Ngọc Đản - Nhà báo đầu tiên có mặt tại dinh Độc Lập trưa 30.04.1975

Khởi đầu là phóng viên Thông tấn quân sự, rồi phóng viên báo Nhân Dân, đã bảo vệ luận án tiến sĩ báo chí ở Liên Xô (cũ) với đề tài “Báo chí Việt Nam như một yếu tố góp phần hình thành  chính sách kinh tế trong điều kiện thị trường”, nghỉ hưu ở cương vị Tổng biên tập Tạp chí Truyền hình, nay vẫn tháp tùng Chủ tịch nước ở vai trò ký giả; TS Đậu Ngọc Đản (Ngọc Đản) có một cuộc đời làm báo hết sức phong phú. Ông và nhà báo Hoàng Thiểm là nhà báo miền Bắc đầu tiên có mặt ở Dinh Độc lập vào trưa 30.04.1975. Dưới đây là chia sẻ của ông với đồng nghiệp qua Tạp chí Người Làm Báo.

Nhà báo Ngọc Đản (bên phải) và đồng nghiệp (nhà báo Giãn Thanh Sơn – Báo Công An TP.HCM) trong một chuyến tác nghiệp tại Nga.

 Ở hậu phương, nhà báo vẫn “đi chiến trường” nhiều!    

 Thưa ông, “con đường đẹp nhất” đã đưa ông đến với Thông tấn quân sự, với nghề báo ra sao?

Đúng như Lê Mã Lương nói “Cuộc đời đẹp nhất là ở trên trận tuyến đánh quân thù”. Tôi nghĩ rằng, bất cứ kẻ xâm lược nào, trước khi cất quân, nếu hiểu được điều này, sẽ không bao giờ cất quân đến nữa để chịu thất bại như Lý Thường Kiệt từng cảnh cáo Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

 Năm 1969, tốt nghiệp lớp 10, tôi được tuyển vào ĐH Thủy sản. Nhưng báo Hà Tĩnh lại giới thiệu tôi đi học ĐH báo chí. Duyên do, khi còn là học sinh, tôi thường xuyên đặt báo và tập viết báo, đã có bài về tấm gương một ông bưu điện xã đăng trên báo Nhân Dân, bài một cô vợ bộ đội giỏi việc nước đảm việc nhà được giải nhì của báo Hà Tĩnh.

 Học xong báo chí, vừa lúc Tổng cục Chính trị yêu cầu 53 người đi chiến trường, gọi là lớp phóng viên tiền phương. Năm 1972, tôi được vào Quảng Trị, cắm  vào trung đoàn 36, sư 308. Cuộc đời phóng viên chiến tranh bắt đầu từ đó.

 Ở Quảng Trị, vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, tôi đã có một số bài viết đáng nhớ như Dũng sĩ thành Quảng Trị, Kim Cúc đọc trên đài trong rất nhiều buổi phát thanh. Lại có bài Trận đánh mang sức nóng Quảng Trị trên báo Nhân Dân, trong chuyên mục  Viết tại chỗ về Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không. Về chuyên mục này, hồi ký chưa xuất bản của nhà báo Thép Mới viết: “Chưa bao giờ tờ báo đối với người Hà Nội đáng yêu đến như thế! Thực hiện chỉ thị còn mới của Ban Bí thư về công tác báo nhấn rất mạnh sự Tranh thủ trí tuệ của toàn xã hội, chúng ta (Báo Nhân Dân) lôi cuốn cả Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận và nhiều cây viết tên tuổi cộng tác với chúng ta. Vì chúng ta hiểu rằng đồng bào miền Nam chịu họ hơn chúng ta nhiều. Đặc biệt sau đêm chiến thắng rực rỡ 26.12.1972, báo sáng 28 chúng ta ra lời kêu gọi bạn đọc viết cho mục Viết tại chỗ về Hà Nội - Điện Biên Phủ, sáng tạo ra thành ngữ Điện Biên Phủ trên không… Tức là chuyên mục này nhằm tập hợp những nhà văn lớn, nhưng cây bút tên tuổi, tôi được “chen” vào đó là một may mắn. Đang thích ở chiến trường thì Cục Tuyên huấn yêu cầu về Phòng Thông tấn quân sự (TTQS) tại Hà Nội. Nghe tôi nài nỉ xin đi, anh Lê Minh, trưởng phòng nói: Cậu yên tâm. Ở đây còn đi chiến trường nhiều hơn!

Trong tổ chức chúng ta thời điểm ấy, TTQS thì gắn chặt với Việt Nam Thông tấn xã, phát thanh quân đội thì gắn vào Đài Tiếng nói Việt Nam.

Quả như anh Lê Minh nói, ở TTQS, tôi được đi nhiều hơn, rộng hơn”. Suốt những năm 1973-1974, tôi liên tục được cử vào chiến trường Quảng Trị.

