơ chế cơ sở dữ liệu NoSQL.
Công nghệ giao tiếp khoảng cách gần (Near Field Communications - NFC): là một công nghệ với nhiều ứng dụng hữu ích được phát triển trên điện thoại di động đã đến thời. Điện thoại di động công nghệ NFC có thể được sử dụng cho nhiều mục đích. Một trong những mục đích như vậy có thể kể đến là việc tích hợp chức năng thẻ tín dụng vào điện thoại di động sử dụng NFC. Tất cả các nhà khai thác di động đang tích hợp NFC vào những phiên bản mới hơn của điện thoại di động trong đó có iPhone của Apple, Android của Google và Nokia.
NFC cũng cho phép các cửa hàng bán lẻ gửi các phiếu khuyến mãi đến các thuê bao đang ở gần trung tâm mua bán. Các áp phích quảng cáo phim (poster) và các đoạn quay ngắn (trailer) của các bộ phim có thể được gửi dưới dạng clip đa phương tiện tới máy di động của bạn khi bạn đi tới gần phòng chiếu phim. NFC cũng cho phép các cửa hàng bán lẻ gửi các phiếu khuyến mãi đến các thuê bao đang ở trong khu vực mua sắm bên cạnh việc cho phép trao đổi danh sách liên lạc với bạn bè khi họ gần nhau.
MQ
Tham khảo:
[1]. Tinniam V Ganesh, Telecomasia
[2]. NoSQL Phân tán, không ràng buộc, PCWorld Vietnam
[3]. set.hut.edu.vn
An toàn về thông tin mạng - Nguy cơ và thách thức đối với Việt Nam
Submitted by nlphuong on Tue, 29/11/2011 - 06:23(ICTPress) - Các loại tội phạm công nghệ cao, an ninh mạng là những vấn đề thuộc an ninh phi truyền thống đang ngày càng phổ biến và tác động, ảnh hưởng đến an ninh.
(ICTPress) - Các loại tội phạm công nghệ cao, an ninh mạng là những vấn đề thuộc an ninh phi truyền thống đang ngày càng phổ biến và tác động, ảnh hưởng đến an ninh.
Ảnh minh họa |
Sau sự kiện 11/9 ở Mỹ, các nước trên thế giới bắt đầu quan tâm đến vấn đề an ninh phi truyền thống. “An ninh phi truyền thống” được hiểu là các loại tội phạm xuyên quốc gia, đặc biệt là tội phạm khủng bố và ma túy đe dọa an ninh khu vực và thế giới, đồng thời tạo ra những thách thức mới đối với hòa bình, ổn định trong và ngoài khu vực. Các loại tội phạm công nghệ cao, an ninh mạng là những vấn đề thuộc an ninh phi truyền thống đang ngày càng phổ biến và tác động, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Do đó đảm bảo an toàn thông tin mạng cũng là góp phần đảm bảo an ninh quốc gia.
Tình hình an ninh mạng trên thế giới và tại Việt Nam
Trên thế giới
Tình hình an ninh thông tin trên thế giới trong vòng một năm vừa qua nổi lên với rất nhiều các cuộc tấn công mạng máy tính. Các cuộc tấn công tin học này nhằm vào mọi cơ quan tổ chức, từ các cơ quan chính phủ, các công ty lớn tới các tổ chức quốc tế.
Ngày 25/7/2010, thế giới ngỡ ngàng khi 92.000 báo cáo mật về cuộc chiến tại Afghanistan đã được Wikileaks tiết lộ, tiếp theo đó 391.831 tài liệu về cuộc chiến Iraq cũng được Wikileaks công khai. Ngày 28/11/2010, Wikileaks tung ra thêm 251.831 tài liệu mật của BNG Mỹ… Đây là kết quả hoạt động nhiều năm của hacker Julian Assange, đồng thời là một tổn thất to lớn cho Chính quyền Mỹ về mặt đảm bảo các bí mật quốc gia.
Ngày 8/6/2011 Trưởng phòng thông tin Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF Jonathan Palmer đã thông báo phát hiện có việc chuyển tệp tin khác thường từ máy tính của cơ quan này ra bên ngoài. Và qua điều tra đã phát hiện một PC “đã bị xâm nhập sau đó được sử dụng để truy cập vào một số hệ thống của IMF”.
Mức độ manh động của giới tin tặc (hacker) ngày càng tăng, sẵn sàng tấn công vào hệ thống của các cơ quan quan trọng để đáp trả việc chính quyền truy quét các loại tội phạm mạng. Tháng 6/2011, nhóm hacker LulzSec đã tấn công hệ thống của công ty InfraGard - một đối tác công - tư của cơ quan FBI lấy đi 180 mật khẩu của các thành viên trong công ty này để trả đũa việc Lầu năm góc xem việc tấn công trên mạng là các hoạt động chiến tranh.
Tháng 7/2011, mạng lưới máy tính của Hạ viện Nhật Bản đã trở thành mục tiêu của các vụ tấn công trên mạng xuất phát từ một máy chủ ở Trung Quốc. Thông qua cuộc tấn công, tin tặc đã dùng virus máy tính để đánh cắp mật khẩu và có thể đã đọc được e-mail của các nghị sĩ trong 1 tháng. Những thông tin họ nhằm vào có thể liên quan đến chính sách đối ngoại và quốc phòng của Nhật Bản. Máy tính đầu tiên bị nhiễm virus đã kết nối với máy chủ ở Trung Quốc nhưng không dễ để xác định ai là kẻ đứng sau vụ việc vì bất kỳ ai cũng có thể tiếp cận máy chủ này, có khả năng máy chủ Trung Quốc nói trên đã bị kiểm soát bởi một nước thứ 3.
Tháng 9 /2011, Công ty Mitsubishi Heavy Industry đã công bố 45 máy chủ mạng và 38 PC trong mười nhà máy của họ nằm rải rác khắp nước Nhật đã bị tấn công bằng mã độc. Mitsubishi là sản xuất các linh kiện cho các loại tàu ngầm, tên lửa và nhà máy điện nguyên tử và là nhà sản xuất thiết bị quốc phòng lớn nhất Nhật bản.
Theo báo cáo công bố ngày 24/10, cơ quan giám sát thuộc Bộ Năng lượng Mỹ (DOE) khuyến cáo bộ này là một trong những nạn nhân của hàng loạt vụ tấn công mạng trong thời gian gần đây và cần phải tăng cường các biện pháp bảo vệ hệ thống máy tính của mình.
Chủ tịch Ủy ban tình báo Hạ viện Mỹ cho rằng, các vụ tin tặc xâp nhập thu thập thông tin “tài sản trí tuệ” của Hoa Kỳ và các nước Tây Phương, đang ở mức độ báo động và gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Tại Việt Nam
Các hệ thống thông tin của Việt Nam trong năm 2011 cũng bị một số cuộc tấn công từ hacker. Điển hình như tháng 6/2011, hơn 275 website của Việt Nam đã bị tấn công trong vòng nửa tháng, trong đó có khoảng 70 website là của các cơ quan nhà nước. Các hình thức tấn công bao gồm tấn công từ chối dịch vụ, tấn công khai thác lỗ hổng bảo mật để lấy dữ liệu hoặc thâm nhập hệ thống, thay đổi nội dung website,… Tình hình đó đã cho thấy các website của Việt Nam còn nhiều sơ hở về bảo mật và công tác đảm bảo an ninh cho các hệ thống thông tin của VN còn rất nhiều việc phải làm.
