Syndicate content

Tri thức chuyên ngành

MobiFone chọn Nokia Siemens Networks mở rộng mạng lõi và hệ thống 3G

Tóm tắt: 

(ICTPress) - VMS MobiFone vừa tăng thêm 50% công suất của hệ thống mạng lõi truyền tin của mình thông qua lựa chọn Nokia Siemens Networks (NSN) là đơn vị triển khai.

(ICTPress) - VMS MobiFone vừa tăng thêm 50% công suất của hệ thống mạng lõi truyền tin của mình thông qua lựa chọn Nokia Siemens Networks (NSN) là đơn vị triển khai.

Ảnh minh họa

Ngoài ra, trong một bản hợp đồng khác, NSN đã giúp hiện đại hóa hệ thống mạng vô tuyến GSM và 3G của MobiFone tại khu vực miền Trung và miền Nam. Điều này sẽ giúp MobiFone quản lý hiệu quả sự bùng nổ của dữ liệu trên hệ mạng của mình do ngày càng có nhiều khách hàng sử dụng các dịch vụ di động băng thông rộng ưu việt mà nhà mạng đang cung cấp. Cả hai gói nâng cấp mạng lõi truyền tin và mạng vô tuyến này hiện đã được hoàn tất và đưa vào khai thác sử dụng.

NSN cho biết đã nâng cấp mạng lõi truyền tin của MobiFone với giải pháp mạnh mẽ và hiệu quả Flexi ISN (Intelligent Service Node), giúp đơn giản hóa việc quản lý dữ liệu cũng như chức năng tính cước. NSN cũng giúp tối ưu hóa hệ thống mạng đường trục IP của MobiFone để tăng tính ổn định cũng như độ khả mở. Bên cạnh đó, bản hợp đồng nâng cấp cũng bao gồm triển khai Cổng mạng Flexi Network Gateway (Flexi NG) trên nền ATCA, một phần trong kiến trúc Liquid Core của NSN. Giải pháp này giúp cung cấp thông lượng cũng như khả năng truyền tín hiệu cao để hỗ trợ cho lưu lượng truy cập di động băng thông rộng đang ngày càng tăng cao.

NSN cũng triển khai giải pháp Serve atOnce Traffica, thuộc gói giải pháp Customer Experience Management (Quản lý trải nghiệm khách hàng) của NSN, cho phép MobiFone có thể kiểm soát được chất lượng dịch vụ, mức độ sử dụng dịch vụ cũng như lưu lượng toàn mạng trong thời gian thực trên nhiều công nghệ và hệ thống khác nhau từ nhiều nhà sản xuất khác nhau. Bản hợp đồng này cũng bao gồm hệ thống quản lý dữ liệu thuê bao One-NDS của NSN, sẽ bao quát hợp nhất về dữ liệu thuê bao, giúp nhà mạng đẩy nhanh được thời gian ra mắt các dịch vụ mục tiêu mới. Ngoài ra, NetAct, một hệ thống quản lý hợp nhất, có khả năng quản lý tất cả các yếu tố mạng liên quan, đồng thời cũng là điểm duy nhất của hệ thống quản lý chính sách và xác thực mạng cho tất cả các loại hệ thống mạng cũng sẽ được NSN cung cấp.

Trong một hợp đồng riêng khác, NSN đã tiến hành nâng cấp mạng GSM/3G của MobiFone với nền tảng Single RAN, được thiết kế xung quanh thiết bị trạm Flexi Multiradio Base Station  nhỏ gọn, tiết kiệm điện năng. NSN cũng cung cấp các giải pháp nền tảng truyền tải dữ liệu quang học của mình - hiT 7035 và hiT 7065 nhằm mang đến đầy đủ các lựa chọn kết nối, đáp ứng nhu cầu phát triển dung lượng, trong khi vẫn bảo vệ được các khoản đầu tư hiện có. NSN cũng đã nâng cấp hệ thống quản lý mạng NetAct, cho phép việc phép giám sát, quản lý và tối ưu hóa hệ mạng GSM/3G của MobiFone thống nhất và hiệu quả.

Theo cả hai hợp đồng này, bên cạnh việc quản lý toàn diện dự án nâng cấp, NSN còn cung cấp các dịch vụ bao gồm thiết kế, lắp đặt, vận hành và triển khai hệ thống mạng giúp cho triển khai nhanh chóng trên toàn hệ mạng. Ngoài ra, NSN cũng thực hiện đào tạo dịch vụ chăm sóc khách hàng.

Phó Tổng giám đốc MobiFone cho biết Nguyễn Đăng Nguyên: “Chúng tôi cần một hệ thống mạng linh hoạt và độ tin cậy cao, có thể đáp ứng được nhu cầu về truyền dữ liệu cho ngày hôm nay cũng như trong tương lai. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng muốn hiện đại hóa mạng vô tuyến của mình để tăng công suất truyền dẫn dữ liệu cho các mạng GSM hiện tại, đồng thời tăng cường trải nghiệm dịch vụ cho các khách hàng đang thuê bao dịch vụ GSM và 3G của chúng tôi. NSN đã giúp chúng tôi hiện thực hóa hai mục tiêu quan trọng này”.