 Nhà báo đầu tiên có mặt ở Dinh Độc lập trưa 30.04.1975

 Theo bước chân thần tốc của chiến dịch Đại thắng Mùa Xuân, nhà báo Ngọc Đản lúc đó đã vượt đèo Hải Vân và “Nam tiến” ra sao?

 Tháng 02.1975, tôi được vào Nam, theo bước các binh đoàn trong cuộc tổng tiến công, nổi dậy. 26.03.1975 có mặt ở Huế. Đi xe Honda vượt Hải Vân, 29.03.1975 có mặt ở Đà Nẵng. 29.04.1975 đến Xuân Lộc. Gặp Cục trưởng Cục Văn hóa Hồng Cư, Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 2 Lê Khả Phiêu, được các ông trực tiếp giao nhiệm vụ đi ngay vào Sài Gòn, theo trung đoàn 66 của 304. Rồi gặp và bám xe tăng thứ tư của Lữ đoàn 203. Đánh nhau ác liệt ở cầu Sài Gòn. Tiến thẳng vào dinh Độc lập, chứng kiến và chụp được ảnh Phạm Xuân Thệ, đại úy, trung đoàn phó, hùng dũng bước lên nhận sự đầu hàng của chính quyền Sài Gòn. Tôi và anh Hoàng Thiểm, cùng ở TTQS, là hai nhà báo đầu tiên của miền Bắc có mặt tại dinh Độc lập vào giây phút lịch sử ấy.

  Là tác giả bức ảnh “Cô Nhíp” - chiến sĩ biệt động Nguyễn Trung Kiên dẫn đường cho xe tăng ta tiến vào Sài Gòn năm 1975 là một bức ảnh lịch sử, có hàm lượng thông tin rất lớn. Sau gần 40 năm kể từ ngày bấm máy, ông có thể nói thêm điều gì?

Tôi gặp cô Nhíp ở Tân Sơn Nhất. Thấy xe tăng cắm cờ Quân giải phóng, lại có cô gái đẹp, vừa hiền dịu, vừa hiên ngang. Hỏi, được biết là xe tăng Quân đoàn 3, cô gái tên là Cao Thị Nhíp, tên hoạt động là NguyễnTrung Kiên. Nhíp con nhà nghèo, quê Tiền Giang, lên Sài Gòn hoạt động cách mạng, tham gia biệt động thành dưới vỏ bọc là người làm công cho gia đình một sĩ quan ngụy. Vốn thông thuộc đường sá, Nhíp đã dẫn đường cho xe tăng ta vào đánh Tân Sơn Nhất và các vị trí quân sự khác.

Ngay khi gặp cô Nhíp bên xe tăng, tôi đã bị cái đẹp cuốn hút, cảm giác ngay rằng đây là một hình tượng. Hình tượng của tổng tiến công (quân chủ lực) và nổi dậy (nhân dân). Hình tượng Việt Nam: Nụ cười tươi sáng, hiền dịu, yêu hòa bình nhưng kiên cường gan góc, quyết thắng. Trong tư thế chiến thắng, toát lên sự nhân hậu, vị tha…

Đồ nghề tác nghiệp của ông lúc đó?

Máy hiệu Canon, ống kính liền, chỉ một tiêu cự. Trước đó tôi chủ yếu chụp bằng máy Kiep.

Sau đó, để chuyển bài vở ra Hà Nội kịp thời, ông đã “điều” một sĩ quan ngụy lái xe chở ông từ Sài Gòn ra Đà Nẵng. Có thể coi đó là một giải pháp xử lý tình huống nghiệp vụ?

Trưa 30.04 ấy, từ dinh Độc Lập tôi không đi về Đài phát thanh, mà tìm cách chuyển bài vở nhanh ra Bắc. Trong sân, rất nhiều nhân viên, tùy tùng của chính phủ Sài Gòn đứng đợi. Tôi nói to, dõng dạc: “Chúng tôi là phóng viên ở miền Bắc vào. Đây là thời cơ lập công của các ông. Ai có thể chở chúng tôi đến sân bay Tân Sơn Nhất?”. Năm sáu cánh tay giơ lên. Tôi chỉ vào một người. Đó chính là Võ Cự Long, sĩ quan lái xe dẫn đường của nội các Sài Gòn. Nhưng đến Tân Sơn Nhất, không có máy bay. Chúng tôi phải đi thẳng ra Đà Nẵng mới chuyển được. Phản ứng nghề nghiệp ấy trước hết là do tính cấp bách, trọng đại của công việc, của lời thề người lính khi nhận nhiệm vụ, phải “tận tâm tận lực thi hành một cách nhanh chóng và chính xác”.

 Luôn có mặt ở điểm nóng

 Khi chuyển về báo Nhân Dân, ông có nhiều bài viết xuất sắc về quân sự. Đặc biệt, ông là người đầu tiên và người có nhiều bài viết gây xúc động về cuộc chiến đấu, hy sinh của các chiến sĩ hải quân ta chống trả quân Trung Quốc xâm chiếm đảo Gạc Ma. Kinh nghiệm của một phóng viên chiến tranh và điều gì nữa giúp cho ông có được sự “độc quyền” này?

