Syndicate content

Viễn thông

Công nghệ di động nào sẽ bùng nổ vào năm 2017

(ICTPress) - Ericsson vừa công bố báo cáo về lưu lượng, thị trường viễn thông và công nghệ đến năm 2017. Báo cáo này vừa được phát hành trong tháng 6 này.

Báo cáo về Lưu lượng và Thị trường của Ericsson công bố vào tháng 6/2012 này cho biết 85% dân số thế giới sẽ được phủ sóng 3G vào năm 2017, 50% dân số thế giới sẽ được phủ sóng 4G vào năm 201; Tới năm 2017, dự kiến sẽ có 3 tỉ thuê bao smartphone; Trên toàn cầu, số lượng thuê bao di động tính tới quý 1 năm 2012 là 6,2 tỉ và số lượng thuê bao di động mới trong một quý là 170 triệu và lưu lượng dữ liệu toàn cầu sẽ tăng gấp 15 lần tính tới năm 2017.

Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương, và nhóm quốc gia này góp phần tạo nên 93 triệu thuê bao mới trong quý 1/2012.

Thuê bao di động tăng trưởng trung bình 60%/năm

Tính tới quý 1/2012, tổng số thuê bao di động là 6,2 tỉ thuê bao, chiếm 87% dân số thế giới. Tuy nhiên số lượng thuê bao thực tế khoảng 4,2 tỉ bởi có người dùng có vài thuê bao một lúc. Tính riêng trong quý 1/2012, số lượng thuê bao mới tăng thêm là 170 triệu.

Mức độ tăng trưởng về số lượng thuê bao trung bình tính theo năm là 12% và theo quý là 35%.

Số lượng thuê bao băng rộng di động tăng trưởng trung bình 60%/năm và đã đạt tới 1,1 tỉ thuê bao.

Việt Nam thuộc châu Á - Thái Bình Dương (không tính Ấn Độ và Trung Quốc) là nhóm quốc gia có mức tăng trưởng thuê bao tính tới quý 1/2012 là 82%.

Biểu đồ 1: Số lượng thuê bao theo khu vực, tính tới quý 1/2012. APAC viết tắt cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Biểu đồ 2: Tăng trưởng về thuê bao di động băng rộng từ năm 2008 tới năm 2017

Hiện nay, khoảng 75% mạng HSPA trên toàn cầu đã được nâng cấp lên tốc độ 7,2 Mbps và khoảng 40% đã nâng cấp lên tốc độ 21 Mbps. Khoảng 15% mạng HSPA đã nâng tốc độ lên 42 Mbps và một số nơi đã tạo nên đột phá khi nâng tốc độ lên 100 Mbps.

Biểu đồ 3: Tỉ lệ các mạng di động 3G/HSPA nâng cấp theo tốc độ

Công nghệ di động - thuê bao GSM/EDGE giảm sau 2012

GSM/EDGE sẽ tiếp tục đi đầu về mức tăng trưởng trong những năm tới cho dù công nghệ HSPA cũng đang có mức tăng trưởng nhanh chóng. Lý do cho xu hướng này là vì người sử dụng ở nhóm thu nhập thấp tại các quốc gia đang phát triển có xu hướng sử dụng các loại điện thoại giá rẻ đồng thời cần thời gian để nâng cấp hệ thống nền tảng điện thoại. Tuy nhiên, sau năm 2012, xu thế thuê bao GSM/EDGE sẽ giảm.

LTE đang được triển khai ở một số vùng trên thế giới và có khoảng 1 tỉ thuê bao vào năm 2017. Tính tới năm 2017, sẽ có khoảng 9 tỉ thuê bao di động.

Biểu đồ 4: Mức tăng trưởng số lượng thuê bao tính theo công nghệ từ 2008 tới 2017

Thiết bị đầu cuối - smartphone sẽ đạt 3 tỷ vào 2017

Năm 2011, số lượng thuê bao smartphone là 700 triệu và dự kiến sẽ là 3 tỉ vào năm 2017. Các dòng điện thoại smartphone Lưu lượng cao (High Trafic Smartphones - HT Smartphone) như iPhone, Android và Windows thường tạo ra lưu lượng gấp 5 - 10 lần so với loại thiết bị lưu lượng thấp.

Các yếu tố khác như kích thước màn hình, năm ra đời của thiết bị và sự phổ biến của từng dòng sản phẩm có liên hệ chặt chẽ đối với những người sử dụng tích cực, tạo ra lưu lượng trung bình khoảng 1MB/ngày. Ericsson dự đoán tổng số thuê bao sử dụng các thiết bị lưu lượng lớn sẽ tăng từ 850 triệu năm 2011 lên tới 3,8 tỉ năm 2017, bao gồm smartphone, PC di động và máy tính bảng kết nối mạng di động. Một số PC di động tuy có tính năng kết nối 3G/4G nhưng không có kích hoạt thuê bao di động

Biểu đồ 5: Tỉ lệ giữa các loại PC di động cài đặt modem 3G/4G có kết nối hoặc không kết nối thuê bao di động

Năm 2017, khoảng 1/3 số lượng PC di động sẽ có đăng ký thuê bao 3G/4G, số còn lại sẽ sử dụng Wi-Fi hoặc Ethernet. Đồng thời, khoảng ½ số lượng máy tính bảng sẽ cài đặt sẵn modem 3G/4G. Một số máy tính bảng tuy có tính năng kết nối 3G/4G nhưng không có kích hoạt thuê bao di động.

Biểu đồ 6: Tỷ lệ giữa các loại máy tính bảng tablet cài đặt tính năng 3G/4G có kết nối hoặc không kết nối thuê bao di động

Lưu lượng dữ liệu và thoại chủ yếu tăng ở châu Á - TBD, Trung Đông và châu Phi

Xu hướng tương lai là sự tăng trưởng ổn định của lưu lượng dữ liệu cả trên phương diện số lượng thuê bao sử dụng dữ liệu di động và lưu lượng dữ liệu trung bình của mỗi thuê bao. Sự tăng trưởng này chủ yếu là do số lượng người dùng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Trung Đông và châu Phi. Tuy nhiên mức độ lưu lượng có sự khác biệt lớn giữa các thị trường, khu vực và các nhà mạng.

Lưu lượng dữ liệu di động tăng gần gấp hai lần trong quãng thời gian từ quý 1/2011 tới quý 1/2012. Mức độ tăng trưởng trong một quý, trong khoảng thời gian từ quý 4/2011 tới quý 1/2012 là 19%.

Biểu đồ 7: Mức tăng trưởng lưu lượng thoại và lưu lượng dữ liệu từ 2007 tới quý 1/2012

Tới cuối năm 2017, lưu lượng dữ liệu di động sẽ tăng 15 lần. Hiện tại, PC di động chiếm tỉ lệ chính về việc tạo ra lưu lượng trong các mạng di động, tuy nhiên trong những năm tới, tỉ lệ này sẽ cân bằng hơn giữa PC di động, máy tính bảng và điện thoại di động (ĐTDĐ).

Biểu đồ 8: Mức tăng trưởng của lưu lượng dữ liệu của PC di động/máy tính bảng và ĐTDĐ so với tăng trưởng về thoại

Lưu lượng trên mỗi thuê bao liên quan tới kích thước màn hình thiết bị đầu cuối. Trung bình PC di động tạo ra lưu lượng gấp 4 lần so với HT smartphone. Tới cuối năm 2011, lưu lượng dữ liệu trung bình theo tháng của mobile PC là  2 GB/tháng và của smartphone là 500 MB. Tới cuối 2017, dự kiến một PC di động sẽ tạo ra 8 GB/tháng và một smartphone sẽ tạo ra trên 1 GB/tháng.

Vùng phủ sóng - 85% dân số phủ sóng WCDMA/HSPA vào 2017

Tới năm 2017, 85% dân số sẽ phủ sóng WCDMA/HSPA.

Hiện tại, công nghệ GSM/EDGE đã phủ hơn 85% dân số thế giới và WCDMA/HSPA phủ sóng 45% dân số. Sự phổ biến WCDMA/HSPA sẽ tăng nhanh hơn khi xuất hiện nhiều điện thoại smartphone giá rẻ và sự tăng trưởng của băng rộng di động tốc độ cao kèm theo chính sách điều hành viễn thông của từng khu vực.

Tới tháng 2/2012, LTE phủ sóng khoảng 315 triệu người trên toàn cầu. Trong 5 năm tới, dự kiến sẽ phủ sóng cho 50% dân số.

Biểu đồ 9: Mức độ phổ biến theo từng công nghệ so sánh giữa năm 2011 và tương lai 2017

Thuê bao smartphone hài lòng vùng phủ sóng 3G

Sự tăng trưởng smartphone diễn ra nhanh chóng với tỉ lệ trung bình 40% người sử dụng truy cập Internet và các ứng dụng trước khi rời khỏi giường ngủ. 51% người sử dụng smartphone hài lòng với chất lượng mạng di động và chỉ có 3% là không hài lòng. 47% cho rằng tốc độ mạng chậm là nguyên nhân phổ biến nhất cho các vấn đề về truy cập Internet qua smartphone.

Nghiên cứu này tiến hành ở Hà Lan và Phần Lan, được thực hiện trực tuyến với 1.000 người sử dụng smartphone 3G, tuổi đời từ 18 tới 69 với tần suất sử dụng là trên 1 lần/1 tuần.

Nghiên cứu cho thấy một số nhân tố phổ biến dưới đây mang lại sự hài lòng đối với người sử dụng smartphone, đó là vùng phủ sóng mạng 3G, mạng 3G có tốc độ truy cập cao và mức chi phí.

Biểu đồ 10: Sự tương quan giữa các yếu tố và mức độ hài lòng của thuê bao smartphone

Lưu lượng dữ liệu theo hệ điều hành

iPhone và Android tạo ra mức lưu lượng lớn nhất trong các thuê bao. Nguyên nhân chính về sự khác biệt giữa các hệ điều hành là gói giá cước do các nhà mạng quy định.