Tổng giám đốc Nokia Siemens Networks Việt Nam Tanat Techatanabaht cho biết những dự án nâng cấp này sẽ cùng MobiFone triển khai được nhiều dịch vụ giá trị gia tăng.

Được biết hệ thống mạng lõi công suất cao sẽ giúp Mobifone phục vụ được nhiều thuê bao hơn, trong khi mạng vô tuyến được nâng cấp cho phép Mobifone triển khai các dịch vụ dữ liệu tốc độ cao đến với những thuê bao điện thoại thông minh đang tăng mạnh của Mobifone.

HM

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Tri thức chuyên ngành

Ứng dụng mới của iPhone: Nhận dạng khuôn mặt trong ảnh chụp

Tóm tắt: 

(ICTPress) - Một ứng dụng iPhone mới có tên gọi KLiK thực hiện nhận dạng khuôn mặt thời gian thực để tự động xác định và gắn thẻ bạn bè trong các bức ảnh.

(ICTPress) - Bạn hãy tưởng tượng khi bạn chụp thật nhanh một nhóm bạn và điện thoại thông minh (smartphone) tức thời xác định tất cả mọi người trong bức ảnh.

Một ứng dụng iPhone mới có tên gọi KLiK thực hiện nhận dạng khuôn mặt thời gian thực để tự động xác định và gắn thẻ bạn bè trong các bức ảnh.

“Đó là cuộc cách mạng mới nhất của chúng tôi cả trên nền tảng và sản phẩm khách hàng mà chúng tôi cung cấp. Chúng tôi đã thấy rằng ở tất cả các bữa tiệc hay sự kiện có rất nhiều ảnh được chụp nhưng chỉ vài người được chụp là được gắn thẻ”, Gil Hirsch, CEO của công ty công nghệ nhận dạng khuôn mặt Face.com, đơn vị tung ra ứng dụng này cho biết.

Bằng cách kết nối với Facebook, ứng dụng này sẽ quét các bức ảnh của bạn bè để phát triển thành một hồ sơ khuôn mặt của tất cả mọi người trên một mạng lưới của người sử dụng. Ứng dụng này sẽ xác định mọi người nhờ ráp các khuôn mặt trong các bức ảnh được chụp, hoặc sau đó được tải lên, ứng dụng đưa ảnh đến các hồ sơ.

Bởi vì ứng dụng này phụ thuộc vào kết nối tới Facebook, chỉ có những bạn bè ở mạng lưới người sử dụng mới có thể được xác định. Điều này không giống như bạn có thể chỉ vào một người trên phố và làm nó hoạt động. Nhưng ứng dụng này không bao gồm một phương thức học tập để sử dụng cho các bạn bè, những người không trên Facebook. Nó cho phép người sử dụng có thể hướng dẫn ứng dụng cho ai đó đang bấm máy ảnh chụp họ và nhập tên của họ bằng tay. Tất cả đều riêng tư và chỉ ở trên chiếc điện thoại của bạn mà thôi. Tôi sử dụng ứng dụng này khi chụp ảnh con cái, sau này tôi có thể tìm kiếm lại tất cả những bức ảnh mà tôi đã chụp chúng”, Hirsch cho biết.

Người sử dụng cũng có thể áp dụng các bộ lọc kiểu Instagram và chia sẻ các bức ảnh qua Facebook, Twitter hay thư điện tử (email).

Mặc dù ứng dụng là chỉ để xác định bạn bè trên Facebook, hay nhiều người đã gia nhập thủ công, tuy một số người cho rằng liên quan đến các vấn đề riêng tư.

Hệ thống này đã được gia công cập nhật để bảo vệ tính riêng tư và cũng cung cấp một giá trị xã hội thú vị và không làm cho sởn gai ốc.

Công ty này được thành lập năm 2009 và đã tạo ra nhiều ứng dụng khác nhau, trong đó có Photo Finder, một ứng dụng Facebook có thể quét các hình ảnh bạn bè để xác định các bức ảnh của bạn mà bạn chưa bao giờ được gán thẻ.

Công ty này cũng cung cấp công nghệ nhận dạng khuôn mặt, khác biệt là thể hiện thông tin về các nhân vật trong một bức ảnh. Công nghệ này có thể thể hiện được giới tính, trạng thái và thậm chí cả tuổi tác.

“Chúng tôi cung cấp dự báo tuổi tối đa và tối thiểu, chỉ sử dụng thông tin khuôn mặt trong bức ảnh - không gì khác”, Hirsch cho biết.

Năm 2010, Face.com đã thực hiện công nghệ nhận dạng khuôn mặt miễn phí cho các nhà phát triển để kết hợp vào các ứng dụng của họ. Kể từ đó, 45.000 nhà phát triển đã sử dụng công nghệ của họ.