 Lại một tình cờ, ngẫu nhiên nữa. Đầu tháng 03.1988, tôi khi đó là phóng viên của báo Nhân Dân, được cử đi công tác Trường Sa cùng bộ đội hải quân. Chuyến đi xuất phát tại quân cảng Cam Ranh. Đến phút chót, có lệnh: Các sĩ quan và chiến sĩ trên chuyến tàu ra đảo Sinh Tồn, Len Đao, Gạc Ma sẽ chốt giữ lại trên đảo dài ngày, tàu không quay lại đất liền như dự định. Đương nhiên tôi bị gạt lại, chờ chuyến khác.

 Rồi chiến sự nổ ra vào ngày 14.03.1988, nhờ vị thế báo Nhân Dân, và máu nghề, tôi được nghe thông tin chiến sự trong giao ban, lăn lộn lắng nghe phản ứng và tình cảm của dân chúng. Căm phẫn trước hành động chiếm đóng trái phép của quân đội Trung Quốc, mong mỏi thông tin cho cả nước biết; liên tiếp các ngày đó tôi thức viết liên tục và gửi về tòa soạn hàng chục bài báo và được đăng kịp thời như Trường Sa trong lòng hậu phương Phú Khánh (22.03.1988); Cuộc tiến công bằng tàu khu trục mang tên lửa của Trung Quốc vào ba tàu vận tải không có vũ khí tiến công của ta ở vùng đảo Sinh Tồn (24.03.1988). Rồi các bài kể về sự hy sinh của thiếu úy Trần Văn Phương trên đảo Gạc Ma, Tàu S-71 giữa sóng lớn Trường Sa...

Sau đó, chúng tôi lại tiếp tục ra đảo. Nói chúng tôi, vì chuyến này còn có thêm các nhà báo Trần Bình Minh (Đài THVN), Đình Trân (TTXVN), Hồ Anh Thắng (Báo Quân Đội Nhân Dân), Lê Phức, Vinh Quang (Báo Ảnh Việt Nam), Đạo diễn Lê Mạnh Thích (Xưởng phim Tài liệu Khoa học Trung ương)...

Lúc này, tôi đã có một nhận thức mới, sâu sắc hơn về biển đảo: Rằng, từ đây Tổ quốc ở trên đầu ngọn sóng, rằng, chúng ta đang phải đối mặt với một âm mưu bành trướng không chấm dứt…

Tôi nói thêm rằng, tôi có nhiều ngẫu nhiên may mắn trong nghề nghiệp, nhưng chuỗi ngẫu nhiên ấy nằm trong sự tất nhiên: đó là sự say nghề, yêu nghề.

Nay đã nghỉ hưu, nhưng ông vẫn năng nổ, say mê với nghề báo. Vì sao vậy? Nghề báo có gì thu hút? Làm báo bây giờ có khó hơn trước không, thưa ông? Điều gì cần nhất hay là một nguyên tắc tóm lược cho nghề báo?

Nghề báo là một nghề hay. Hay thì khó bỏ. Tôi cảm nhận được cái hay này lần đầu tiên khi nhận giải báo Hà Tĩnh. Chỉ là một đứa trẻ con, vì bài báo mà cả xã, cả huyện biết đến và ai cũng tôn trọng.

Nghề báo là một nghề hay vì được đi nhiều, nghe nhiều do đó học được nhiều; và bắt phải không ngừng học hỏi để tiến mãi, nhất là học trong cuộc sống, học để sống. Làm báo không muốn mới cũng phải mới, nên được và phải làm mới mình liên tục. Khi bài báo viết xong, trước mắt lại là một tờ giấy trắng, lại “về mo”, cái đầu cũng trắng. Ngày mới, đề tài mới, lại bắt đầu lại từ đầu…

Nghề báo hay vì có nhiều bạn, bạn đủ các giới; vì nói được tiếng nói của dân, có khi đại diện được cho họ - tức là con người mình được nhân lên; được dân tin mến, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ; ở nơi nào cũng được tôn trọng.

Và khi đã là nhà báo, dù không chức vụ gì, anh vẫn được người ta nhớ, vẫn làm việc mãi.

Còn về nguyên tắc, tôi không phải là nhà lý luận; tôi chỉ nói quan niệm của tôi thôi: Đó là đam mê, có ước vọng cống hiến, có niềm tin chân lý và chiến đấu để bảo vệ nó, không lung lạc trước mọi cám dỗ, quyền lợi trái ngược với đạo lý. Làm báo là làm chính trị nhưng không lợi dụng nó để mưu cầu lợi ích riêng.

 Xin cảm ơn ông. Chúc ông mãi là người lính tuổi hai mươi trên mặt trận báo chí.

Nguyễn Sĩ Đại

Nguồn: nguoilambao.vn

Tin nổi bật