Bên cạnh đó tình trạng tội phạm công nghệ cao vẫn còn tồn tại nhức nhối. Với các hình thức như lừa đảo trực tuyến để lấy tài khoản người dùng, lừa khách hàng nạp tiền vào điện thoại của hacker, lừa bán hàng qua mạng để nạn nhân chuyển khoản lấy tiền rồi không chuyển hàng; hoặc các loại tuyên truyền bịp bợm, khiêu dâm gây ảnh hưởng tâm lý của cộng đồng mạng.
Như vậy mục tiêu của các tin tặc không chỉ là các doanh nghiệp nhỏ, có trình độ bảo mật yếu mà còn có cả các công ty CNTT lớn (Sony, Mitsubishi), các cơ quan quan trọng của chính phủ (FBI-Mỹ, IMF, Hạ viện Nhật,….). Xuất hiện nhiều cuộc tấn công có quy mô với các thủ đoạn iinh vi, tổ chức thu thập dữ liệu quan trọng, chiếm quyền điều khiển, thay đổi nội dung các trang thông tin điện tử... .
Các cuộc tấn công mạng trong năm 2011 cho thấy tội phạm mạng đang tiếp tục nâng cao khả năng triển khai tấn công, bao gồm cả việc “sản phẩm hóa” và bổ sung thêm nhiều tính năng vào các mã độc nhằm tấn công vào những đối tượng cụ thể.
Các việc làm này thực chất đã "đụng" đến vấn đề rất nhạy cảm của 1 quốc gia là" chủ quyền số". Bên cạnh đó, với sự phát triển của mạng 3G, dẫn đến nguy cơ mất an toàn thông tin (ATTT) tăng gấp đôi.
Vấn đề an ninh mang đang trở lên hiện hữu, ảnh hưởng sâu rộng, tác động đến các vấn đề chính trị, kinh tế và an ninh quốc gia. Đảm bảo an ninh mạng đang là vấn đề sống còn của các quốc gia trên thế giới.
Nguy cơ và thách thức Việt Nam đang đối mặt
Việc bảo an toàn thông tin mạng của các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế:
Thứ nhất, tình trạng thờ ơ với công tác đảm bảo an ninh mạng của các cơ quan tổ chức ở Việt Nam đã diễn ra trong một thời gian dài mà hầu như không có sự thay đổi. Trong khi đó, phương thức và cách thức tấn công ngày càng trở nên dễ dàng và phổ biến đối với các tin tặc. Chỉ với những công cụ sẵn có trên mạng, tin tặc có thể khai thác và tấn công vào hệ thống các website của Việt Nam mà các đợt tấn công diễn ra thời gian qua là một minh chứng. Trong tháng 5 và tháng 6/2011, tin tặc liên tục triển khai các đợt tấn công dồn dập vào máy chủ công ty phân phối FPT, 200 website tiếng Việt, trong đó có khoảng 10% là website của các cơ quan thuộc Chính phủ. Và mới đây, có ít nhất 85.000 máy tính tại Việt Nam bị tấn công, nằm trong mạng botnet Ramnit và bị lấy cắp dữ liệu. Khi bị tấn công, phản ứng của quản trị các website cũng rất khác nhau nhưng đa phần là khá lúng túng.
Thứ hai, là sự thiếu đầu tư về nhân lực CNTT. Các doanh nghiệp (DN) đang phải đương đầu với sự thiếu hụt về nhân lực CNTT và hiểu biết về tội phạm mạng. Hiện nay, phần lớn các DN Việt Nam chưa có sự đầu tư đúng mức về công nghệ bảo mật cũng như về con người do chi phí cho lĩnh vực này khá cao. Các công ty viết phần mềm chưa quan tâm đến an toàn hệ thống và đầu tư cho an ninh mạng chưa đủ ngưỡng. Người quản trị mạng chưa làm tốt công việc của mình: đặt mật khẩu yếu, mở nhiều dịch vụ không cần thiết; các DN và tổ chức ở Việt Nam thường đầu tư dưới 10% chi phí CNTT cho bảo mật - một tỷ lệ dưới mức đảm bảo an toàn cho hệ thống thông tin.
Nguyên nhân của thực trạng này là thiếu những chuyên gia về an ninh mạng, những chuyên viên phụ trách về an toàn thông tin; Thiếu qui trình ứng cứu, khắc phục sự cố, qui định khai thác sử dụng mạng máy tính một cách an toàn, bảo mật; một phần do lãnh đạo các cơ quan, DN Việt Nam chưa thực sự coi trọng vấn đề an ninh mạng, chưa đầu tư đúng mức cho vấn đề bảo mật, một phần do tại Việt Nam hiện nay chưa có nhiều trường đào tạo chuyên biệt về an toàn thông tin, chưa có nhiều khóa học cung cấp cho học viên đầy đủ các kiến thức chuyên môn, các kỹ năng phòng chống tin tặc từ căn bản đến chuyên sâu.
Do đó mạng máy tính Việt Nam vẫn là mục tiêu của tấn công của các loại hình tội phạm mạng trên thế giới.
Chưa cơ cơ quan chuyên trách đủ mạnh để ngăn chặn các loại hình tấn công mạng
Theo một số chuyên gia, trong trường hợp có chiến tranh xảy ra, tấn công mạng là một trong những vũ khí được sử dụng trong pha đầu tiên của chiến dịch. Do đó các nước trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Australia, Singapore,…đã chủ động thành lập các cơ quan chuyên trách nhằm đảm bảo an ninh mạng quốc gia.
Tại Việt Nam mặc dù có một số cơ quan xử lý các vấn đề liên quan đến sự cố mạng nhưng chưa có một cơ quan thực sự chuyên trách để đảm bảo an ninh mạng quốc gia.
Luật về tội phạm công nghệ cao chưa đủ sức răn đe
Vấn đề xử lý các loại tội phạm về an ninh mạng từ trước đến nay luôn gặp khó khăn vì thiếu chế tài, luật pháp chưa đủ mạnh để răn đe tin tặc. Vấn đề này đã được nhắc đến nhiều lần và đã đặt ra cho các cơ quan quản lý một nhu cầu cấp bách phải hoàn thiện hệ thống luật pháp có liên quan đến tội phạm công nghệ cao. Thời gian vừa qua đã có nhiều nỗ lực từ phía các cơ quan quản lý nhà nước nhằm bổ sung cho các thiếu sót này như: Nghị định 63/2007/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực CNTT, nghị định 90/2008/NĐ-CP về chống thư rác...