KLiK được công ty này cho biết có sự chính xác xấp xỉ 90%.

QM

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Tri thức chuyên ngành

Giải pháp TDFi của Huawei - hợp nhất những người dùng WiFi và LTE TDD

Tóm tắt: 

(ICTPress) - Với giải pháp TDFi, người dùng cuối có thể truy cập các hệ thống mạng LTE TDD bằng bất kỳ thiết bị hỗ trợ WiFi nào để sử dụng các dịch vụ dữ liệu di động tốc độ cao.

(ICTPress) - Huawei, ngày 23/5 đã chính thức giới thiệu giải pháp tổng thể TDFi tại Hội nghị Thượng đỉnh LTE (LTE World Summit) 2012 lần thứ 8 được diễn ra từ ngày 22 - 24/5/2012 tại Barcelona, Tây Ban Nha.

Với giải pháp TDFi, người dùng cuối có thể truy cập các hệ thống mạng LTE TDD bằng bất kỳ thiết bị hỗ trợ WiFi nào để sử dụng các dịch vụ dữ liệu di động tốc độ cao.

Sự xuất hiện của băng rộng di động đã thúc đẩy nhu cầu về các dịch vụ dữ liệu tốc độ cao gia tăng mạnh mẽ. Nhưng trong khi việc thương mại hóa công nghệ LTE TDD đang diễn ra nhanh chóng thì các thiết bị tương thích với công nghệ này vẫn chưa thực sự sẵn sàng bắt nhịp.

Để thúc đẩy việc truy cập các hệ thống mạng LTE TDD, giải pháp TDFi sáng tạo của Huawei đã hợp nhất người dùng WiFi với người dùng LTE TDD nhanh chóng. Giải pháp này nâng cao việc sử dụng nguồn lực mạng LTE TDD, và thúc đẩy việc phân phối dữ liệu mạng hiện có trong các khu vực truy cập (hotspot). TDFi cũng sẽ giúp các nhà khai thác thu hút người dùng nhiều hơn và cải thiện năng lực mạng để tối ưu hóa lợi nhuận.

Các mạng WiFi truyền thống sử dụng truyền tải hữu tuyến, điều này gây ra việc thiếu hụt các nguồn truyền tải và thủ tục triển khai mất nhiều thời gian. Giải pháp TDFi sử dụng mạng trục vô tuyến LTE TDD thay cho mạng trục hữu tuyến để giải quyết khó khăn cuối cùng trong việc triển khai mạng WLAN. So với các hệ thống mạng WiFi truyền thống, giải pháp TDFi giúp các nhà khai thác triển khai nhanh chóng, tiết kiệm chi phí và hỗ trợ xác nhận người sử dụng WiFi.

Hồi tháng 3, mạng di động China Mobile đã đi đầu trong việc tổ chức hoạt động mang tên “China Mobile Happy LTE TDD Network Experience” tại Hàng Châu. Sử dụng giải pháp TDFi của Huawei, những người dùng đi trên các chuyến xe bus được trải nghiệm các dịch vụ dữ liệu LTE TDD nhanh chóng và ổn định qua việc sử dụng các smartphone hỗ trợ WiFi. Tốc độ của mạng LTE TDD giữ ổn định ở mức trên 30 Mbps, cao gấp 20 lần so với tốc độ của mạng UMTS.

Huawei cho biết giải pháp TDFi còn thể hiện ý nghĩa xã hội quan trọng. TDFi có thể tổ chức trạm phát sóng phủ trên các xe bus, giúp thúc đẩy triển khai giao thông xanh. Trong tương lai không xa, giải pháp TDFi sẽ giúp các mạng LTE TDD nâng cao khả năng truyền thông di động của con người trong chăm sóc y tế, chia sẻ thông tin, quản lý cộng đồng và hình ảnh di động giữa con người với con người.

X.T

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Tri thức chuyên ngành
Các chuyên mục liên quan: 
Viễn thông

iPad giúp chữa trị bệnh tự kỷ như thế nào

Tóm tắt: 

(ICTPress) - “Những gì iPad đã có thể đã mang đến cho Sharia là một cảm giác tự chủ mà em chưa từng biết trước đó. Sharia đã nhận biết được ai đó chạm tay vào iPad, một cái gì đột ngột mở ra. Em biết em không cần phải khóc nữa, em cần lấy tay chạm màn hình”.

(ICTPress) - Sharia đứng không động đậy trước tivi, chết đứng trước các hình ảnh của tivi, không nhận thức được thế giới xung quanh em. Gia đình em gọi tên em liên tục, nhưng em không trả lời. Lúc đó họ đã nhận thấy một điều gì đó bất bình thường.