Biểu đồ 11: Lưu lượng trung bình tính trên từng thuê bao đối với các dòng điện thoại có hệ điều hành khác nhau trên các mạng di động khác nhau, trong đó vạch đen ngang chỉ giá trị trung bình.

Lưu lượng trung bình mỗi thuê bao sử dụng phụ thuộc nhiều vào gói cước và dòng điện thoại mà họ sử dụng. Có một thực tế là người sử dụng nhiều có xu hướng chuyển sang model điện thoại mới hơn. Vì vậy sự gia tăng về mức độ sử dụng phụ thuộc vào cả hai yếu tố thiết bị mới và phân khúc khách hàng mà các hãng hướng tới. Lưu lượng do các điện thoại đang dùng sẽ cao hơn so với loại điện thoại mới ra đời bởi sự khác biệt về gói giá cước dịch vụ đi kèm.

Biểu đồ 12: Lưu lượng trung bình tính trên mỗi gói cước theo từng dòng điện thoại khác nhau của cùng một nhà cung cấp
Biểu đồ 13: Lưu lượng trung bình tính trên mỗi gói cước theo từng mẫu iPhone

Tài liệu tham khảo:

[1]. Phiên bản Báo cáo tiếng Anh đầy đủ: http://www.ericsson.com/res/docs/2012/traffic_and_market_report_june_2012.pdf

[2]. Chuyên trang về báo cáo: http://www.ericsson.com/traffic-market-report

[3]. Thông cáo báo chí tiếng Anh: http://www.ericsson.com/news/1617338

Giải pháp TDFi của Huawei - hợp nhất những người dùng WiFi và LTE TDD

(ICTPress) - Huawei, ngày 23/5 đã chính thức giới thiệu giải pháp tổng thể TDFi tại Hội nghị Thượng đỉnh LTE (LTE World Summit) 2012 lần thứ 8 được diễn ra từ ngày 22 - 24/5/2012 tại Barcelona, Tây Ban Nha.

Với giải pháp TDFi, người dùng cuối có thể truy cập các hệ thống mạng LTE TDD bằng bất kỳ thiết bị hỗ trợ WiFi nào để sử dụng các dịch vụ dữ liệu di động tốc độ cao.

Sự xuất hiện của băng rộng di động đã thúc đẩy nhu cầu về các dịch vụ dữ liệu tốc độ cao gia tăng mạnh mẽ. Nhưng trong khi việc thương mại hóa công nghệ LTE TDD đang diễn ra nhanh chóng thì các thiết bị tương thích với công nghệ này vẫn chưa thực sự sẵn sàng bắt nhịp.

Để thúc đẩy việc truy cập các hệ thống mạng LTE TDD, giải pháp TDFi sáng tạo của Huawei đã hợp nhất người dùng WiFi với người dùng LTE TDD nhanh chóng. Giải pháp này nâng cao việc sử dụng nguồn lực mạng LTE TDD, và thúc đẩy việc phân phối dữ liệu mạng hiện có trong các khu vực truy cập (hotspot). TDFi cũng sẽ giúp các nhà khai thác thu hút người dùng nhiều hơn và cải thiện năng lực mạng để tối ưu hóa lợi nhuận.

Các mạng WiFi truyền thống sử dụng truyền tải hữu tuyến, điều này gây ra việc thiếu hụt các nguồn truyền tải và thủ tục triển khai mất nhiều thời gian. Giải pháp TDFi sử dụng mạng trục vô tuyến LTE TDD thay cho mạng trục hữu tuyến để giải quyết khó khăn cuối cùng trong việc triển khai mạng WLAN. So với các hệ thống mạng WiFi truyền thống, giải pháp TDFi giúp các nhà khai thác triển khai nhanh chóng, tiết kiệm chi phí và hỗ trợ xác nhận người sử dụng WiFi.

Hồi tháng 3, mạng di động China Mobile đã đi đầu trong việc tổ chức hoạt động mang tên “China Mobile Happy LTE TDD Network Experience” tại Hàng Châu. Sử dụng giải pháp TDFi của Huawei, những người dùng đi trên các chuyến xe bus được trải nghiệm các dịch vụ dữ liệu LTE TDD nhanh chóng và ổn định qua việc sử dụng các smartphone hỗ trợ WiFi. Tốc độ của mạng LTE TDD giữ ổn định ở mức trên 30 Mbps, cao gấp 20 lần so với tốc độ của mạng UMTS.

Huawei cho biết giải pháp TDFi còn thể hiện ý nghĩa xã hội quan trọng. TDFi có thể tổ chức trạm phát sóng phủ trên các xe bus, giúp thúc đẩy triển khai giao thông xanh. Trong tương lai không xa, giải pháp TDFi sẽ giúp các mạng LTE TDD nâng cao khả năng truyền thông di động của con người trong chăm sóc y tế, chia sẻ thông tin, quản lý cộng đồng và hình ảnh di động giữa con người với con người.

X.T

Chuyện “cắm mốc” chủ quyền cho vệ tinh VINASAT-2

(ICTPress) - 5 giờ 13 phút sáng ngày 16/5/2012, vệ tinh Vinasat-2 của Việt Nam sẽ được phóng lên quỹ đạo địa tĩnh ở vị trí 131,8o Đông. Để có được chủ quyền cho các vệ tinh Vinasat-1 và 2 là cả một sự nỗ lực của đội ngũ các cán bộ chuyên viên của Cục Tần số, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT). Nhân dịp này, ICTPress xin giới thiệu đến bạn đọc câu chuyện “cắm mốc” chủ quyền cho vệ tinh Vinasat-2.

Đặc điểm của thông tin vệ tinh là khả năng phủ sóng rộng, không bị giới hạn bởi địa giới hành chính, việc thiết lập đường truyền đơn giản, nhanh chóng nên khi nền kinh tế phát triển việc các doanh nghiệp (DN) sử dụng dịch vụ thuê vệ tinh, thuê kênh của quốc tế là một nhu cầu tất yếu.

Trên thế giới, số lượng các vệ tinh được phóng lên quỹ đạo ngày càng tăng, kèm theo đó việc sử dụng phổ tần số vô tuyến điện dành cho thông tin vệ tinh cũng tăng lên nhanh chóng. Điều này dẫn đến việc tìm kiếm quỹ đạo vệ tinh ngày càng khó khăn. Để đăng ký được một vị trí quỹ đạo với Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) thì ít nhất cũng phải phối hợp với vài chục nước, cả trăm mạng vệ tinh (vệ tinh thật và mạng vệ tinh đã đăng ký trước). Nhiệm vụ phối hợp này rất phức tạp, khó khăn và rất tốn kém mà không phải lúc nào đăng ký cũng có thể dành được vị trí quỹ đạo, cũng có thể phối hợp thành công. 

Hình 1 và 2. Vùng phủ vệ tinh VINASAT-1 băng tần Ku và C

Chuẩn bị dự án phóng vệ tinh đầu tiên (vệ tinh VINASAT-1) vào vị trí 132o Đông nằm cách mặt đất khoảng 38.638 km, Việt Nam đã thực hiện các thủ tục đăng ký vị trí quỹ đạo và phối hợp tần số từ năm 1996 và theo quy định của ITU, Việt Nam phải thực hiện đàm phán thỏa thuận với 27 quốc gia, trong đó có: Indonesia, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Tonga, Anh, Pháp, Thái Lan… Sau hơn 10 năm thực hiện các thủ tục phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh hết sức phức tạp, đầu năm 2008 về cơ bản hoàn thành phối hợp với các mạng vệ tinh xung quanh vị trí quỹ đạo 132E để sẵn sàng phóng vệ tinh VINASAT-1.

Ngày 19/4/2008, tên lửa Ariane 5 của Arianespace đã đưa vệ tinh VINASAT-1 của Việt Nam vào quỹ đạo. Sự kiện này đánh dấu "chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên không gian" bước đầu thực hiện giấc mơ “không gian” phát triển mở rộng, hình thành mạng lưới viễn thông đồng bộ từ hệ thống cáp quang, hệ thống vô tuyến đến hệ thống thông tin vệ tinh đảm bảo thông tin liên lạc luôn được thông suốt trong mọi điều kiện địa hình, thời tiết. Vệ tinh VINASAT-1 thực sự đã là cầu nối truyền thông quan trọng với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Bằng việc có vệ tinh VINASAT-1 trên quỹ đạo, Việt Nam sẽ có khả năng cung cấp đa dạng các dịch vụ viễn thông không chỉ trong nước mà còn cả ở nước ngoài không còn phải phụ thuộc vào việc thuê kênh vệ tinh của nước ngoài.

Quá trình cho thuê dung lượng bộ phát đáp của vệ tinh VINASAT-1 rất khả quan, hiện nay đã khai thác hết dung lượng băng tần Ku và trên 80% dung lượng băng tần C. Thường khi sử dụng khoảng 70% dung lượng vệ tinh hiện tại là phải nghĩ đến việc xây dựng vệ tinh tiếp theo. Điều này cho thấy nhu cầu cần thiết phóng vệ tinh VINASAT-2 nối dài giấc mơ không gian, chắp cánh mở rộng cho vệ tinh VINASAT-1, vệ tinh thế hệ đầu tiên của Việt Nam.

Hình 3. Dịch vụ do VINASAT-1 cung cấp

Giấc mơ đó đã trở thành hiện thực bởi không chỉ “cắm mốc chủ quyền” với vị trí 132o Đông, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) trong đó Cục Tần số là đơn vị chủ trì đã đăng ký thành công vị trí quỹ đạo khác là 131.8o Đông sẵn sàng cho việc phóng vệ tinh VINASAT-2.