Giải pháp
Tăng cường đảm bảo an ninh mạng trong các tổ chức DN, nâng cao ý thức người dùng
Các cơ quan nhà nước và tổ chức DN chủ động, tích cực trển khai quyết định của 63/QĐ- TTCP về Phê duyệt Quy hoạch phát triển an toàn thông tin số quốc gia đến năm 2020. Khuyến khích các cơ quan tổ chức thực hiện các chuẩn về an toàn CNTT (ISO 27001), tăng cường đào tạo an mạng đối với cán bộ quản trị mạng.
Tăng cường nhận thức đối với công tác an ninh mạng cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân….để chủ động phòng ngừa đối với các hoạt động tấn công mạng, đảm bảo an ninh quốc gia.
Thành lập các cơ quan chuyên trách về an ninh mạng cấp quốc gia
Theo thống kê của quốc tế, hiện có 20 quốc gia có khả năng phát triển chiến tranh mạng, 10 nước sẵn sàng làm việc này. Nhận thức rõ tầm quan trọng của an toàn an ninh thông tin, nhiều Bộ ngành đã thành lập các cơ quan chuyên trách hoạt động trong lĩnh vực này. Ví dụ: Bộ Công an đã thành lập một số Cục chức năng liên quan như Cục H49 - Công nghệ tin học, Cục Phòng chống tội phạm công nghệ cao - C50, Cục Bảo vệ chính trị VII - A68, Cục An ninh thông tin, truyền thông - A87…Tuy nhiên đứng ở bình diện quốc gia, để đối phó với các cuộc tấn công có qui mô lớn, đảm bảo an toàn Internet, ATTT Nhà nước, cần hình thành cơ quan chuyên trách cấp quốc gia có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất các giải pháp kỹ thuật để điều phối chung, ứng đối kịp thời với các cuộc tấn công này.
Hoàn thiện pháp lý để xử lý các vấn đề liên quan đến tội phạm công nghệ cao.
Hiện nay các bộ ngành có liên quan đang phối hợp để sửa đổi, bổ sung các nội dung có liên quan đến tội phạm mạng trong bộ luật Hình sự nhằm đủ sức răn đe, xử lý các loại tội phạm công nghệ cao.
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới thì nên có một luật "thẳng" riêng ("direct law" – là loại luật mà trong đó đề cập đến tất cả hành vi chi tiết và mức độ xử lý tương ứng ngay từ thời điểm ban hành, không có nghị định hay thông tư hướng dẫn) liên quan đến việc xử lý tội phạm mạng nói riêng và tội phạm công nghệ cao nói chung.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động tội phạm công nghệ cao
Những vấn đề “an ninh phi truyền thống” hay tội phạm công nghệ cao đã vượt khỏi phạm vi lợi ích an ninh quốc gia của một nước, trở thành những thách thức mang tính toàn cầu, bởi lẽ hoạt động của tội này là “không biên giới” (Trong nhiều trường hợp nạn nhân của tin tặc nằm ở nhiều nước khác, công cụ sử dụng của tin tặc cũng ở nhiều nước khác nhau) . Chính vì vậy, cuộc đấu tranh với loại hình tội phạm này đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế bằng những giải pháp và bước đi hài hòa kết hợp kinh tế, chính trị, ngoại giao, pháp luật, khoa học kỹ thuật và các mặt khác.
Xu hướng phát triển
Việc tấn công mạng phát triển ngày càng tinh vi và phức tạp.
Các hãng bảo mật không ngừng nâng cấp các sản phẩm nhằm ngăn việc khai thác các lỗ hổng bảo mật, do đó các mã độc sẽ ngày càng độc hơn, nhiều lỗ hổng zeroday được khai thác.
Bên cạnh đó các hình thức tấn công mạng có khả năng được tổ chức bài bản hơn, xuất hiện nhiều phần mềm gián điệp phục vụ cho các mục đích, ý đồ của các cá nhân tổ chức.
An ninh mạng của các nước tiếp tục được tăng cường và phối hợp
Một số nước trên thế giới đã thành lập các đơn vị chuyên trách để đảm bảo an ninh mạng cho quốc gia như Mỹ, Trung Quốc, Singapore, Australia,… Ngoài việc tăng cường khả năng đối phó với các loại hình tấn công mạng, các nước cũng tăng cường liên kết để đối phó với các hình thức tội phạm mạng và tấn công trên mạng.
15/9, Mỹ và Australia đã bổ sung vấn đề hợp tác chống chiến tranh mạng vào văn kiện phòng thủ chung nhằm đối phó với những thách thức mới trong thế kỷ 21. Bộ trưởng Quốc phòng Australia Stephen Smith cho rằng an ninh mạng là "một thách thức chủ yếu, xuyên quốc gia trong thế kỷ 21".
Từ tháng 11/2002 đến nay, “an ninh phi truyền thống” trong đó có an ninh mạng là một hướng hợp tác mới được các nước ASEAN triển khai có hiệu quả với các nước đối thoại, nhất là với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, EU và các tổ chức quốc tế trong hợp tác đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia.
Có sự chuyển hướng sang các thiết bị điện thoại thông minh, điện toán đám mây và mạng xã hội
Năm 2011 tiếp tục đánh dấu sự phát triển và mở rộng của các dịch vụ đám mây, điện toán di động và mạng xã hội. Dự báo trong năm 2012, các dịch vụ này sẽ tiếp tục phát triển vượt bậc tạo nên một hướng chính mới cho công nghiệp CNTT, nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ mới về an ninh bảo mật. (Hiện nay đã phát hiện ra một số virus chạy trên điện thoại sử dụng hệ điều hành Android,...)
(Trích tham luận do Ban Tổ chức Hội thảo quốc tế Ngày An toàn Thông tin 23/11 cung cấp)
Thực trạng tin nhắn rác và lừa đảo trên mạng thông tin di động
Submitted by nlphuong on Fri, 25/11/2011 - 09:18(ICTPress) - Trong thời gian vừa qua, các thuê bao di động liên tục nhận được các tin nhắn rác, quảng cáo có nội dung không lành mạnh, gây tò mò hoặc có dấu hiệu lừa đảo như nội dung tin nhắn thông báo trúng thưởng, tặng nhạc chuông,... Thực trạng trên đã gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Thanh tra Bộ TT&TT
Trong thời gian vừa qua, các thuê bao di động liên tục nhận được các tin nhắn rác, quảng cáo có nội dung không lành mạnh, gây tò mò (bói toán, lô đề, v.v…), hoặc có dấu hiệu lừa đảo như nội dung tin nhắn thông báo trúng thưởng, tặng nhạc chuông, hình ảnh, cài đặt GPRS nhưng khi chủ thuê bao di động nhắn tin đến đầu số theo hướng dẫn thì lập tức bị trừ tiền. Thực trạng trên đã gây bức xúc trong dư luận xã hội. Có thể tổng hợp vấn đề này như sau:
Thực trạng kinh doanh dịch vụ nội dung và hoạt động nhắn tin rác
Phần lớn các tin nhắn lừa đảo đều sử dụng thuê bao trả trước đăng ký thông tin không có thật (Ảnh: cand) |
Hiện tại, có khoảng 200 công ty dịch vụ nội dung (CP - Provider) chủ yếu tập trung tại Hà Nội, TP. HCM, Đà Nẵng tham gia, phát triển và kinh doanh các dịch vụ tin nhắn giải trí qua mạng điện thoại di động (ĐTDĐ). Các sản phẩm, dịch vụ chính trong lĩnh vực này là:
- Cung cấp nhạc chuông, logo, bộ sưu tập ảnh của phụ nữ, hình nền cho ĐTDĐ;
- Cung cấp trò chơi trên điện thoại di động, cài đặt GPRS;
- Cung cấp thông tin tổng hợp về kinh tế, chính trị, xã hội;
- Các hình thức trắc nghiệm, tư vấn tình cảm, kết bạn;
- Cung cấp kết quả xổ số, bóng đá, chứng khoán…;
- Tổ chức các trò chơi dự đoán trúng thưởng, bình chọn kết quả, trao giải trúng thưởng;
- Bình chọn cho tổ chức, cá nhân tham gia các sự kiện, các chương trình trên truyền hình;
- Xác nhận mã giao dịch cho hệ thống ngân hàng (thông báo rút tiền, chuyển khoản, thanh toán…).