Sharia Siddiqui sử dụng iPad để giúp con giao tiếp. Bố Sharia cho biết “iPad đã cho phép Sharia điều khiển bản thân mà trước đây Sharia không thể”

Ban đầu, gia đình Sharia cho rằng đó là vấn đề của thính giác. Nhưng khi họ tìm hiểu và thấy rằng không có vấn đề gì về thính giác, họ quyết định đưa Sharia, 2 tuổi, đến một chuyên gia ở một trung tâm phát hiện bệnh sớm vào năm 2009.

“Trong vòng có 5 phút nhìn Sharia, chuyên gia cho biết cô bé đã mắc bệnh tự kỷ”, bố của Sharia, Fawad Siddiqui cho biết.

Siddiqui, 38 tuổi và vợ, Ayza Sheikh, đã nghĩ rằng Sharia đơn giản là bị chậm nói. Là người gốc Pakistan, Siddiquis đã không có người thân để tư vấn cho họ về đứa con đầu của họ.

Các liệu pháp điều trị khả năng nói, vận động và hành vi đã hỗ trợ đôi chút. Nhưng Sharia vẫn phải vật lộn với việc giao tiếp.

Sau đó, vào năm 2010, iPad của Apple được tung ra.

Siddiqui, một người dân Columbia, Maryland đã chia sẻ câu chuyện của con gái mình trên iReport, cho biết trước khi có iPad, cách duy nhất của Sharia là khóc. Cô bé không nói và không có cách nào để diễn đạt những gì em muốn hỏi và thể hiện cảm xúc của mình.

Thiết bị màn hình cảm biến của Apple đã không còn là máy tính bảng đầu tiên và không phải là sản phẩm duy nhất hiện nay. Nhưng sản phẩm màn hình cảm biến của Apple đã nhanh chóng trở thành sản phẩm dẫn đầu và vượt trội trên thị trường, giới thiệu cho hàng triệu người trên toàn thế giới khái niệm một máy tính ở đâu đó giữa điện thoại di động (smartphone) và máy tính xách tay (laptop) và trên màn hình rộng hiển thị hàng loạt hình ảnh và biểu tượng mà người sử dụng có thể tương tác chỉ với một lần chạm.

“Những gì iPad đã có thể đã mang đến cho Sharia là một cảm giác tự chủ mà em chưa từng biết trước đó. Sharia đã nhận biết được ai đó chạm tay vào iPad, một cái gì đột ngột mở ra. Em biết em không cần phải khóc nữa, em cần lấy tay chạm màn hình”, Siddiqui cho biết.

Đầu tiên, Sharia thích xem phim và chơi game. Tuy nhiên, được chữa trị và ở tại nhà, Sharia đã được giới thiệu các ứng dụng như Proloquo2Go, First Words, ABCs và Me và Puzzle Me, và nhiều nữa. Sharia đã nhanh chóng ghép được những câu ngắn như “Con muốn Dora” để diễn tả điều em muốn.

Một cuộc cách mạng giao tiếp

Proloquo2Go là ứng dụng đầu tiên của Sharia và ứng dụng giao tiếp gia tăng thời gian thực đầu tiên, được tung ra cho iPhone vào năm 2009.

AAC (augmentative and alternative communication), còn gọi là giao tiếp nâng cao và khác hơn, là một loạt các can thiệp được sử dụng để hỗ trợ trẻ có khó khăn trong giao tiếp. Nhiều ứng dụng được thiết kế được dựa trên phương pháp trị liệu này.

David Niemeijer, người thành lập và CEO của AssistiveWare, có trụ sở tại Amsterdam, công ty phát triển ứng dụng Proloquo2Go, cho biết 90% người sử dụng AAC sử dụng iPad để giao tiếp, và hơn 25% sử dụng một iPhone hay iPod Touch, theo thăm dò của công ty này. Khoảng 1 nửa số người trong số họ cho biết là đã nâng được khả năng nói.

Một tìm kiếm “các ứng dụng bệnh tự kỷ” cho iPad ở Cửa hàng ứng dụng của Apple đã 764 ý kiến. Khoảng 142 ý kiến đã được thông báo trong năm nay.

Tương tự, hàng trăm ứng dụng hỗ trợ và giáo dục bệnh tự kỷ đã được đưa lên máy tính bảng và các thiết bị khác chạy hệ điều hành Android của Google.

Khả năng tiếp cận các cửa hàng trực tuyến như là một nền tảng cho các ứng dụng đã mở ra một đại lộ cho các bậc phụ huynh. Những ai có bí quyết sản xuất có thể phát triển các sản phẩm dựa trên các nhu cầu cụ thể của con cái họ. 

Tricia Estrada ở San Diego đã phát triển các ứng dụng cho cậu con trai của cô. Ứng dụng và trang web Wonkido có một loạt các phim hoạt hình vui nhộn, mỗi phim dài khoảng 4 - 5 phút, mô tả nhiều kỹ năng xã hội như “hỏi để chơi” và “chơi mê say”. Khi xem phim, trẻ cần một cơ sở dữ liệu chia nhiều tập để hút vào các tình huống xã hội tương lai, Tricia Estrada cho biết.