Phải nói rằng việc dành được vị trí quỹ đạo 131.8o Đông sẵn sàng cho việc phóng vệ tinh thứ 2 của Việt Nam cho thấy một tầm nhìn chiến lược, một quyết sách đúng đắn. Trong quá trình phối hợp vị trí quỹ đạo 132o Đông cho dự án VINASAT-1, Cục Tần số đã nhận thấy tương lai Việt Nam sẽ không chỉ phóng một vệ tinh duy nhất, mà sẽ là một chuỗi vệ tinh để hình thành nên một hệ thống mạng vệ tinh đầy đủ, tin cậy (có dự phòng) để cung cấp cho nhu cầu sử dụng thông tin vệ tinh trong nước và quốc tế. Cục Tần số đã gửi các văn bản tới các DN Việt Nam để chủ động tìm hiểu khả năng sử dụng thông tin vệ tinh, khả năng phóng vệ tinh viễn thông hoặc các DN có thể liên doanh với các đối tác của nước ngoài để phóng vệ tinh. Vì vậy, cần phải có thêm nguồn tài nguyên quỹ đạo vệ tinh (cần “đất” cho vệ tinh). Trong khi đó vị trí quỹ đạo ngày càng chật chội, việc hoàn thành phối hợp với các mạng vệ tinh xung quanh một vị trí quỹ đạo được đăng ký mới vô cùng khó khăn điều này thể hiện rõ qua thực tế phối hợp cho vị trí quỹ đạo 132o Đông mà Việt Nam đã phải thực hiện.

Trước tình hình đó, Cục Tần số đã có một quyết định chiến lược, đó là tìm kiếm vị trí quỹ đạo trong băng tần quy hoạch. Băng tần này được thế giới quy hoạch với mục đích là để phân bổ cho mỗi nước một vị trí quỹ đạo (“của để giành”) với vùng phủ chỉ phủ quốc gia (nội địa) để tạo điều kiện cho các nước ít nhất cũng có một vị trí quỹ đạo để phóng vệ tinh trong tương lai (Việt Nam được phân bổ vị trí quỹ đạo 107o Đông). Tuy nhiên, vì qui hoạch cho các nước nên các tham số kỹ thuật được phân bổ không thuận lợi cho việc khai thác vệ tinh thương mại như đường kính anten băng tần C sử dụng là 7m, băng tần Ku là 3m.

Chính vì thế, Cục Tần số đã quyết tâm đăng ký vị trí quỹ đạo mới trong băng tần quy hoạch (bên cạnh vị trí 107o Đông đã được phân cho Việt Nam) có khả năng khai thác vệ tinh thương mại với đường kính anten nhỏ hơn.

Năm 2003, Cục Tần số đã đăng ký vị trí quỹ đạo 97o Đông và 103o Đông với 2 hồ sơ mạng vệ tinh có tên VINASAT-FSS-97E-III (97E) và VINASAT-FSS-103E-III (103E). Đồng thời đăng ký mở rộng vùng dịch vụ của mạng vệ tinh được phân bổ tại vị trí 107o Đông có vùng phủ lớn.

Với tầm nhìn chiến lược đó, Cục Tần số đã cử các cán bộ, chuyên viên xuất sắc, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh liên tục tham gia các nhóm nghiên cứu của của ITU để nắm bắt từng qui định cụ thể, chi tiết và hết sức phức tạp của Thể lệ tần số vô tuyến điện quốc tế (luật quốc tế) qua đó không chỉ hiểu luật quốc tế mà còn có thể tham gia trực tiếp sửa đổi các điều khoản qui định có lợi cho Việt Nam tại các hội nghị này.

Đây là một quyết định hết sức quan trọng để thực hiện tầm nhìn chiến lược dành vị trí quỹ đạo cho Việt Nam. Bởi với việc tham gia liên tục tham gia các nhóm nghiên cứu của của ITU, Cục Tần số đã có những đóng góp trực tiếp để giảm kích thước đường kính anten theo quy định sử dụng trong băng tần này. Và trên hết là với tình hình thảo luận qua 4 năm (từ năm 2003 đến năm 2007) tại các nhóm nghiên cứu của ITU, Cục Tần số đã dự đoán khả năng thay đổi qui định sau hội nghị vô tuyến thế giới năm 2007 (WRC-07) xóa bỏ việc cho phép dịch chuyển vị trí quỹ đạo đã đăng ký sang vị trí mới. Chính vì thế, trước hội nghị WRC-07, Cục Tần số đã đăng ký mạng vệ tinh VINASAT-FSS-97E-III (quỹ đạo 97o Đông) và VINASAT-FSS-103E-III (quỹ đạo 103o Đông) được dịch vị trí quỹ đạo sang các vị trí 126o Đông và 131.8o Đông và được đổi tên là VINASAT-FSS-126E-III và VINASAT-FSS-131E-III. Việc dịch chuyển vị trí quỹ đạo này giúp Việt Nam giảm được các mạng vệ tinh phải phối hợp và đặc biệt tránh được can nhiễu lớn tới mạng vệ tinh của Liên Bang Nga. Và quả thực, sau Hội nghị WRC-07, việc di chuyển vị trí quỹ đạo đã không còn được phép thực hiện.

Tại cuộc họp phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh tháng 8/2007 tại Mátxơcơva, Liên bang Nga các chuyên gia phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh của Liên Bang Nga không tin Việt Nam có thể vận dụng Thể lệ (luật quốc tế) và kỹ thuật để dịch chuyển thành công, đăng ký cho vị trí quỹ đạo 126o Đông và 131,8o Đông. Bởi thực tế, ngoài việc vận dụng các qui định phức tạp của ITU thì sau khi đăng ký dịch chuyển vị trí quỹ đạo sang vị trí 126o Đông và 131,8o Đông, theo quy định Việt Nam chỉ có 1 tháng để xử lý tất cả các tham số kỹ thuật (đường kính anten, công xuất phát, vùng phủ,…) để loại bỏ hết can nhiễu đến mạng vệ tinh của các nước thì mới được đăng ký và được quốc tế công nhận. Điều này là vô cùng khó khăn đối với một nước đang phát triển, đang hội nhập và chưa có vệ tinh nào trên quỹ đạo.

Tuy nhiên với việc được cọ sát liên tục trong môi trường quốc tế, bản lĩnh và kinh nghiệm của các chuyên gia Cục Tần số đã ngày đêm tìm mọi cách tối ưu các tham số kỹ thuật, tự viết phần mềm thiết kế vùng phủ vệ tinh, chạy đi chạy lại nhiều lần phần mềm của ITU để dần từng bước loại bỏ can hết can nhiễu. Cuối cùng trước một tuần ngày hết hạn qui định của ITU, Cục Tần số đã tìm ra các tham số tối ưu, vùng phủ vệ tinh tối ưu đáp ứng được đầy đủ các điều kiện, quy định của ITU để đăng ký thành công vị trí quỹ đạo 126o Đông và 131.8o Đông sẵn sàng cho việc phóng vệ tinh VINASAT-2.

Dưới đây là các tham số mạng VINASAT-FSS-131,8E vị trí quĩ đạo: 131,8o Đông và mạng vệ tinh VINASAT-FSS-126E vị trí quỹ đạo: 126o Đông.

Băng tần C:

Vùng phủ sóng và vùng dịch vụ:

Băng tần Ku:

Vùng phủ sóng và vùng dịch vụ:

Đối với vị trí quỹ đạo 107o Đông (mạng vệ tinh VINASAT-FSS-107E), Cục Tần số đã áp dụng các kỹ thuật đặc biệt, tìm cách vận dụng quy định quốc tế để thiết kế, mở rộng vùng phủ tối đa cho mạng vệ tinh Việt Nam trong khi khoét các “điểm mù” để loại bỏ các can nhiễu có thể gây ra cho các nước. Với cách làm đó, vị trí 107o Đông cũng đã được đăng ký thành công sẵn sàng cho việc phóng vệ tinh của Việt Nam.

Như vậy, Việt Nam là một trong những nước đi đầu và thành công trong việc dành vị trí quỹ đạo trong băng tần qui hoạch (vị trí 107o Đông, vị trí 126o Đông và vị trí 131.8o Đông). Những vị trí này hết sức quý giá trong bối cảnh vị trí quỹ đạo là một nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm. Điều này đã khẳng định vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế trong vấn đề đăng ký, phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh. Đồng thời các cán bộ chuyên viên của Cục Tần số cũng đã khẳng định được trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý (luật quốc tế) trong khu vực và trên thế giới và một trong số đó những cán bộ, chuyên viên đó đã trở thành chuyên gia hàng đầu thế giới trong vấn đề xử lý đăng ký, phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh trong băng tần qui hoạch mà hiện nay anh đang làm việc cho ITU.

Tập đoàn VNPT đã đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông chấp thuận cho VNPT được sử dụng các vị trí quỹ đạo theo thứ tự ưu tiên là 107º Đông và 131.8º Đông.

Ngày 11/5/2010, tại Hà Nội, VNPT và Công ty Lockheed Martin Commercial Space Systems - Tập đoàn Lockheed Martin (Hoa Kỳ) đã ký kết Hợp đồng gói thầu “Cung cấp vệ tinh, thiết bị trạm điều khiển và dịch vụ phóng” thuộc dự án phóng vệ tinh viễn thông VINASAT-2 vào quý II năm 2012 chính thức biến giấc mơ chắp cánh cho VINASAT-1 trở thành hiện thực.