Bên cạnh việc chủ động cung cấp dịch vụ trên mạng di động, để tăng doanh thu và khai thác triệt để hơn các đầu số thuê của doanh nghiệp (DN) di động, hầu hết các CP còn ký kết hợp đồng hợp tác kinh với các tổ chức, cá nhân khác (Sub-CP) để cùng cung cấp dịch vụ và ăn chia lợi nhuận. Cá biệt, nhiều CP hầu như không kinh doanh mà cho Sub-CP thuê lại đầu số.
Kết quả theo dõi cho thấy, để tiết kiệm chi phí kinh doanh, tránh sự kiểm soát của nhà nước, các CP và Sub-CP đã sử dụng hình thức nhắn tin quảng cáo từ các thuê bao di động trả trước đã được đăng ký thông tin không chính xác. Điều này nhằm dễ dàng tung ra các thông tin quảng cáo không rõ ràng, lừa đảo người sử dụng dịch vụ nhắn tin tham gia dịch vụ để tăng doanh thu cho chủ đầu số. Chính việc này đã làm tăng số lượng tin nhắn rác trong thời gian qua.
Về mặt kỹ thuật, việc nhắn tin rác được thực hiện bằng các modem GSM/CDMA trị giá khoảng 1 triệu đồng, có lắp SIM điện thoại và được kết nối với máy tính có cài đặt phần mềm gửi/nhận tin nhắn, thiết bị này mỗi giờ có thể tự động phát tán tin nhắn hàng loạt với tốc độ 1000 tin nhắn mỗi giờ. Hiện nay còn có tình trạng một số website của nước ngoài cho phép giả mạo số điện thoại để nhắn tin từ Internet tới các thuê bao di động trong nước.
Vấn đề lừa đảo trên mạng di động
Đối tượng lừa đảo
Kết quả thống kê cho thấy, đối tượng lừa đảo có nhiều thành phần, từ các cá nhân đến cả DN cung cấp nội dung (CP) và đối tác của DN này (Sub-CP).
Động cơ lừa đảo
- Động cơ lừa đảo của đối tượng xấu là cá nhân: Việc lừa đảo nhằm được nạp tiền vào tải khoản trả trước, tài khoản game online hoặc tài khoản của đối tượng lừa đảo trên các trang web cung cấp dịch vụ tải game, tải dữ liệu. Cá biệt, có trường hợp lừa đảo là để nhằm tăng các tin nhắn bình chọn cho một cá nhân tham gia cuộc thi nào đó;
- Động cơ lừa đảo của đối tượng là các CP và Sub-CP là nhằm tăng số lượng tin nhắn đến đầu số tắt viễn thông nhằm tăng doanh thu cho các đối tượng này.
Hình thức lừa đảo
Kết quả thanh tra, xử lý vi phạm và theo dõi trong thời gian qua cho thấy, vấn đề lừa đảo trên mạng di động là hết sức rõ ràng. Có thể thống kê một số hình thức lừa đảo như sau:
- Lừa đảo người sử dụng dịch vụ di động nhắn tin nạp tiền vào các tải khoản game online, tài khoản thuê bao trả trước cho đối tượng lừa đảo… thông qua việc nhắn tin lừa đảo (ví dụ: Nhắn tin theo cú pháp ABC gửi xxxx để được tặng 200.000 đồng trong tài khoản);
- Không niêm yết đầy đủ, rõ ràng giá cước dịch vụ các dịch vụ, giá cước tham gia các trò chơi, tham gia bình chọn… . Điều này dẫn đến việc người sử dụng dịch vụ di động không biết việc bị mất tiền khi sử dụng dịch vụ, tham gia bình chọn, tham gia các trò chơi;
- Tổ chức các chương trình nhắn tin trúng thưởng (Ví dụ: Nhắn tin theo cú pháp ABC gửi xxxx để có cơ hội trúng điện thoại iPhone sành điệu…). Tuy nhiên, thực tế không có bất kỳ ai được trúng thưởng. Trường hợp nếu trúng thưởng thật thì cũng không thông báo trúng thưởng hoặc được trao thưởng như quảng cáo;
- Nhắn tin lừa đảo người sử dụng dịch vụ nhắn tin để biết kết quả sổ số đặc biệt (để chơi lô, đề), nhắn tin để biết người nào hợp tuổi kết hôn, hợp tuổi làm ăn (Ví dụ: Hôm nay K6 dành tặng bạn MAY MẮN CỰC LỚN. Chỉ với 1 tin nhắn bạn nhận ngay CẶP_LÔ_VÀNG về GẢI ĐẶC BIỆT KQXS. Để nhận KQXS soạn K6 gửi xxxx, Chắc ăn 99%);
- Lừa đảo người sử dụng dịch vụ tham gia đấu giá một sản phẩm bất kỳ để có cơ hội nhận tặng phẩm có giá trị cao (Ví dụ: Nhắn tin theo cú pháp ABC gửi xxxx để tham gia chương trình đấu giá điện thoại Nokia E72. Bạn có cơ hội trúng xe máy Novou nếu giá bạn đoán là thấp nhất và duy nhất).