Estrada cho biết khía cạnh hấp dẫn nhất của iPad là khả năng di động. Trước đây, khi cậu con trai Evan cần học một khái niệm mới khi tập đá bóng hay tại một nhà hàng, cô không có cách nào để chỉ cho cậu con trai cho đến khi bác sỹ trị liệu đưa cho cậu bé một chiếc thẻ hay mua cho con trai một DVD nhiều tuần sau đó. Với iPad và iPhone, thì có thể thực hiện việc này ngay lập tức.

“Tôi nghĩ (chiếc iPad) đang cách mạng hóa lĩnh vực giao tiếp. iPad là một hệ thống rất kinh tế. Trước đây, chúng ta có những sản phẩm quá nặng và tốn kém nhưng nay iPad có thể thay thế”, TS. Oliver Wendt, Phó giáo sư về khoa học giọng nói, ngôn ngữ và thính giác tại trường đại học Purdue cho biết.

Trước đây muốn sử dụng thiết bị này bạn phải trả từ 9.000 đến 15.000 USD.

iPad hiện nay có giá chỉ 399 USD. Phần lớn các ứng dụng trên iPad là những ứng dụng trả trước có giá 99 cent đến 299,99 USD. Một số ứng dụng có thể đắt đối với nhiều người sử dụng iPad thông thường, nhưng để hỗ trợ các em bị bệnh tự kỷ giao tiếp thì số tiền này không phải là cao.

Wendt, người chuyên về các khía cạnh công nghệ của các giải pháp ACC, đã hợp tác với nhóm sinh viên trường Purdue thực hiện các dự án kỹ thuật về dịch vụ cộng đồng để xây dựng một ứng dụng miễn phí có tên gọi SPEAKall! Được dựa trên một sự can thiệp trẻ tự kỷ quy mô được biết đến như là hệ thống giao tiếp trao đổi ảnh (Picture Exchange Communication System).

Theo cách thông thường của công nghệ thấp, trẻ sẽ chuyển các tấm thẻ ảnh hình lá đến cho bác sỹ trị liệu hoặc người trông trẻ để nói với họ những gì trẻ muốn.

Ứng dụng có hai phần có thể nhìn thấy rõ trên màn hình: một hàng trên đầu và một hàng phía dưới. Hàng trên đầu có những bức ảnh và biểu tượng, và hàng dưới là một loạt các câu chuyện mà trẻ có thể kéo thả các bức ảnh để sáng tạo ra các câu giao tiếp. Những bức ảnh này có thể bao gồm các vật thể, các cảm xúc hay bất cứ điều gì liên quan đến trẻ.

“Đặt các biểu tượng trên màn hình thực sự là thúc đẩy đứa trẻ, các biểu tượng có thể ghép với điều gì đó mà trẻ thực sự muốn”, Wendt cho biết. Ứng dụng này cho phép bố mẹ chụp ảnh tại chỗ và bổ sung các bức ảnh vào ngân hàng các biểu tượng hiện có.

Đứa trẻ sau đó có thể hình thành các câu nói nhờ sử dụng các hình ảnh, như “con muốn quả táo” hay “Con cảm thấy buồn”. Cuối cùng, trẻ có thể bấm vào biểu tượng “"Speak All" (Nói tất cả) để nghe câu nói.

Từ bỏ “hành lý cộng thêm”

Martha Herbert, nhà thần kinh nhi khoa và nhà khoa học an thần tại bệnh viện đa khoa Massachusetts thuộc trường đại học y khoa Havard ở Boston, cho biết iPad cho phép các cá nhân vượt qua nhiều khó khăn trong giao tiếp.

Herbert giải thích chứng mất phối hợp động tác (apraxia) hay một loại bệnh thần kinh thông thường gây khó khăn trong việc thực hiện những hành động liên tiếp (dyspraxia) có nghĩa là thực hiện giao tiếp khó khăn. Chứng mất phối hợp động tác có nghĩa là mặc dù não của bạn có thể nghĩ đến một ý định để thực hiện một điều gì đó, nhưng cơ thể lại không cho phép thực hiện điều đó. Bạn muốn nói nhưng không thể mấp máy môi.

Những ứng dụng trên iPad cho phép bạn thực hiện một biện pháp nhanh chóng hơn xung quanh các vấn đề dây thần kinh vận động (neuromotor) phát sinh trong giao tiếp”, Herbert cho biết.

“Giao tiếp không chỉ giới hạn trong khả năng nói. Để hiểu và phản xạ đối với một cá nhân, bạn có thể phải giải mã cả ngôn ngữ cơ thể, biểu hiện khuôn mặt và môi mấp máy. Sử dụng iPad sẽ giải quyết được “hành lý cộng thêm” này. Tôi cho rằng iPad đang mở ra một cách hoàn toàn thú vị để sáng tạo về việc hỗ trợ con người. Bạn có thể đo lường cấp độ áp lực (stress) của ai đó và ai đó có thể phát triển khả năng này vào trong ứng dụng và nói cho bạn biết nếu họ đang khủng hoảng hay trầm cảm”, Herbert cho biết.