Để bảo giảm thiểu rủi ro (vệ tinh phải đưa vào sử dụng trước ngày 8/6/2012, nếu không sẽ mất vị trí quỹ đạo) và tăng cường mở rộng vùng dịch vụ cho vệ tinh VINASAT-2 (vùng dịch vụ vệ tinh VINASAT-2 chỉ bao phủ lãnh thổ Việt Nam), Cục Tần số đã thực hiện phối hợp mở rộng vùng dịch vụ cho vệ tinh VINASAT-2 với cơ quan quản lý tần số Lào. Dựa trên tinh thần hữu nghị, hợp tác đặc biệt giữa cơ quan quản lý tần số hai nước, Lào đã đồng ý, cho phép vùng dịch vụ của mạng vệ tinh VINASAT-FSS-131E-III (131.8E) được phủ lãnh thổ Lào. Cục Tần số cũng đã làm việc với cơ quan quản lý tần số Campuchia để sớm tổ chức cuộc họp phối hợp mở rộng vùng dịch vụ cho VINASAT-2 sang Campuchia trong năm nay. Tại Hội nghị vô tuyến thế giới năm 2012 (WRC-12), Cục Tần số đã đề nghị Hội nghị xem xét và cho phép hồ sơ mạng vệ tinh VINASAT-FSS-131E-III (131,8E) của Việt Nam được kéo dài 1 năm trong trường hợp trễ phóng do phóng kèm. Đề nghị của Việt Nam đã được Hội nghị chấp thuận, thông qua và ủy quyền cho RRB xem xét (được ghi tại biên bản của Hội nghị). Đây là một thành công lớn, giúp Việt Nam có cơ hội giữ được vị trí quỹ đạo trong trường hợp phóng trễ do phóng kèm.

Vệ tinh VINASAT-2 có công suất, trọng lượng lớn hơn, số bộ phát đáp nhiều hơn (VINASAT-2 có 24 bộ phát đáp trong khi VINASAT-1 chỉ có 20 bộ phát đáp) có thời gian sống 15 năm. Với thực tế việc kinh doanh băng tần Ku thuận lợi, VINASAT-2 chỉ được xây dựng với băng tần Ku. Tuy VINASAT-2 có hạn chế là vùng phủ của vệ tinh nhỏ hơn chỉ bao gồm Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan và một phần Mianma, tuy nhiên VINASAT-2 cũng đã được thiết kế với nhiều giải pháp kỹ thuật kết hợp với kết quả phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh sẽ có các vùng phủ linh hoạt mở rộng khả năng phục vụ nhu cầu khách hàng các nước trong khu vực. Cùng với VINASAT-1, vệ tinh VINASAT-2 sẽ tạo thành một hệ thống vệ tinh có khả năng dự phòng về dung lượng và giảm thiểu rủi ro giữa các vệ tinh, củng cố an ninh, an toàn cho mạng viễn thông quốc gia, đồng thời đem lại lợi ích chung cho cộng đồng, góp phần tăng cường khả năng khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên tần số quỹ đạo vệ tinh.  

Tiếp nối phóng vệ tinh VINASAT-1 việc thực hiện dự án phóng vệ tinh VINASAT-2 sẽ tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của ngành vệ tinh viễn thông Việt Nam, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng trong và ngoài nước, hỗ trợ và nâng cao hạ tầng viễn thông của 3 nước Việt nam, Lào, Campuchia, góp phần nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ khoa học, làm chủ kỹ thuật, công nghệ trong lĩnh vực thông tin vệ tinh hiện đại. Trong đó, Cục Tần số đã tiên phong mở đường tìm “đất” cho vệ tinh của Việt Nam cất cánh.

N.H Cương

Tận hưởng ứng dụng di động - lý do để trang bị smartphone

(ICTPress) - Ericsson ConsumerLab vừa công bố nghiên cứu về "Văn hóa sử dụng ứng dụng" dựa trên nghiên cứu trực tuyến thực hiện tại 3 nước Nga, Ấn Độ và Brazil.

Nghiên cứu trên được thực hiện vào cuối 2011 với số người dùng điện thoại thông minh (smartphone) độ tuổi từ 15 đến 54, sử dụng smartphone để truy cập Internet ít nhất 1 tuần/lần.

1.220 người đã tham gia khảo sát bao gồm những người bắt đầu dùng smartphone nhưng tiếp cận nhanh chóng với các ứng dụng và những người dùng smartphone lâu năm. 69% người sử dụng smartphone trong khảo sát truy cập Internet sử dụng ứng dụng hàng ngày và 20% sử dụng các dịch vụ dữ liệu như video, TV, bản đồ và ứng dụng tọa độ.

10 hoạt động phổ biến nhất của người dùng smartphone là kiểm tra (check-in) địa điểm, sử dụng bản đồ định vị hoặc truy cập thông tin về giao thông, xem TV qua internet, xem phim, chơi game trực tuyến, xem video streaming, chơi game trên các trang mạng xã hội, xem tin trực tiếp, sử dụng Twitter và viết blog.

Việc sử dụng ứng dụng trên di động tại 3 quốc gia trong danh sách khảo sát có những đặc điểm khác nhau. Người Ấn Độ thích tải các ứng dụng mang tính cá nhân như màn hình chờ, màn hình chính và các trình duyệt của đối tác thứ ba ngoài những ứng dụng truyền thông và trò chơi trên mạng xã hội. Người Nga thích các ứng dụng tiện ích đối với cuộc sống như định vị, bản đồ, so sánh giá cả, máy quét ký hiệu hàng hóa, phần mềm chính tả và dịch thuật. Người Brazil sử dụng những ứng dụng để kết nối tương tác mang tính xã hội.

Nghiên cứu này cũng chỉ ra đặc điểm sử dụng ứng dụng ở các nước đang phát triển có nét khác biệt với các nước phát triển. 2/5 người sử dụng hiếm khi hoặc không bao giờ vào chợ ứng dụng chính thức mà thường tải (download) ứng dụng từ các trang diễn đàn của bên thứ ba. Khoảng nửa số người tải ứng dụng trên máy tính PC trước, sau đó chuyển sang smartphone để tiết kiệm dung lượng dữ liệu.

X.T

Mạng LTE FDD 1.8GHz đầu tiên được thương mại hóa ở châu Phi

(ICTPress) - Movicel, nhà khai thác viễn thông hàng đầu châu Phi và là hãng tiên phong trong cung cấp các dịch vụ di động tại Angola, ngày đã chính thức công bố việc triển khai mạng Long Term Evolution (LTE) 1.8GHz thương mại đầu tiên của châu Phi tại tỉnh Cabinda, khu vực có trữ lượng dầu thô lớn nhất của Angola.

Ảnh minh họa (arialtel)

Mạng viễn thông này sẽ cung cấp các dịch vụ băng rộng di động với tốc độ tải dữ liệu lên đến 100Mb/s.

Tại triển lãm Di động thế giới (MWC) 2012 diễn ra tại Barcelona, Tây Ban Nha hồi tháng 2, Movicel đã công bố triển khai mạng LTE FDD 1.8GHz thương mại đầu tiên tại Angola vào cuối tháng 5/2012 và nhấn mạnh năng lực cũng như cam kết của Movicel đối với xã hội.

Tuy nhiên, hệ thống mạng chính thức được khai trương ngày 14/4, sớm hơn 45 ngày so với kế hoạch ban đầu. Đây là một bước tiến lớn đối với Angola trong lĩnh vực băng rộng và di động tiên tiến, lĩnh vực giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, hiệu quả kinh doanh và năng suất lao động. Mạng di động này cũng hỗ trợ thúc đẩy phát triển nền kinh tế của Angola thông qua việc tăng cường khả năng liên lạc, trao đổi thông tin nhanh chóng và tiện lợi.

Mạng di động này là một siêu xa lộ thông tin không dây cho phép người dân Angola thụ hưởng: truy cập dễ dàng và nhanh chóng, tốc độ truyền tải dữ liệu nhanh hơn, sử dụng dịch vụ hiệu quả hơn với các dịch vụ đa phương tiện phong phú và tiêu tốn ít thời lượng pin hơn. Mạng tiên tiến này cũng hỗ trợ chính phủ và doanh nghiệp Angola triển khai quá trình trao đổi thông tin toàn cầu tự động hóa và hiệu quả hơn.

Movicel sẽ cung cấp các dịch vụ và công nghệ băng rộng di động tiên tiến nhất trên toàn bộ lãnh thổ Angola trong 3 năm. Năm 2012, Movicel có kế hoạch mở rộng phạm vi phủ sóng LTE tới các thành phố lớn của Angola, nơi sự phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy phát triển hạ tầng thông tin mạnh mẽ hơn.

Huawei, đã hợp tác với Movicel để triển khai hệ thống mạng di động tiên tiến LTE và là một đối tác chặt chẽ trong suốt quá trình triển khai dự án.

X.T

4G thách thức tốc độ truyền dẫn

Nguyễn Huy Cương

Hội đồng thông tin vô tuyến thế giới (Radiocommunication Assembly) họp từ ngày 16/01 - 20/01/2012 tại thành phố Geneva, Thụy Sỹ đã phê chuẩn khuyến nghị ITU-R M.2012. Khuyến nghị ITU-R M.2012 quy định chi tiết các thông số kỹ thuật giao diện vô tuyến mặt đất của IMT-Advanced (chuẩn 4G). Tất cả các bước trong tiến trình nghiên cứu, phát triển để cho ra phiên bản đầu tiên của IMT-Advanced đã được thông qua.

Nghị quyết ITU-R 57 “nguyên tắc cho quá trình phát triển IMT Advanced” của ITU nêu rõ quá trình chuẩn hóa IMT-Advanced cần được sắp xếp hợp lý kết hợp chặt chẽ với công nghệ mới nhất để giải quyết nhu cầu của người sử dụng và phát triển các giao diện vô tuyến mới cho IMT-Advanced một cách kịp thời. Để đáp ứng các yêu cầu của khuyến nghị ITU-R 57, ITU-R đã đề xuất một tiến trình và cách thức tổ chức để cho ra đời các phiên bản trong tương lai của Khuyến nghị ITU-R M.2012.

ITU-R dự kiến phiên bản đầu tiên của khuyến nghị ITU-R M.2012 ​​sẽ bắt đầu được nghiên cứu, bàn thảo tại cuộc họp lần thứ 13 của Nhóm nghiên cứu 5D trong năm 2012 và sẽ được hoàn thành tại cuộc họp lần thứ 17 của Nhóm nghiên cứu này (theo kế hoạch sẽ họp từ ngày 16/10 - 23/10/2013).