Thủ đoạn lừa đảo
Lợi dụng sự cả tin của người sử dụng dịch vụ: Đa phần các tin nhắn lừa đảo đều sử dụng các ngôn ngữ có tính thuyết phục cao, làm cho người sử dụng dịch vụ tin rằng những nội dung quảng cáo là đúng sự thật và thực hiện theo;
Lợi dụng sự tín nhiệm của người dân vào Đài Truyền hình: Nhiều dịch vụ được các CP và Sub-CP quảng cáo trên Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Phát thanh, Truyền hình các tỉnh, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC… Chính vì vậy đã tạo được niềm tin với người sử dụng dịch vụ, thu hút người sử dụng dịch vụ di động nhắn tin;
Lợi dụng sự hám lợi của một bộ phận người dân: Bằng những lời quảng cáo về vật phẩm được nhận có giá trị cao, thủ tục nhận đơn giản, thậm chí đánh bóng bằng việc trao thưởng cho người trúng thưởng (trao thưởng không có thật). Điều đó đã thu hút nhiều người tham gia mà không biết đang bị lừa đảo;
Kích thích trí tò mò của một số dân: Nhiều tin nhắn quảng cáo có nội dung gây sự tò mò cho người sử dụng (Ví dụ: Có một bạn gái tặng cho bạn bản nhạc chuông ABC, để nhận bản nhạc chuông và biết thông tin người gửi, soạn DGH gửi xxx)… Thủ đoạn này cũng lừa đảo được nhiều người sử dụng dịch vụ;
Sử dụng các SIM trả trước đã đăng ký thông tin thuê bao không có thật (SIM rác): Phần lớn các tin nhắn lừa đảo đều sử dụng thuê bao trả trước đăng ký thông tin không có thật. Vì phần lớn thông tin về dịch vụ là không có thật.
Sử dụng các website nước ngoài cho phép nhắn tin giả mạo đầu số nhắn tin của doanh nghiệp thông tin di động: Bằng cách sử dụng dịch vụ trên các trang web ở nước ngoài, đối tượng đã gắn nhãn tin nhắn bằng các đầu số của DN di động hoặc tên người gửi là tên các mạng di động trong nước. Điều này dẫn đến việc người sử dụng dịch vụ nhầm tưởng đó là dịch vụ của DN di động. Do đó, bị đối tượng lừa đảo.
(Trích tham luận do Ban Tổ chức Hội thảo quốc tế Ngày An toàn Thông tin 23/11 cung cấp)
Giám sát khí hậu nhờ cáp viễn thông ngầm dưới biển
Submitted by nlphuong on Wed, 23/11/2011 - 01:28(ICTPress) - Cáp ngầm dưới biển hiện nay có thể trở thành mạng giám sát khí hậu toàn cầu thời gian thực. Các thế hệ tương lai của cáp và các thành phần liên quan có thể trực tiếp đo lường các biến đổi khí hậu như nhiệt độ nước, độ mặn và áp suất ở đáy biển.
(ICTPress) - CCáp ngầm dưới biển hiện nay có thể trở thành mạng giám sát khí hậu toàn cầu thời gian thực. Các thế hệ tương lai của cáp và các thành phần liên quan có thể trực tiếp đo lường các biến đổi khí hậu như nhiệt độ nước, độ mặn và áp suất ở đáy biển. Bài viết này mô tả việc cáp ngầm dưới biển có thể được sử dụng như thế nào để giám sát biến đổi khí hậu và cảnh báo sóng thần.
Trạm khí hậu đại dương ở dòng biển Agulhas được buộc ở 28,5oS, 30oE, Đông Nam châu Phi |
Nhiệt độ và độ mặn là những thành phần cơ bản của đại dương. Các thành phần này quản lý mật độ nước và cùng với sức gió và năng lượng mặt trời, toàn bộ việc lưu thông của các đại dương. Việc ấm lên toàn cầu làm băng ở các cực tan chảy, giảm khả năng của đại dương là lưu giữ khí nhà kính dưới các tầng nước sâu bởi vì khí ít bị hòa tan ở các nhiệt độ cao hơn. Điều này làm bầu khí quyển nóng lên.
Tầng nước sâu nhất bao phủ đáy đại dương được hình thành ở các khu vực của cực như nước muối ấm được làm mát và thấm xuống. Quá trình này có thể bị tác động bởi sự biến đổi khí hậu, cuối cùng làm thay đổi toàn bộ và lưu thông của các dòng nước đại dương sâu.
Các nhà hải dương học có một loạt các công cụ để giám sát đại dương, với cả ưu điểm lẫn nhược điểm. Vệ tinh chỉ có thể giám sát số lượng bề mặt, như độ cao bề mặt biển, áp lực gió và nhiệt độ. Một số con thuyền lớn phục vụ mục đích nghiên cứu trên thế giới có thể thực hiện đo kiểm chi tiết nhiệt độ nước và thành phần cấu tạo ở độ sâu, nhưng chỉ từ một phần nhỏ của đại dương và hiếm khi trên một lộ trình thường xuyên. Khoảng 300 cái phao Argo trôi giạt để đo nhiệt độ và độ mặn của biển. Nhưng các phao này không thể đo ở độ sâu dưới 2000 mét, và chúng không thể được sử dụng ở các nơi biển cạn hơn 2000 mét bởi vị chúng có thể chạm đáy.
Cáp viễn thông ngầm dưới đại dương được xem là một cơ hội duy nhất để giám sát độ nước sâu bởi vì chúng nằm ở đáy đại dương. Các tín hiệu điện từ cáp có thể truyền tải thông tin về đại dương, bởi vì các tín hiệu điện từ và sức bền của cáp thay đổi khi các dòng đại dương và nhiệt độ thay đổi. Cáp cũng có thể được sử dụng để cấp nguồn đến và truyền dữ liệu đi, các đài quan sát trên đáy biển. Các hệ thống NEPTUNE Canada và DONET Nhật Bản đã sử dụng cách thức này.
Khai thác cáp viễn thông vẫn còn sử dụng được và quá hạn
Kể từ khi cáp liên lạc ngầm dưới biển được thiết lập qua kênh đào Anh vào năm 1850, hơn 1 triệu km cáp viễn thông đã được đặt dưới đáy đại dương, bao phủ phần lớn toàn cầu. Nhưng chỉ một phần nhỏ trong mạng cáp hiện nay được đưa vào sử dụng khoa học. Đây là một cơ hội đã bị bỏ lỡ.
Cáp hiện nay gồm cả cáp còn và không còn được sử dụng. Những cáp đã cũ hơn không còn được sử dụng chủ yếu là cáp đồng trục, nhưng một phần lớn cáp quang thế hệ đầu tiên đã không còn được sử dụng mặc dù còn chưa hết vòng đời hữu ích, nhờ có những tiến bộ nhanh chóng trong công nghệ cáp.
Cả cáp đang và không còn được sử dụng thường có thể được chuyển sang các dữ liệu dòng đại dương bằng cách kết nối một vôn kế đơn giản và một máy tính đến trạm đặt cáp trên bờ. Một dòng điện từ được cảm trong cáp bằng nhờ sự chuyển động qua trường điện tử của trái đất của các dòng đại dương, thủy triều và sóng thần. Những đo lường vôn kế này có thể được thực hiện trên một hệ thống cáp đang hoạt động thông thường.
Cáp biển đã được sử dụng để đo lường các dòng đại dương trên toàn thế giới. Ví dụ, một cáp đã được sử dụng để thực hiện các đánh giá lưu lượng nước hàng ngày được vận chuyển nhờ kênh dòng chảy Florida trong suốt 25 năm qua, tạo ra một trong những loạt dữ liệu về thời gian sẵn sàng dài nhất trên tầng nước chảy đại dương. Những thông tin do cáp cung cấp được tập hợp thành một bộ dữ liệu quan trọng để đánh giá sự lưu thông sụp đổ kinh tuyến Đại Tây Dương - một động lực chính của lưu thông ở tầng sâu đại dương và một hiện tượng tầm quan trong đối với các nhà nghiên cứu khí hậu.