Khengwah Koh là đối tác thường trực với Hearty SPIN, một công ty mới ở Singapore gần đây cũng tung ra một ứng dụng cho các cá nhân có bệnh tự kỷ gọi AAC hình ảnh.

Ứng dụng này bằng tiếng Anh cũng như Madarin và được sử dụng ở 15 quốc gia.

Trong khi Koh cho rằng ứng dụng của ông và iPad là các công cụ tuyệt vời cho trẻ tự kỷ, ông nghĩ rằng các công cụ này chỉ nên sử dụng để bổ sung cho một số cách học tập và phương pháp trị liệu khác.

Đối với một đứa trẻ, thì iPad không nên được xem như là một công cụ giữ trẻ. Khi ứng dụng được giới thiệu cho trẻ, đầu tiên nên dạy trẻ cách làm thế nào để sử dụng… Đây không phải là một trò chơi. iPad nên được giới thiệu theo cách có hệ thống”, Koh cho biết.

Phoebe Tucker, một chuyên gia nghiên cứu căn bệnh ngôn ngữ nói ở Bridgeport, Connecticut, đã xây dựng một trung tâm cho trẻ tự kỷ gọi là Trung tâm công nghệ hỗ trợ Montano, một bộ phận của Tổ chức chứng liệt não liên bang, để tích hợp nhiều dạng công nghệ để chữa trị bệnh tự kỷ.

Trung tâm sử dụng iPad cùng với các phương pháp chữa trị khác.

Mặc dù Apple không tạo ra iPad với ý định hỗ trợ trẻ tự kỷ, nhưng Apple đã nỗ lực xây dựng các tính năng cho những người bệnh tật.

"Steve Jobs đã không biết ông đã đưa tiếng nói đến những người không thể nói”, Tucker cho biết.

Tiếng nói chính xác là những gì Siddiqui cảm nhận đã được mang đến dành cho Sharia. Sharia hiện nay có thể nói từng câu riêng rẽ và có thể nhận thực được thế giới xung quanh. Gia đình Sharia đã thấy những thành tựu nhỏ qua từng ngày.

Lần đầu tiên sau 3 năm, Siddiquis đang suy nghĩ đưa Sharia đến Pakistan để thăm đại gia đình của họ. Sharia đã bị chẩn đoán tự kỷ ngay sau chuyến đi đầu tiên của họ, và gia đình ở Pakistan chỉ gần đây mới biết căn bệnh của bé sau khi xem video về Sharia của Siddiqui.

Chuyến đi phụ thuộc vào liệu bác sỹ trị liệu cho biết Sharia sẵn sàng cho thay đổi môi trường. Nhưng Siddiqui tự tin và trông đợi vào chuyến đi.

Thỉnh thoảng tôi nói chuyện với vợ tôi nghĩ đến Sharia trước khi có iPad và sau khi có iPad. Cháu đã có những thay đổi lớn”, Siddiqui cho biết.

Quang Minh

Theo CNN

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Tri thức chuyên ngành

6 lý do để Apple quá thành công

Tóm tắt: 

(ICTPress) - Phần lớn mọi người đều hiểu theo cách Apple đã thất bại trong các cuộc chiến PC với Microsoft và thường hiểu Apple sáng tạo ra iPod, sau đó là iPhone, nhưng Apple đã bắt đầu đi theo một hướng mới.

(ICTPress) - Một trong những câu hỏi thú vị hơn mà tôi đã hỏi một nhà phân tích ngành, một người đã theo Apple kể từ năm 1981 là tại sao Apple quá thành công.

Đây là một câu hỏi thành thật bởi vì đối với những ai không quan tâm quá tới Apple, sự phát triển và thống trị gần đây của công ty này trong lĩnh vực không phải là PC là cái gì đó đáng ngạc nhiên.

Rất đông học sinh tại cửa hàng Apple ở Sydney trong ngày toán học thế giới (Ảnh: blog.worldeducationgames.com)

Phần lớn mọi người đều hiểu theo cách Apple đã thất bại trong các cuộc chiến PC với Microsoft và thường hiểu Apple sáng tạo ra iPod, sau đó là iPhone, nhưng Apple đã bắt đầu đi theo một hướng mới. Và bất cứ ai đã từng tới một cửa hàng Apple đều biết rõ dịch vụ khách hàng và các cửa hàng của Apple thể hiện tiêu chuẩn vàng về bán và hỗ trợ các thiết bị công nghệ. Nhưng vượt lên cả điều đó, các lý do tại sao Apple thực sự thành công vẫn là điều bí ẩn đối với nhiều người.