Cơ quan quản lý các nước, các thành viên lĩnh vực thông tin vô tuyến, hội viên ITU-R tham gia nhóm nghiên cứu 5D và các nhóm nghiên cứu thuộc các trường đại học, học viện liên kết với ITU-R được mời tham gia phát triển phiên bản này.

Website về IMT-Advanced (http://www.itu.int/ITU-R/go/rsg5-imt-advanced/) sẽ được cập nhật liên tục khi có bất kỳ thông tin mới nào. Các thành viên tham gia phát triển IMT-Advanced có thể truy cập website này để nắm bắt được thông tin một cách kịp thời.

Trong 25 năm qua, ITU đã phát triển các tiêu chuẩn cho IMT và sẽ tiếp tục dẫn đầu các nỗ lực quốc tế (liên quan đến các chính phủ và các ngành công nghiệp) để tạo ra các tiêu chuẩn thế hệ kế tiếp cho thông tin di động toàn cầu.

Từ năm 2000, IMT-2000 đã được triển khai rộng rãi và được xem là thế hệ 3G. Giờ đây, ITU đã công bố các tiêu chuẩn cho thế hệ tiếp theo cho thông tin băng rộng không dây toàn cầu còn được gọi là IMT-Advanced. Đánh giá chi tiết dựa trên các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về kỹ thuật và khả năng hoạt động, ITU đã xác định "LTE-Advanced” và “WirelessMAN-Advanced" được chấp thuận chính thức cho IMT-Advanced (4G). Các thông số kỹ thuật chi tiết của các công nghệ IMT-Advanced (4G) được cung cấp trong Khuyến nghị ITU-R M.2012  được Hội đồng thông tin vô tuyến thông qua như đã nêu ở phần đầu.

Các hệ thống IMT-Advanced có các khả năng mới vượt trội so với IMT-2000, cho phép cung cấp một loạt các dịch vụ viễn thông được hỗ trợ bởi các mạng điện thoại di động và cố định mà ngày càng dựa trên gói dữ liệu.

Nguồn: DOCOMO (http://lazure2.wordpress.com)

Các hệ thống IMT-Advanced hỗ trợ các ứng dụng di động từ thấp tới cao với một loạt tốc độ dữ liệu phù hợp với nhu cầu người dùng và dịch vụ trong môi trường nhiều người sử dụng (multiple users). IMT-Advanced cũng có khả năng cung cấp các ứng dụng đa phương tiện chất lượng cao trong một phạm vi rộng các dịch vụ và thiết bị, với sự cải tiến đáng kể về hiệu suất và chất lượng dịch vụ.

Trong nghiên cứu, tốc độ truyền dẫn mục tiêu cho IMT-Advanced được thiết lập ở tốc độ 100 Mbit/s khi đang di động với tốc độ cao (ví dụ như khi đang di chuyển bằng xe hơi) và 1 Gbit/s khi không di động. Các công nghệ IMT-Advanced hoạt động dựa trên mạng chuyển mạch gói kỹ thuật số tương thích IPv6. Các mạng này sẽ tổ chức lại nguồn tài nguyên tự động theo yêu cầu, cho phép chúng tự điều chỉnh để đáp ứng các điều kiện thay đổi, và sẽ có khả năng mở rộng băng thông ít nhất lên tới 40 MHz. Đặc điểm kỹ thuật của mạng IMT-Advanced cũng cho phép các cuộc gọi “liền mạch, êm ái” khi chuyển giao giữa các cell và các mạng lưới, đặc biệt là đối với  chuyển vùng toàn cầu, và hỗ các dịch vụ đa phương tiện độ phân dải cao, chất lượng tốt.

Ông François Rancy, Giám đốc Cục Thông tin vô tuyến - ITU, cho biết, "IMT-Advanced sẽ giống thiết lập kết nối băng thông rộng qua cáp quang trên điện thoại di động, làm cho điện thoại di động có tốc độ truyền dữ liệu nhanh hơn ít nhất 500 lần so với điện thoại thông minh 3G hiện nay. Nhưng không chỉ về tốc độ, hiệu quả IMT-Advanced còn ở việc sử dụng phổ tần số vô tuyến hiệu quả hơn rất nhiều, cho phép tốc độ dữ liệu cao hơn với băng thông thấp hơn. Điều này cho phép các mạng di động đối mặt được với thách thức yêu cầu gia tăng đáng kể lưu lượng dữ liệu ​​trong những năm tới".

Trong số các tính năng kỹ thuật quan trọng của công nghệ IMT-Advanced, các yêu cầu để làm việc trong băng tần IMT (Bảng 1) là đặc biệt quan trọng, như là khả năng tương tác với IMT-2000 tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển vùng toàn cầu (global roaming). Trong phạm vi có thể, ITU đã tìm cách hài hòa việc sử dụng các băng tần IMT trên cơ sở toàn cầu, mặc dù trong một số các băng tần này và trong một bộ phận của thế giới đã không thể đạt được sự hài hòa về băng tần bởi vì các yêu cầu cấp thiết phân bổ băng tần của các nghiệp vụ khác.

Bảng 1. Các băng tần được xác định cho IMT (Nguồn: ITU-R Working Party 5D (IMT Systems))

Ngay cả với những bước nhảy vọt đáng kể trong hiệu quả sử dụng phổ tần của IMT-Advanced thì rõ ràng phân bổ băng tần cho IMT hiện tại có thể không đủ cho tương lai. Một số nước thành viên ITU đã đề nghị hội nghị WRC-12 thêm chương trình nghị sự của WRC-15 (2015) để giải quyết các yêu cầu phổ tần trong tương lai cho IMT.

Việc phê chuẩn chuẩn 4G của ITU giúp giải quyết tình trạng rối loạn xuất phát chủ yếu từ sự thiếu thống nhất trong định nghĩa về chuẩn 4G. Các nhà mạng và hầu hết khách hàng chấp nhận dùng khái niệm "4G" để chỉ những hệ thống có tốc độ nhanh hơn các hệ thống 3G. Trước đây, WiMAX và LTE vẫn thường được gọi là 4G, nhưng thực tế hai phiên bản này chưa đạt tiêu chuẩn. LTE chỉ có thể được coi là 3,9G. Quyết định của ITU phê chuẩn IMT-Advanced cho phép các tổ chức như 3rd Generation Partnership Project (3GPP) hoàn tất các chi tiết kỹ thuật cho việc chuyển đổi từ 3G lên 4G. Nó cho phép các nhà sản xuất thiết bị có định hướng rõ ràng để tiến lên phía trước với sự phát triển của công nghệ với các chức năng cần thiết đồng thời tạo điều kiện cho các nhà cung cấp dịch vụ không dây lên kế hoạch triển khai các dịch vụ mới.

Tổng thư ký ITU TS. Hamadoun Touré đã kêu gọi các nhà khai thác di động trên toàn thế giới dịch chuyển nhanh chóng công nghệ để triển khai mạng di động theo chuẩn IMT-Advanced, đồng thời kêu gọi các chính phủ cắt giảm hoặc thậm chí xóa bỏ thuế đối với các thiết bị công nghệ và dịch vụ ICT để không kiềm chế tăng trưởng của lĩnh vực di động trong tương lai. Ông cũng cho biết: một số nước có thể triển khai mạng di động theo chuẩn IMT-Advanced vào năm 2013, nhưng thị trường sẽ thực sự sôi động vào năm 2015.

Điều này cho thấy việc phê chuẩn IMT-Advanced của ITU sẽ là một mốc quan trọng để thúc đẩy việc thương mại hóa các công nghệ theo chuẩn 4G và thị trường viễn thông thế giới trong một vài năm tới sẽ có nhiều đột phá. Tương lai cho di động thực sự rộng mở hơn bao giờ hết./.

Một số thách thức triển khai hội tụ cố định và di động hiện nay

Đào Trung Thành

Hội tụ dịch vụ cố định và di dộng - chiến lược cần thiết

Hiện nay, điện thoại cố định đang đứng trước sức ép giảm doanh thu. Trên thế giới, doanh thu cố định ghi nhận sự sụt giảm từ 2% đến 3% mỗi năm, ở Việt Nam thậm chí còn sụt giảm lớn hơn, khoảng gần 20% và sự sụt giảm ấy được bù bằng dịch vụ ADSL thì doanh thu cố định gồm thoại và ADSL cũng giảm hàng năm 8%. Mặc khác, doanh thu dịch vụ di động tăng trưởng khá mạnh ở khu vực châu Á khoảng 6% nhưng khu vực châu Âu tăng trưởng doanh thu di động khá chậm, khoảng 0,1% do thị trường này đã đạt đến độ bão hòa, giá cước cạnh tranh mạnh và đang chịu sự tác động của tình hình khủng hoảng tài chính [1].

Có thể nhận thấy xu hướng giảm doanh thu của dịch vụ cố định và tăng doanh thu của dịch vụ di động là xu hướng chung trên thị trường dịch vụ viễn thông thế giới. Tuy nhiên ngay trong từng thể loại dịch vụ cố định và di động thì cũng có sự sụt giảm của dịch vụ truyền thống và các dịch vụ mới, dịch vụ dữ liệu. Theo như hình vẽ của một nhà cung cấp dịch vụ viễn thông điển hình như Orange - France Telecom thì dịch vụ cố định truyền thống giảm đến 9.8%, trong khi VoIP tăng 12.7% và băng rộng tăng 4.5%, dịch vụ di động truyền thống giảm 0.6% dịch vụ dữ liệu tăng 5.7% (Hình 1).

Hình 1. Doanh thu dịch vụ di động và cố định

Mặc dù doanh thu tăng nhưng ARPU (Average Revenue Per Unit - doanh thu trung bình trên một thuê bao) của dịch vụ di động lại có chiều hướng giảm ở Việt Nam (Hình 2). ARPU giảm từ 7 USD năm 2006, 6.5 USD năm 2007, 6 USD năm 2008, 5,52 USD năm 2009, 5 USD năm 2010 và cuối năm 2011 dự báo ARPU chỉ còn 4.49 USD. [2]. Nếu so với trung bình ARPU của các khu vực trên thế giới như châu Phi 9.18 USD, Đông Âu 10,59 USD, châu Á 10.9 USD, Tây Âu 31.32 USD  Bắc Mỹ 49,83 USD thì ARPU của Việt Nam rất thấp [3].