Các cáp đã không còn được sử dụng đến có thể được chuyển đến các vị trí quan trọng một cách khoa học như Đại dương ở phương Nam nơi các cáp hiện nay đang rất mỏng. Các chi phí để phân bổ lại được dự kiến là xấp xỉ nửa chi phí của một hệ thống mới - khoảng 20.000 USD/km, so với 50.000 USD/km cho một cáp mới. Nhưng có những khó khăn về mặt pháp lý và thực tiễn để vượt qua việc dành cáp cho các mục đích khoa học, đặc biệt trong việc chuyển giao sở hữu và trách nhiệm pháp lý từ các công ty đến các viện nghiên cứu.
Hiện nay, việc sử dụng cáp chủ yếu giới hạn trong việc kết nối các công cụ đo lường ở các trạm cập bờ. Nhưng trong tương lai - các bộ lặp - điển hình đã được lắp đặt cách xa 50 đến 150km để khuếch đại tín hiệu viễn thông ở một cáp được cấp nguồn - có thể được chuyển đổi để giám sát khí hậu.
Ngành viễn thông có một cơ hội để thiết kế một thế hệ các bộ lặp cáp mới để cung cấp dữ liệu khí hậu cho những người tham gia mới, bên cạnh việc cung cấp các dịch vụ viễn thông cơ bản. Các bộ lặp mới có thể có các bộ cảm biến lắp trong để đo lường các biến đổi khí hậu. Các bộ lặp này sẽ trở thành nền tảng của một mạng hiệu quả chi phí để giám sát biến đổi khí hậu dài hạn.
Các đo lường nhiệt độ và độ mặn tạo điều kiện để giám sát sự ấm lên và làm sạch nước, điều này là nhờ có việc ấm lên của khí quyển và băng tan. Các đo lường áp suất cho thấy những gì đang diễn ra đối với thủy triều đại dương và mực nước biển. Những đo lường này sẽ đưa ra một bức tranh về các tác động của biến đổi khí hậu. Các đo lường này cũng sẽ đưa ra các cảnh báo sóng thần. Một mạng lưới các bộ cảm biến toàn cầu sẽ cho phép các đại dương được giám sát hiệu quả trên toàn cầu tới từng phút và với chi phí thấp. Càng nhiều bộ cảm biến thì sự chính xác của bức tranh càng lớn.
Các bộ lặp hiện nay đang sử dụng đo lường nhiệt độ môi trường, độ mặn và áp suất cùng với các bộ cảm biến. Các bộ cảm biến được đặt bên trong hộp hoặc chỗ dành cho bộ lặp. Các tín hiệu được đo lường sẽ được chuyển đến các trạm bờ biển sử dụng cáp và đường dây dành riêng.
Trong tương lai, các bộ lặp có thể kết hợp các node mục đích chung để cung cấp điện, liên lạc và các tín hiệu thời gian. Ví dụ, các công cụ khoa học có thể được lắp vào - trực tiếp hoặc gián tiếp - bằng cách sử dụng các modem âm thanh. Điều này sẽ làm bộ lặp trở thành thiết bị quan sát, không chỉ để đo nhiệt độ, độ mặn và áp suất, mà còn là một kênh để đánh giá cả dữ liệu khí hậu bổ sung như các dòng chảy đại dương, các cấp độ ô xi, các cấp độ khí nhà kính, động đất và các đặc tính địa vật lý và hóa sinh khác. Nó cũng có thể cho phép đo lường các biến đổi nhiệt độ quy mô sử dụng phương pháp chụp âm thanh và thậm chí cho phép giám sát video dưới nước và giám sát bằng thính giác.
Các kỹ sư đối mặt thách thức tìm kiếm nguồn lực và các thiết kế tin cậy để cấp một hạ tầng linh hoạt và ổn định để truyền dữ liệu. Để cung cấp điện và kết nối quang trong một mạng lớp, không phụ thuộc vào truyền dẫn dữ liệu viễn thông thông thường, Electronics Subsea Communications đã phát triển một loại cáp dẫn điện kép (DCC) và một bộ rẽ nhánh cáp 4. Và bộ rẽ nhánh này có các đầu nối đặc biệt kết nối hai dây dẫn trong khi duy trì tách nguồn giữa các dây dẫn và đáy biển. Kỹ thuật mới này cho phép các bộ cảm biến giám sát khí hậu được tích hợp vào trong chỗ để bộ lặp và được vận hành độc lập với các cấu trúc viễn thông.
Cáp và các bộ lặp cung cấp các hệ thống cảnh báo sóng thần hiệu quả
Thiết bị chính của hệ thống phải đánh giá và báo cáo sóng thần dưới sâu đại dương (DART) được Cơ quan biển và khí quyển quốc gia Mỹ (NOAA) xây dựng là một bộ cảm biến áp suất trên đáy đại dương, có thể ghi lại biên độ sóng dưới 1 cm ở ngoài đại dương. Chi phí mua một phao DART khoảng 250.000 USD và các chi phí bảo dưỡng cho một phao là khoảng 125.000/năm, không bao gồm thời gian vận tải, có thể tốn gấp nhiều lần cái phao. Năm 2008, riêng Mỹ đã triển khai 39 phao cảnh báo sóng thần ở Thái Bình Dương.
Nếu có khoảng 200 phao cảnh báo sóng thần được lắp đặt trên toàn thế giới, tổng chi phí mua sẽ chỉ khoảng nửa tỷ USD và chi phí bảo dưỡng sẽ chỉ khoảng ¼ tỷ USD/năm. Gồm cả thời gian vận tải, tổng chi phí có thể hơn 1 tỷ USD/năm. Các phao truyền thống chỉ có vòng đời giới hạn (khoảng 4 năm) bởi vì chúng có nguồn.
Sử dụng các bộ lặp cáp với các bộ cảm biến áp suất được lắp đặt sẽ khả thi cho việc có một mạng cảnh báo sóng thần toàn cầu thời gian thực thực sự có chi phí thấp hơn nhiều so với hệ thống hiện nay. Các chi phí bảo dưỡng và thời gian vận chuyển đắt đỏ (để lắp đặt phao) sẽ được giảm xuống. Cũng bởi vì cáp và các bộ lặp được cấp nguồn từ bờ các bộ cảm biến có thể được cấp nguồn trong nhiều chục năm. Rõ ràng có một cơ hội kinh doanh lớn ở đây cho các công ty viễn thông.
Chi phí thiết kế một loại bộ lặp mới có thể mất nhiều triệu USD, nhưng chỉ mất hàng ngàn với loại bộ lặp mới cần được sản xuất. Cũng tương tự, các loại bộ lặp mới có thể được bán với giá cao hơn so với các loại hiện nay. Số cáp viễn thông được triển khai ở các đại dương sẽ chỉ tăng, và thế hệ các bộ lặp cáp mới sẽ có thể cung cấp dữ liệu quan trọng để giám sát biến đổi khí hậu.