Đã có rất nhiều cuốn sách viết về Apple đề cập đến mọi thứ từ tiểu sử của Steve Jobs đến nguyên lý của các mô hình kinh doanh của Apple đến các bí mật về các ý tưởng quản lý nội bộ của Apple. Tuy nhiên, sau nhiều năm theo dõi Apple và cá nhân và phải làm việc với các CEO của Apple, cũng như giao tiếp với nhiều người khác nhau ở Apple trong nhiều năm, tôi cho thể trình bày 6 lý do mà công ty này thành công hay còn gọi là 6 nguyên tắc chủ đạo mà các đối thủ cạnh tranh với Apple cũng thấy rất khó khăn.

1. Đối với bất cứ sản phẩm nào Apple sáng tạo, người sáng tạo ra sản phẩm đó phải chính là người cũng mong muốn sản phẩm này.

Tôi đã nhiều lần làm nhiều sản phẩm với nhiều công ty công nghệ khác, mục tiêu luôn phụ thuộc đầu tiên vào công nghệ, sau đó người thiết kế có thể muốn hoặc không muốn sử dụng. Các kỹ sư của Geeky bị chói mắt bởi công nghệ có sẵn và đôi khi tạo ra một thứ gì đó bởi vì họ có thể. Nhưng mục tiêu của Apple thì khác hẳn. Các kỹ sư đang sáng tạo ra các sản phẩm của Apple thực sự là sáng tạo cho bản thân họ. Và Jobs là “người sử dụng” chính các sản phẩm Apple khi ông còn sống. Tất cả các sản phẩm của Apple được dựa trên một thực tế là Jobs đã là đại diện cho khách hàng thực tế. Và các kỹ sư của ông phải “giáp lá cà” với khách hàng thực sự khi thiết kế một sản phẩm. Đó là điều mà họ bản thân họ không thể sống thiếu.

2. Sản phẩm phải dễ dàng sử dụng

Jobs là người khắt khe về điểm này. Trong khi thiết kế công nghiệp là một phần quan trọng của bất cứ sản phẩm nào Apple thực hiện, nếu nó không dễ dàng sử dụng, thì nó được xem là không giá trị với khách hàng. Điều này đã thúc đẩy các thiết kế giao diện người sử dụng của Apple từ ngày đầu tiên và vẫn là thần chú đối với các kỹ sư phần cứng và phần mềm hàng ngày khi họ làm việc. Tất cả các sản phẩm mà họ sáng tạo phải thực giác, dễ hiểu và tìm hiểu. Khi công nghệ trở nên phức tạp hơn và người sử dụng muốn nhiều đặc điểm hơn, nhiệm vụ là phải giữ mọi thứ đơn giản mà dù việc này khó khăn. Và Apple có thể tạo ra các công cụ để tăng sức mạnh cho người sử dụng và thu hút người mới, có nghĩa là một loạt các vấn đề đều liên quan đến sử dụng dễ dàng. Nhưng thậm chí cả điều đó thì Apple là công ty duy nhất tôi nhận thấy coi trọng việc sử dụng dễ dàng hơn cả chính bản thân sản phẩm. Apple thực hiện mục tiêu quan trọng này để tạo ra bất cứ thứ gì cho thị trường.

3. Duy trì mọi thứ đơn giản

Tôi đã ở Paris trong hai tuần qua và có những cuộc tiếp xúc với nhiều quan chức viễn thông Pháp về các vấn đề điện toán di động (mobile-computing). Nhưng một cuộc trao đổi mà tôi có đặc biệt nhấn mạnh đến việc duy trì mọi thứ đơn giản (keep-it-simple). Chúng tôi đã thảo luận làm thế nào để cạnh tranh với Apple - một sự trao đổi chính đối với tất cả những đối thủ Apple và các nhà mạng hiện nay - khi vấn đề tại sao Apple thực sự thành công. Và một quan chức đã tiết lộ điều này khi người này cho biết anh ta nhận thấy lý do thực sự Apple thành công là bởi vì Apple có một sản phẩm, trong trường hợp này là Apple. Bí quyết là giảm thiểu quá trình ra quyết định cho khách hàng bằng cách làm mọi việc trở nên đơn giản. Người nói việc này làm việc cho một nhà khai thác ở Pháp, và anh này cho biết những cửa hàng của công ty nơi anh ta làm việc luôn có tới 25 mô hình điện thoại khác nhau. Điều này gây khó khăn cho đội ngũ của nhân viên của công ty anh ta vì khó có thể thực sự biết hết tất cả những chiếc điện thoại đó, và các khách hàng có quá nhiều lựa chọn.