Mặt khác, người sử dụng đang thay đổi hành vi tiêu dùng dịch vụ, nhân viên yêu cầu ngày càng tăng kiểu làm việc  từ xa, cộng tác và dùng nhiều thiết bị, dịch vụ khác nhau như cố định, di động, email, chat… Do đó, các tổ chức, doanh nghiệp đanh tìm kiếm những giải pháp hội tụ thiết bị, công nghệ, dịch vụ (convergence solution), công cụ thông tin thống nhất (unified communications tool) làm đơn giản hóa cách thức nhân viên cộng tác với nhau. Vì vậy, các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trên thế giới đã xem hội tụ như một chiến lược phát triển kinh doanh dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của người dùng, cung cấp trải nghiệm phong phú và mang lại dòng lợi nhuận mới.

Thế nào là  hội tụ hội tụ dịch vụ cố định và di dộng?

Khái niệm hội tụ dịch vụ cố định và di dộng (Fixed - Mobile Convergence - FMC) có nhiều nghĩa khác nhau (Hình 2). Có thể dùng định nghĩa của Liên minh Hội tụ cố định - di động (Fixed Mobile Convergence Alliance) như sau: “Hội tụ cố định và di động là một điểm chuyển tiếp trong ngành công nghiệp viễn thông mà cuối  cùng sẽ loại bỏ sự phân biệt giữa các mạng cố định và di động, cung cấp một trải nghiệm tốt hơn cho khách hàng bằng cách tạo ra dịch vụ liền mạch bằng cách sử dụng một sự kết hợp của băng thông rộng cố định và các công nghệ truy cập không dây cục bộ để đáp ứng nhu cầu của họ trong nhà,văn phòng, các tòa nhà khác trên đường đi.”

Hình 2. Hội tụ dịch vụ cố định và di dộng

Theo quan điểm người dùng dịch vụ, hội tụ mang lại cho họ một chất lượng trải nghiệm (quality of experience) tốt hơn với chi phí tổng thể thấp hơn, quản trị được các phương thức liên lạc tốt hơn. Theo quan điểm nhà cung cấp dịch vụ, hội tụ sẽ giúp họ chiếm được lòng trung thành của khách hàng bằng cách cung cấp các gói dịch vụ tích hợp, tiết kiệm được tài nguyên di động khi cung cấp cho người dùng dịch vụ di động với chất lượng của kết nối cố định khi họ ở nhà hay đang ở nơi làm việc, giảm chi phí vận hành (OPEX) khi duy trì mạng chung cho cả cố định lẫn di động, thêm lợi nhuận bằng cách cung cấp thêm các dịch vụ giá trị gia tăng mới trên nền tảng này.

Hội tụ giữa di động và cố định phải cung cấp cho người dùng những dịch vụ liền mạch (seamless services) nghĩa là cung cấp dịch vụ không phân biệt là cố định hay di động trên thiết bị đầu cuối đa hệ (multi-mode) với khả năng cung ứng chuyển giao lẫn nhau (hand over) giữa hai loại hình mạng mà không làm ngắt cuộc gọi đang diễn ra. Các chuẩn công nghệ cho phép dịch vụ liền mạch FMC bao gồm: VCC (Voice Call Continuity), UMA (Unlicensed Mobile Access) hay GAN (Generic Access Network), giải pháp femtocell.

Việc hội tụ dịch vụ cố định và di dộng phải được đảm bảo ở nhiều cấp độ khác nhau. Hội tụ ở mức độ mạng truy cập (access network level) là đảm bảo sự thay đổi phương thức truy cập trong suốt với người sử dụng, không ngắt quãng khi thay đổi điểm truy cập. Hội tụ ở mức độ mạng lõi được đảm bảo bằng việc sử dụng IMS (IP Multimedia Subsystem). Hội tụ ở mức độ ứng dụng là sự hợp nhất (fusion) các dịch vụ thoại, dữ liệu, hình ảnh; có thể truy cập dịch vụ từ bất kỳ các thiết bị nào bằng cách đăng nhập (logging in) vào các ứng dụng chạy trên thiết bị đó; cung cấp được một hóa đơn sử dụng dịch vụ thống nhất giữa cố định và di động.

Hội tụ ở mức độ kiến trúc mạng bao gồm việc chuyển đổi cách tiếp cận từ cách tiếp cận theo chiều dọc (vertical approach) với cấu trúc “silo” (Hình 3) với mỗi dich vụ là một hệ thống chuyên dùng riêng biệt sang cách tiếp cận theo chiều ngang (horizontal approach) với cấu trúc “plug and play” (Hình 4) nhờ vào công nghệ IP được triển khai làm nền tảng.

Hình 3. Cấu trúc Silo và Hình 4. Cấu trúc plug and play

Hội tụ mức cấu trúc mạng (Network convergence) thực hiện ở các mức khác nhau như mức mạng truy nhập (access network), mạng tích hợp (aggregation network), mạng lõi (core network) (Hình 5).

Hình 5. Hội tụ mức cấu trúc mạng

Thách thức triển khai FMC

Việc chuyển đổi cấu trúc mạng theo hướng hội tụ gặp một số các thách thức về mặt kỹ thuật như: chất lượng dịch vụ (quality of service), giám sát và kiểm soát chất lượng (quality monitoring and control), an ninh (security), tính khả dụng (high availability), đồng bộ (synchonisation) [5]. Hội tụ mang lại cho người dùng chất lượng trải nghiệm (Quality of Experience - QoE) phụ thuộc vào tâm lý người dùng. Tuy nhiên, QoE lại phụ thuộc vào thông số chất lượng dịch vụ (QoS) của mạng. Đối với mạng hội tụ đảm bảo nhiều dịch vụ hoạt động thì việc đảm bảo QoS từ đầu cuối đến đầu cuối (End-to-end QoS) là một thách thức. Bên cạnh đó, vì mạng lõi dựa trên nền tảng công nghệ IP dễ kết nối với các thành phần mạng khác và như vậy cũng dễ bị tổn thương hơn, yêu cầu về an ninh mạng cũng được đặt ra một cách khắt khe hơn.

Nói đến FMC là nói đến IMS (IP Multimedia Subsystem), thành phần chính của hệ thống mạng lõi. IMS được định hình và phát triển bởi diễn đàn công nghiệp 3G.IP trên dự án 3rd Generation Partnership Project (3GPP) với chức năng chính là điều khiển cuộc gọi đa phương tiện (multimedia call control) sử dụng nghi thức SIP tương tự SS7 trong các hệ thống chuyển mạch TDM. Kiến trúc của IMS độc lập với lớp mạng truy cập (access network), không mô tả dịch vụ mà chỉ cung cấp các khối xây dựng dịch vụ (service building blocks) cho việc triển khai các dịch vụ. Vì FMC cung cấp các gói đa dịch vụ, đa phương tiện nên IMS là nền tảng cần thiết cho việc xây dựng hệ thống hội tụ đó. Tuy nhiên, một trong những điểm yếu mà nhiều người nhắc đến nhiều nhất là tính bảo mật của IMS. Trong các yếu tố về bảo mật có thể kể đến các vấn đề liên quan đến quản lý nhận dạng người dùng bao gồm các lỗi như Call ID spoofing, ăn cắp ID, tấn công DoS/DDoS, spam. Điểm yếu bảo mật nằm ở thiết bị SIP vì nó chưa có một cơ chế chứng nhận thực tốt như trong mạng thông tin di động tế bào (ví dụ bảo mật qua SIM). Thêm vào đó là sự hội tụ giữa nhiều loại hình mạng cũng gây không ít khó khăn trong việc quản lý bảo mật. Hiện tại, release 8 của 3GPP đã xem xét một cách nghiêm túc vấn đề bảo mật này [6]. IPsec cũng được 3GPP khuyến cáo sử dụng. [7].

Ngoài các thách thức về mặt kỹ thuật, nhà khai thác còn có những thách thức về mặt vận hành khai thác như cần thay đổi mô hình kinh doanh hiện tại vì hiện nay cố định và di động vẫn là hai mảng kinh doanh độc lập với phần lớn các nhà khai khác; rồi vấn đề khai thác, bảo trì và quản trị OMA (Opration, Maintenance and Administraton) với một hệ thống tích hợp phức tạp; lựa chọn phương thức chuyển đổi (hoàn toàn hay từng phần); vấn đề tương thích với dịch vụ cũ, các nhà khai thác khác [5].

Hội tụ di động và cố định còn phải thực hiện ở mức ứng dụng (application layer) với các giải pháp về công nghệ thông tin được tăng cường và củng cố cơ sở dữ liệu người dùng, tính cước, giao diện người sử dụng dịch vụ (Hình 6). Đó là trọng tâm của hệ thống CCBS (Custommer Care and Billing System), sự kết hợp của CRM (Customer Relationship Management) và BS (Billing System). Các gói cước đa dịch vụ như double play (voice + data), triple play (voice + data + video) và thậm chí quadruple play (voice + data + video + mobile) có thể được cung cấp trên các nền tảng công nghệ có sẵn, không sử dụng IMS, IN hay NGN. Tuy nhiên, việc cung cấp rất khó khăn vì các hệ thống này là tách biệt theo cấu trúc “silo”, việc ghép hóa đơn tính cước trong một chừng mực nào đó có thể thực hiện được nhưng là phương cách chắp vá. Do đó, một cơ sở dữ liệu thống nhất ở các nhà khai thác là yếu tố quyết định. Các nhà khai thác đều ý thức được vấn đề này nhưng xem ra, động thái thay đổi còn chưa quyết liệt và triệt để. Dự án CCBS của VNPT triển khai đã hơn chục năm nay nhưng chưa có kết quả mong muốn là một ví dụ.