Kết luận
Các công ty viễn thông đã cho phép cộng đồng khoa học tiếp cận cáp của mình và các trạm cập bờ. Nhưng vai trò mà ngành viễn thông đóng góp vào nghiên cứu khí hậu vẫn còn quá khiêm tốn. Các cơ hội kinh doanh hiện vẫn còn cho các công ty muốn đóng góp mạnh mẽ trong việc giám sát biến đổi khí hậu.
Các đại dương là một trong những yếu tố quan trọng trong biến đổi khí hậu, do đó các đại dương phải được theo dõi chặt chẽ. Đặc biệt các đại dương sâu thẳm vẫn chưa được khám phá nhiều. Do việc thiếu vắng các phương tiện hữu ích khác để đo lường dài hạn, việc sử dụng cáp viễn thông để theo dõi các đại dương sẽ rất quan trọng để giám sát biến đổi khí hậu.
ThS. Lê Xuân Thành
Tài liệu tham khảo
[1]. Telecomsearch.com
[2]. Itu.int
[3]. Telecomasia.com
Thế nào là mạng 4G
Submitted by nlphuong on Mon, 21/11/2011 - 06:43Người ta đã bắt đầu nói về công nghệ 4G (Fourth Generation) từ nhiều năm gần đây. 4G là gì? Liệu có một định nghĩa thống nhất cho thế hệ mạng thông tin di động tương lai 4G?
Ngành công nghệ viễn thông đã chứng kiến những phát triển ngoạn ngục trong những năm gần đây. Khi mà công nghệ mạng thông tin di động thế hệ thứ ba 3G chưa có đủ thời gian để khẳng định vị thế của mình trên toàn cầu, người ta đã bắt đầu nói về công nghệ 4G (Fourth Generation) từ nhiều năm gần đây. Thế nhưng, nói một cách chính xác thì 4G là gì? Liệu có một định nghĩa thống nhất cho thế hệ mạng thông tin di động tương lai 4G?
Ngược dòng thời gian...
Trong hơn một thập kỷ qua, thế giới đã chứng kiến sự thành công to lớn của mạng thông tin di động thế hệ thứ hai 2G. Mạng 2G có thể phân ra 2 loại: mạng 2G dựa trên nền TDMA và mạng 2G dựa trên nền CDMA. Đánh dấu điểm mốc bắt đầu của mạng 2G là sự ra đời của mạng D-AMPS (hay IS-136) dùng TDMA phổ biến ở Mỹ. Tiếp theo là mạng CdmaOne (hay IS-95) dùng CDMA phổ biến ở châu Mỹ và một phần của châu Á, rồi mạng GSM dùng TDMA, ra đời đầu tiên ở Châu Âu và hiện được triển khai rộng khắp thế giới. Sự thành công của mạng 2G là do dịch vụ và tiện ích mà nó mạng lại cho người dùng, tiêu biểu là chất lượng thoại và khả năng di động.
Hình 1. Sơ đồ tóm lược quá trình phát triển của mạng thông tin di động tế bào |
Tiếp nối thế hệ thứ 2, mạng thông tin di động thế hệ thứ ba 3G đã và đang được triển khai nhiều nơi trên thế giới. Cải tiến nổi bật nhất của mạng 3G so với mạng 2G là khả năng cung ứng truyền thông gói tốc độ cao nhằm triển khai các dịch vụ truyền thông đa phương tiện. Mạng 3G bao gồm mạng UMTS sử dụng kỹ thuật WCDMA, mạng CDMA2000 sử dụng kỹ thuật CDMA và mạng TD-SCDMA được phát triển bởi Trung Quốc. Gần đây công nghệ WiMAX cũng được thu nhận vào họ hàng 3G bên cạnh các công nghệ nói trên. Tuy nhiên, câu chuyện thành công của mạng 2G rất khó lặp lại với mạng 3G. Một trong những lý do chính là dịch vụ mà 3G mang lại không có một bước nhảy rõ rệt so với mạng 2G. Mãi gần đây người ta mới quan tâm tới việc tích hợp MBMS (Multimedia Boadcast and Multicast Service) và IMS (IP Multimedia Subsystem) để cung ứng các dịch vụ đa phương tiện.
Khái niệm 4G bắt nguồn từ đâu?
Có nhiều định nghĩa khác nhau về 4G, có định nghĩa theo hướng công nghệ, có định nghĩa theo hướng dịch vụ. Đơn giản nhất, 4G là thế hệ tiếp theo của mạng thông tin di động không dây. 4G là một giải pháp để vượt lên những giới hạn và những điểm yếu của mạng 3G. Thực tế, vào giữa năm 2002, 4G là một khung nhận thức để thảo luận những yêu cầu của một mạng băng rộng tốc độ siêu cao trong tương lai mà cho phép hội tụ với mạng hữu tuyến cố định. 4G còn là hiện thể của ý tưởng, hy vọng của những nhà nghiên cứu ở các trường đại học, các viện, các công ty như Motorola, Qualcomm, Nokia, Ericsson, Sun, HP, NTT DoCoMo và nhiều công ty viễn thông khác với mong muốn đáp ứng các dịch vụ đa phương tiện mà mạng 3G không thể đáp ứng được.
Theo dòng phát triển…
Ở Nhật, nhà cung cấp mạng NTT DoCoMo định nghĩa 4G bằng khái niệm đa phương tiện di động (mobile multimedia) với khả năng kết nối mọi lúc, mọi nơi, khả năng di động toàn cầu và dịch vụ đặc thù cho từng khách hàng. NTT DoCoMo xem 4G như là một mở rộng của mạng thông tin di động tế bào 3G. Quan điểm này được xem như là một “quan điểm tuyến tính” trong đó mạng 4G sẽ có cấu trúc tế bào được cải tiến để cung ứng tốc độ lên trên 100Mb/s. Với cách nhìn nhận này thì 4G sẽ chính là mạng 3G LTE , UMB hay WiMAX 802.16m. Nhìn chung đây cũng là khuynh hướng chủ đạo được chấp nhận ở Trung Quốc và Hàn Quốc. Gần đây trên nhiều blog công nghệ đưa thông tin: “In-Stat nói rằng Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) sẽ công bố trong 2008/2009, 4G chính là LTE, UMB và IEEE 802.16m WiMAX”.
Bên cạnh đó, mặc dù 4G là thế hệ tiếp theo của 3G, nhưng tương lai không hẳn chỉ giới hạn như là một mở rộng của mạng tế bào. Ví dụ ở châu Âu, 4G được xem như là khả năng đảm bảo cung cấp dịch vụ liên tục, không bị ngắt khoãng với khả năng kết nối với nhiều loại hình mạng truy nhập vô tuyến khác nhau và khả năng chọn lựa mạng vô tuyến thích hợp nhất để truyền tải dịch vụ đến người dùng một cách tối ưu nhất. Quan điểm này được xem như là “quan điểm liên đới”. Do đó, khái niệm “ABC-Always Best Connected” (luôn được kết nối tốt nhất) luôn được xem là một đặc tính hàng đầu của mạng thông tin di động 4G. Định nghĩa này được nhiều công ty viễn thông lớn và nhiều nhà nghiên cứu, nhà tư vấn viễn thông chấp nhận nhất hiện nay.
Dù theo quan điểm nào, tất cả đều kỳ vọng là mạng thông tin di động thế hệ thứ tư 4G sẽ nổi lên vào khoảng 2010 - 2015 như là một mạng vô tuyến băng rộng tốc độ siêu cao.
Thiên về hướng “liên đới”
Mạng 4G sẽ không phải là một công nghệ tiên tiến vượt bậc, đủ khả năng đáp ứng tất cả các loại hình dịch vụ cho tất cả các đối tượng người dùng. Những công nghệ “đình đám” nổi lên gần đây như WiMAX 802.16m, Wibro, UMB, 3G LTE, DVB-H…mặc dù chúng đáp ứng tốc độ truyền lớn, tuy nhiên chúng chỉ được xem là những công nghệ pre-4G (tiền 4G).
Mạng 4G sẽ là một sự hội tụ của nhiều công nghệ mạng hiện có và đang phát triển như 2G, 3G, WiMAX, Wi-Fi, IEEE 802.20, IEEE 802.22, pre-4G, RFID, UWB, vệ tinh… để cung cấp một kết nối vô tuyến đúng nghĩa rộng khắp (ubiquitous), mọi lúc, mọi nơi, không kể mạng thuộc nhà cung cấp nào, không kể người dùng đang dùng thiết bị di động gì. Người dùng trong tương lai sẽ thực sự sống trong một môi trường “tự do”, có thể kết nối mạng bất cứ nơi đâu với tốc độ cao, giá thành thấp, dịch vụ chất lượng cao và mang tính đặc thù cho từng cá nhân.
Hình 2. Mô hình mạng hỗn tạp 4G |
“Khách hàng là thượng đế”
Hiện tại khi chúng ta mua một kết nối di động, kết nối ấy gắn với một hợp đồng, với các ràng buộc của nhà cung cấp mạng. Người dùng hầu như không có bất cứ sự lựa chọn nào khác ngoài dịch vụ mà nhà cung cấp cung ứng. Mỗi người ít nhất cũng có vài loại hợp đồng khác nhau để sử dụng các loại hình dịch vụ khác nhau: hợp đồng dùng điện thoại di động, hợp đồng dùng điện thoại cố định, hợp đồng dùng Internet, hợp đồng dùng GPS, hợp đồng dùng dịch vụ TV di động,… Mọi liên lạc, kết nối của người dùng điều chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà cung cấp dịch vụ (nên còn gọi là "network-centric”).
Thực tế, người dùng chính là mục đích cuối cùng mà một sản phẩm hay một công nghệ muốn hướng tới. Do vậy, liệu chỉ cần cung cấp tốc độ dữ liệu cao là đủ đề đáp ứng nhu cầu của người dùng chưa hay 4G cần phải đáp ứng các yêu cầu khác nữa? Sau đây chúng ta thử cùng nhau xem xét những gì người dùng cần mà công nghệ mạng hiện tại chưa đáp ứng được. Đấy chính là chìa khóa cho sự thành công của 4G!
Tình huống 1: Trước khi bạn đi ra khỏi nhà để đến nơi làm việc, bạn cần biết những thông tin như giờ tàu/buýt, tình trạng kẹt xe trên đường, cũng như dự báo thời gian cần thiết để đi đến chỗ làm việc. Một khi người dùng chọn một phương tiện đi lại, thì thông tin về thời gian, thời điểm chuyển đổi phương tiện tiếp theo,..sẽ được cập nhật liên tục với thời gian thực. Trong lúc ngồi trên phương tiện công cộng, bạn muốn đọc e-mail, nghe rađio, xem TV, kết nối với intranet của công ty để chuẩn bị tài liệu cho buối họp,….
Tình huống 2: Bạn có thể sẽ rất thích nhận được những thông tin shopping, hàng giảm giá, thông tin vui chơi giải trí hấp dẫn khi bạn ngồi relax ở nhà hay đang trong xe buýt. Tuy nhiên sẽ có nhiều bạn lại rất ghét những thông tin kiểu thế này. Do đó, dịch vụ này phải tùy theo sở thích, thói quen của từng người dùng. Cũng tương tự ví dụ khi bạn đi du lịch sang một thành phố hay nước nào đó, bạn sẽ rất hài lòng khi nhận được những thông tin hướng dẫn như bản đồ, những địa danh cần tham quan, các món ngon nên thưởng thức… Mỗi khi đến trước một địa điểm tham quan bạn sẽ nhận được thông tin cụ thể về lịch sử, đặc điểm nơi bạn đang tham quan. Đặc biệt hơn nữa nếu các thông tin cung cấp đến bạn theo đúng tiếng mẹ đẻ của bạn.
Trên đây chỉ là hai tình huống tiêu biểu mà người dùng trong tương lai chờ đợi. Để làm được điều đó, hệ thống mạng 4G phải đặt người dùng vào vị trí trung tâm (user-centric), và các dịch vụ trong tương lai sẽ phải tính đến sở thích, yêu cầu, địa điểm, tình huống, thuộc tính của từng người dùng như nghề nghiệp, tuổi tác, quốc tịch….
Tóm lược
Mặc dù thuật ngữ 4G vẫn chưa được bất kỳ một tổ chức chuẩn hóa nào định nghĩa một cách rõ ràng, tuy nhiên mạng 4G được kỳ vọng đáp ứng các đặc điểm sau:
- Đặc tính được kỳ vọng nhất của mạng 4G là cung cấp khả năng kết nối ABC, mọi lúc, mọi nơi. Để thỏa mãn được điều đó, mạng 4G sẽ là mạng hỗn tạp (bao gồm nhiều công nghệ mạng khác nhau), kết nối, tích hợp nhau trên nền toàn IP. Thiết bị di động của 4G sẽ là đa công nghệ (multi-technology), đa mốt (multi-mode) để có thể kết nối với nhiều loại mạng truy nhập khác nhau. Muốn vậy, thiết bị di động sẽ sử dụng giải pháp SDR (Software Defined Radio) để có thể tự cấu hình nhiều loại rađio khác nhau thông qua một phần cứng rađio duy nhất.
- Mạng 4G cung cấp giải pháp chuyển giao liên tục, không vết ngắt (seamless) giữa nhiều công nghệ mạng khác nhau và giữa nhiều thiết bị di động khác nhau.
- Mạng 4G cung cấp kết nối băng rộng với tốc độ tầm 100Mb/s và cơ chế nhằm đảm bảo QoS cho các dịch vụ đa phương tiện thời gian thực.
- Để vượt lên khỏi tình trạng bảo hòa của thị trường viễn thông, các nhà cung cấp mạng sẽ phải tìm kiếm khách hàng bằng các dịch vụ tùy biến theo yêu cầu của khách hàng.
- Mạng 4G sẽ lấy người dùng làm tâm điểm.
Quốc Thịnh
Theo TTCN