Hình 6. Khung cấu trúc của hệ thống công nghệ thông tin (IT Framework)

Việc triển khai FMC phải đạt tiêu chí 3R: dịch vụ tốt (right service), đúng thời điểm (right time), và đúng đối tượng (right customer). Đối với các nhà khai thác, FMC phải là một công cụ để giữ khách hàng bằng cách đảm trách kết nối tất cả các truy cập cố định và di động của khách hàng với tư cách là nhà khai thác tích hợp, tăng cường năng lực của mình để giành lại khách hàng đã chuyển sang đối thủ cạnh tranh; cho phép tích hợp, vận hành và bảo trì các giải pháp doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các doanh nghiệp lớn.

Tham khảo:

[1]. Ovum, World Fixed services Forecast , July 2011

[2]. Business Monitor International, Vietnam Telecommunications Report, Q4 2011

[3]. Wireless Intelligence,  Analysis: Global cellular market trends and insight, Q3 2011

[4]. Fixed Mobile Convergence Alliance , Jully 2004, “Fixed Mobile Convergence is a transition point in the telecommunications industry that will finally remove the distinctions between fixed and mobile networks, providing a superior experience to customers by creating seamless services using a combination of fixed broadband and local access wireless technologies to meet their needs in homes, offices, other buildings and on the go.”

[5]. Sofrecom, convergence at the network infrastructure level, December 2011

[6]. Nguyễn Văn Quốc Thịnh, IMS là gì?, 2008

[7]. 3GPP2, IMS Security Framework, 2008

Chính sách phát triển băng rộng ở Đức: Những tác động tới kinh tế và việc làm

Phát triển băng rộng của Đức có hai chiến lược: Chiến lược băng rộng quốc gia của chính phủ liên bang sẽ hoàn tất vào năm 2014; và giai đoạn tiếp theo là chiến lược “siêu băng rộng” cho giai đoạn 2015 - 2020. Chính phủ Đức kỳ vọng việc đầu tư gần 36 tỷ euro trong 10 năm (2010 - 2020) sẽ tạo ra khoảng 968.000 việc làm.

Ảnh: AFP/Johannes Eisele

Chiến lược băng rộng quốc gia được chính phủ liên bang Đức thông báo vào năm 2009 nhằm tạo điều kiện cho khoảng 75% hộ gia đình tiếp cận kết nối băng rộng với tốc độ ít nhất là 50 Mbit/s vào năm 2014. Và một kế hoạch “siêu băng rộng” tiếp theo là nhằm tăng các tốc độ ít nhất 100 Mbit/s cho 50% hộ gia đình và tới 50Mbit/s cho 30% số hộ gia đình còn lại vào năm 2020.

Thúc đẩy băng rộng tại các hộ gia đình

Đức có mức độ thâm nhập băng rộng cao khi so sánh với các nền kinh tế lớn khác. Bên cạnh đó để tăng cường sự bao phủ, Đức có kế hoạch tăng tốc độ truy cập của người sử dụng băng rộng là hộ dân.

Trong số 39,7 triệu hộ gia đình ở Đức, 39 triệu (gần 98%) đã tiếp cận với loại hình công nghệ băng rộng nào đó. Trong số các hộ gia đình này, 36,7 triệu hộ có thuê bao DSL, 22 triệu hộ có mạng truyền hình cáp (kết nối qua các modem cáp), và 730.000 hộ có thể truy cập Internet qua công nghệ không dây cố định hay vệ tinh. Có khoảng 10,9 triệu hộ kết nối Internet qua DSL tốc độ cao (hay còn gọi là VSDL), trong khi đó có khoảng 240.000 kết nối hộ gia đình được thông báo là kết nối dựa trên việc triển khai công nghệ cáp quang.

Khoảng 2,8 triệu hộ gia đình là “các điểm xám” (grey spot), có nghĩa là các hộ gia đình này truy cập băng rộng ở tốc độ 384kbit/s và 1Mbit/s. “Các điểm trắng” (white spot) còn lại gồm 2% của các hộ gia đình chưa tiếp cận được với dịch vụ (730.000 hộ) có thể nằm trong các khu vực dân cư đông đúc hoặc gần các đường biên của các khu vực đã được kết nối.

Các tốc độ cao hơn

Chính quyền liên bang Đức định nghĩa 2 mục tiêu của Chiến lược băng rộng quốc gia bao gồm:

- Cung cấp truy cập băng rộng (1Mbit/s) trên toàn quốc vào cuối năm 2010

- Đảm bảo 75% hộ gia đình có thể tiếp cận kết nối băng rộng với tốc độ ít nhất là 50Mbit/s vào năm 2014, với mục tiêu các đường dây truy cập như vậy có thể sẵn sàng ở mọi nơi trên toàn nước Đức.

Để đáp ứng những mục tiêu này, 73.000 hộ còn chưa được tiếp cận với dịch vụ (điểm trắng) sẽ được cả công nghệ không dây và hữu tuyến bao phủ với đầu tư khoảng 924 triệu euro (Bảng 1). 2.8 triệu hộ gia đình “điểm xám” sẽ được nâng cấp truy cập băng rộng tốc độ ít nhất là 1Mbit/s.

Mặc dù công nghệ VDSL được triển khai ở những thành phố đông dân cư hạn chế trong 50Mbit/s, nhưng vẫn có dự tính khoảng 9.92 triệu hộ gia đình (25% tổng số hộ gia đình ở Đức) sẽ được nâng cấp thành thuê bao FTTH. Do số hộ gia đình gần đây được VDSL đáp ứng là 10,9 triệu hộ và các hộ gia định này chủ yếu ở 50 thành phố lớn của Đức, có thể nhận thấy phần lớn họ sẽ chuyển từ VDSL sang FTTH. Còn các hộ gia đình có DSL sẽ được nâng cấp thành VDSL.

Các phương thức để đạt được các mục tiêu này gồm có khuyến khích các nhà khai thác tìm kiếm các năng lực thông qua các triển khai hạ tầng chung; sử dụng khoảng cách số; hình thành quy định thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng; và hỗ trợ tài chính.

Chiến lược băng rộng quốc gia Đức sẽ cần đầu tư 20.2 tỷ euro cho tới năm 2014 (Bảng 2). Việc đầu tư này tăng lên khi triển khai hạ tầng siêu băng rộng vào các năm tiếp theo (2015 - 2020)  cần khoảng 15,7 tỷ euro đầu tư thêm.

Bảng 1 - Đầu tư cần thiết để đáp ứng các hộ gia đình chưa được tiếp cận (Nguồn: Katz et al. (2010a).

Nhiều việc làm hơn

Thỏa mãn các mục tiêu của Chiến lược Băng rộng quốc gia sẽ tạo ra khoảng 304.000 việc làm trong vòng hơn 5 năm (trong các năm 2010 đến 2014). Về những việc làm trực tiếp liên quan đến xây dựng các mạng băng rộng, sẽ có khoảng 158.000 việc làm như sản xuất thiết bị, xây dựng và viễn thông. Các công việc trong các ngành khác được dự báo là ngành xây dựng sẽ tạo nhiều việc làm nhất với 125.000 việc làm, tiếp theo là viễn thông (28.400 việc làm) và sản xuất thiết bị điện tử (4700 việc làm).

Tổng việc làm gián tiếp được tạo ra nhờ chiến lược băng rộng dự báo là 71.000 việc làm. Các ngành chính được hưởng lợi từ các tác động gián tiếp của việc xây dựng băng rộng này là phân phối (10.700 việc làm), các dịch vụ khác, (17 000), và các sản phẩm kim loại (3200). Chi tiêu hộ gia đình, được tạo ra trực tiếp hay gián tiếp, có thể tạo ra 75.000 việc làm mới.

Bên cạnh đó, việc triển khai mục tiêu siêu băng rộng sẽ tạo ra khoảng 237.000 việc làm trong giai đoạn 2015 và 2020. Con số này bao gồm 123.000 việc làm trực tiếp, 55.000 việc làm gián tiếp và 59.000 việc làm thêm.

Bảng 2 - Tổng đầu tư được yêu cầu để đạt các mục tiêu vào năm 2014 (Xem chi tiết bảng 1. Nguồn: Adapted from Katz et al. (2010a)

Những con số trên cho thấy giai đoạn hơn 10 năm từ năm 2010 đến 2020, Chiến lược băng rộng quốc gia và sự phát triển thành hạ tầng siêu băng rộng sẽ có tác động đáng kể tới các việc làm và nền kinh tế Đức. Việc đầu tư dự báo khoảng 36 tỷ euro trong hơn 10 năm sẽ tạo khoảng 968.000 việc làm, trong đó 541 việc làm sẽ là ở lĩnh vực xây dựng mạng và 427 việc làm sau khi mạng đã được triển khai, với kết quả sáng tạo tiên tiến và tạo việc kinh doanh mới.

Bảng 3: Tác động tới việc làm và kinh tế mỗi năm (Nguồn: Adapted from Katz et al. (2009a).

Xây dựng mạng sẽ đạt 33,4 tỷ euro đóng góp vào GDP, trong khi các công việc mạng bên ngoài sẽ làm tăng thêm 137,5 tỷ euro trong 10 năm. Tổng sẽ là tạo ra 170,9 tỷ euro đóng góp thêm vào GDP (0,60% của tăng trưởng GDP hàng năm của Đức) như bảng 3.

 TS. Raul L. Katz

Giáo sư trợ giảng, chuyên ngành Tài chính và Kinh tế,  và
Giám đốc Nghiên cứu kinh doanh, Viện Thông tin liên lạc Columbia

Qualcomm thử nghiệm thành công cuộc gọi từ LTE sang WCDMA

Ngày 2/2/2012, Qualcomm đã tuyên bố thực hiện thành công cuộc gọi từ LTE sang WCDMA sử dụng chipset MSM8960 Snapdragon S4 và kết nối thoại thông qua LTE. Thoại thông qua  LTE (VoLTE) là đặc tính được quy định bởi 3GPP cho phép chuyển mạch liên tục giữa mạng 4G và 3G.

Cho đến thời điểm này, LTE được sử dụng chủ yếu cho truyền tải lưu lượng dữ liệu di động. Chuẩn LTE chỉ hỗ trợ chuyển mạch gói với mạng toàn IP (all-IP). Các cuộc gọi thoại trong GSM, UMTS và CDMA2000 đều sử dụng chuyển mạch kênh bởi vậy với sự thực hiện thành công cuộc gọi từ LTE sang WCDMA thì các nhà khai thác di động phải xây dựng lại mạng thoại của họ.

VoLTE cho phép cung cấp các dịch vụ mới đa phương tiện tương tác toàn cầu trên các điện thoại thông minh LTE với sự chuyển vùng cuộc gọi thoại từ LTE sang WCDMA. Tuy nhiên, việc thiếu phần mềm hỗ trợ trong các thiết bị LTE ban đầu cũng như các thiết bị mạng lõi đã làm cho một số nhà cung cấp xúc tiến thoại trên nền LTE thông qua mạng truy nhập chung (VoLGA) như là một giải pháp tạm thời.

MetroPCS có thể triển khai VoLTE trong quý 1/2012 và trở thành nhà khai thác đầu tiên trên thế giới triển khai thương mại VoLTE. MetroPCS sử dụng công nghệ CDMA để cung cấp dịch vụ bên cạnh mạng tiền 4G sử dụng công nghệ LTE. AT&T Mobility sử dụng UMTS cho các dịch vụ thoại và cung cấp LTE trên băng tần 700MHz.

Người ủng hộ VoLTE gần như là tất cả các nhà khai thác lớn cũng như các nhà cung cấp thiết bị như Alcatel-Lucent, Ericsson và nhiều nhà cung cấp khác. Theo dự báo của công ty nghiên cứu thị trường Infonetics Research thì 78% nhà khai thác cho biết họ sẽ triển khai VoLTE, RCS (rich communication service) và/hoặc VoIP thông qua 3G vào năm 2013.

Cơ chế chuyển vùng được hỗ trợ trên các sản phẩm của nhà khai thác Ericsson bao gồm LTE/WCDMA/GSM RAN, EPC (Evolved Packet Core), MSC và IMS để thích nghi với các điện thoại thông minh LTE có hỗ trợ VoLTE.

Có hai tùy chọn cho các nhà khai thác trong quá trình thúc đẩy phát triển đó là sử dụng công nghệ chuyển mạch kênh dự phòng (Circuit Switched Fall Back: CSFB) cho phép tự động chuyển từ sóng 4G thành 3G khi thực hiện cuộc gọi và công nghệ Single Radio Voice Call Continuity (SRVCC) cho phép một sóng vô tuyến chuyển cuộc gọi giữa mạng 3G và 4G. Tuy nhiên, công nghệ SRVCC được sự ủng hộ rộng rãi và đã được khuyến nghị bởi sáng kiến LTE OneVoice. Sáng kiến LTE OneVoice đã được sự ủng hộ của một số nhà khai thác và nhà cung cấp thiết bị mạng lớn nhất trên thế giới và đã được xác nhận của hiệp hội GSM (GSMA).

Các nhà khai thác đầu tiên được kỳ vọng bắt đầu triển khai công nghệ SRVCC trong năm 2012 và triển khai thương mại vào năm 2013.

 Phan Văn Hòa (rfd.gov.vn)

Theo http://www.dailywireless.org/2012/02/02/qualcomm-demos-lte-to-wcdma-call/

Định nghĩa mới về hệ thống vô tuyến thông minh

Sergey Pastukh
Chủ tịch nhóm công tác 1B của ITU-R

Một định nghĩa về các hệ thống thích nghi (adaptive system) đã được giới thiệu trong các quy định vô tuyến cách đây 1 thập kỷ. Các hệ thống thích nghi được định nghĩa là có khả năng thay đổi các thông số, trong đó có tần số và nguồn, để tăng cường chất lượng thu. Hiện nay, những hệ thống như vậy bị giới hạn bởi các băng tần trung và cao, do các điều kiện truyền dẫn thay đổi nhiều. Các quy định quản lý khả thi cho các hệ thống thích nghi đang hạn chế hoạt động của các hệ thống này ở các băng do các dịch vụ dành cho an ninh cũng như các dịch vụ thiên văn học vô tuyến, xác định vô tuyến, và các dịch vụ nghiệp dư và quảng bá. Những phát triển cao hơn về công nghệ đã làm gia tăng các khả năng của các hệ thống thích ứng. Phần mềm đóng một vai trò quan trọng trong khía cạnh này, khả thi cho việc phân tích môi trường vô tuyến và điều chỉnh các đặc điểm của hệ thống theo các tình hình hoạt động cụ thể. Chẳng hạn việc kết hợp thiết bị vô tuyến và phần mềm mang lại các giải pháp mới để giải quyết vấn đề nghẽn tần số và tăng cường toàn bộ hiệu quả của việc sử dụng tần số. Với những tiến bộ công nghệ này, hai khái niệm mới đã xuất hiện: vô tuyến định nghĩa bằng phần mềm (software-defined radio) và các hệ thống vô tuyến thông minh (cognitive radio systems).

Một mối quan tâm chung là việc bảo vệ các dịch vụ hiện thời khỏi can nhiễu có thể xảy ra do vô tuyến định nghĩa bằng phần mềm và các hệ thống vô tuyến thông minh. Đó là lý do tại sao Hội nghị vô tuyến thế giới 12 (WRC-12) từ ngày 26/1 – 17/2/2012 xem xét các phương thức quản lý và những liên quan, để cho phép giới thiệu vô tuyến định nghĩa bằng phần mềm và các hệ thống vô tuyến thông minh, cũng như để tạo điều kiện, đảm bảo và nâng cao việc cùng tồn tại và chia sẻ giữa các dịch vụ liên lạc vô tuyến, dựa trên các kết quả của các nghiên cứu của bộ phận Vô tuyến của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU-R).

Các công nghệ vô tuyến định nghĩa bằng phần mềm và hệ thống vô tuyến thông minh được trông đợi là tăng thêm sự linh hoạt và hiệu quả cho toàn bộ việc sử dụng tần phổ. Những công nghệ này có thể được kết hợp hoặc triển khai độc lập, và có thể được triển khai ở các hệ thống của bất cứ dịch vụ liên lạc vô tuyến nào. Bất cứ hệ thống nào sử dụng các công nghệ vô tuyến định nghĩa bằng phần mềm và các hệ thống vô tuyến thông minh phải hoạt động tuân thủ các điều khoản của các quy định vô tuyến.

Các hệ thống vô tuyến thông minh là một lĩnh vực hoạt động nghiên cứu, và các ứng dụng đang được nghiên cứu và thử nghiệm. Các hệ thống sử dụng một số các đặc điểm thông minh đã được triển khai, và một số cơ quan đang cho phép những hệ thống này (ví dụ, lựa chọn tần số linh hoạt và các thiết bị khoảng trắng). Các cơ quan này có các quy trình quốc gia thông qua thiết bị để bảo vệ các dịch vụ hiện tại khỏi bị can nhiễu có hại. Một hệ thống vô tuyến đang triển khai công nghệ vô tuyến thông minh có thể, tuy nhiên, có một tác động tới các nước láng giềng và điều phối là cần thiết. Ở đâu có các ứng dụng mà công nghệ hệ thống vô tuyến thông minh được triển khai trên cơ sở không can nhiễu và không bảo vệ. cơ quan quản lý liên quan nên đảm bảo can nhiễu sẽ không xảy ra.

Công nghệ vô tuyến định nghĩa bằng phần mềm hiện nay đang hoạt động trên một số hệ thống và các mạng trong đất liền và các dịch vụ di động hàng hải, quảng bá và vệ tinh quảng báo, các dịch vụ cố định và vệ tinh di động. Điều này mang lại sự chủ động trong thiết kế hệ thống vô tuyến và có thể hỗ trợ tính tương hợp chuyển tiếp.

Việc triển khai toàn diện khái niệm vô tuyến định nghĩa bằng phần mềm và các hệ thống vô tuyến thông minh có thể được hiện thực dần dần vì một số lý do, trong đó có trạng thái hiện nay của công nghệ. Việc sử dụng các công nghệ này ở một số băng tần có thể tạo ra các thách thức cụ thể và riêng biệt của một bản chất công nghệ hay vận hành, cần được xem xét chu đáo và toàn diện của ITU.

Sau đây là các định nghĩa vô tuyến định nghĩa bằng phần mềm và hệ thống vô tuyến thông minh:

“Vô tuyến định nghĩa bằng phần mềm là một máy phát vô tuyến và/hoặc máy thu sử dụng một công nghệ cho phép các thông số RF hoạt động có bao gồm, nhưng không hạn chế đối với dải tần số, loại điều chế, hay nguồn đầu ra sẽ được thiết lập và thay đổi bằng phần mềm, loại trừ những thay đổi đối với các thông số hoạt động xảy ra trong hoạt động của một vô tuyến được thiết lập và xác định trước thông thường, theo một chỉ số hay chuẩn hệ thống”.

“Hệ thống vô tuyến thông minh là một hệ thống vô tuyến sử dụng công nghệ cho phép hệ thống có được thông tin của môi trường hoạt động và địa lý của hệ thống, các chính sách được thiết lập và trạng thái bên trong của hệ thống; để điều chỉnh các thông số hoạt động và các giao thức của hệ thống một cách linh hoat và chủ động theo thông tin có được của hệ thống để đạt được các mục tiêu được định nghĩa trước; và để  nghiên cứu từ các kết quả có được”.

Nguồn: Báo cáo ITU–R SM.2152.