Nhưng Apple chỉ có mỗi iPhone, và bất cứ ai vào cửa hàng Apple đều hiểu mọi nhân viên ở đây đều biết về từng sản phẩm trong 4 sản phẩm chính được giới thiệu tại đây. Apple không có 5 mô hình điện thoại để lựa chọn, Apple chỉ có duy nhất 1. Trong khi điều này có vẻ như làm hạn chế số lượng điện thoại thông minh (smartphone) cho người sử dụng nhưng thực tế thì ngược lại. Công ty chúng tôi thực hiện nghiên cứu khách hàng đã 30 năm, và các khách hàng thường xuyên nói cho chúng tôi rằng sự lựa chọn là hay, nhưng thực tế họ muốn quá trình chọn lựa một sản phẩm công nghệ cần phải đơn giản và không phức tạp bởi quá nhiều cái để lựa chọn.

Thực ra thì có những người “nghiện” công nghệ thích có nhiều lựa chọn và đôi khi thích cả sự phức tạp, nhưng với nhiều năm kinh nghiệm là một người nghiên cứu thị trường, tôi có thể nói ngắn gọn là phần lớn người sử dụng không phải là “nghiện” công nghệ, và đơn giản mọi thứ đối với họ là một ưu điểm. Apple hiểu điều này rất rõ và không bao giờ bị lôi cuốn để tăng nhiều phiên bản iPhone, iPad hay thậm chí nhiều hơn 1 hay 2 loại iPod. Điều này làm cho khách hàng mua một sản phẩm Apple trở nên đơn giản. Và khách hàng có thể đánh giá việc này nhờ xem xét số lượng lớn các thiết bị được bán mỗi năm. Tôi biết rằng truyền thông công nghệ và các chuyên viên giỏi phần lớn là những người nói nhiều về vấn đề lựa chọn, nhưng cuối cùng, trong khi lựa chọn tốt cho việc định giá cạnh tranh, những khách hàng không thạo công nghệ thích những gì thực sự đơn giản.

4. Dịch vụ khách hàng và trải nghiệm tại cửa hàng tốt nhất

Jobs hiểu một trong những câu hỏi hắc búa lớn của công nghệ: thậm chí nếu bạn tạo ra các sản phẩm dễ dàng sử dụng, nhưng khi mọi người muốn sử dụng công nghệ lại thường tạo ra sự phức tạp. Bởi vì điều này, các khách hàng ở cấp độ nào cũng cần một số chỉ dẫn. Tôi đã là một trong những người phê bình Apple khá nhiều khi Apple giới thiệu cửa hàng bán lẻ đầu tiên ở Tokyo vào năm 2002. Tôi đã nghĩ thật điên khùng khi Apple cố gắng thực hiện bán lẻ. Vào thời điểm đó, và thậm chí hiện nay, các cửa hàng bán lẻ công nghệ đang sụt giảm trong khi những cửa hàng kiểu hộp dạng lớn như Costo và Walmart bán các sản phẩm đúng giá và không gì khác. Tôi nghĩ rằng nếu giá là vấn đề, một cửa hàng bán lẻ bị lật đổ sẽ là thảm họa. Nhưng nay có thể nói rằng tôi đã sai lầm về chiến lược bán lẻ của Apple.

Apple sử dụng câu hỏi hắc búa này thành ưu điểm của mình. Bởi vì Apple duy trì mã số sản phẩm đơn giản, người bán hàng trong cửa hàng biết rất rõ về các sản phẩm. Để ý thì bạn có thể thấy khi bạn đi vào một cửa hàng Apple và bạn được một trong những nhân viên bán hàng chào mừng, bạn không bị hỏi là “Tôi có thể giúp gì cho bạn?”. Thay vào đó bạn được hỏi “Bạn thích làm gì ngày hôm nay?”. Đội ngũ bán hàng đi thẳng vào trọng tâm của bất cứ câu hỏi nào của người sử dụng công nghệ, một câu hỏi mà luôn liên quan đến những gì họ muốn thực hiện với công nghệ mà họ đang quan tâm.

Và một khi bạn giải thích các nhu cầu của bạn, đội ngũ của Apple sẽ chăm sóc tại chỗ mọi yêu cầu. Hoặc nếu bạn cần chỉ dẫn, họ sẽ đưa bạn tới người thành thạo của Apple. Không ngạc nhiên khi 50% số người mua các sản phẩm Apple là người mới đến Apple. Các sản phẩm của Apple đơn giản để hiểu và sử dụng, nhưng nếu bạn có một vấn đề, Apple có thể chăm sóc sản phẩm này tại các cửa hàng của Apple hoặc qua điện thoại rất nhanh chóng.

5. Apple chỉ làm một sản phẩm nếu Apple có thể làm điều đó tốt hơn

Apple thường không sáng tạo một sản phẩm mới hay tiêu chí sản phẩm. Điều chắc chắn, công ty này đã sáng tạo ra chiếc PC thương mại đầu tiên với Apple II, và Mac được cải thiện trên PC với một giao diện người sử dụng hình ảnh và đầu cắm chuột. Nhưng kể từ đó, tất cả các sản phẩm khác của Apple đều là những sáng tạo trên các sản phẩm đã có. Apple đã không sáng tạo ra máy MP3, Apple đã sáng tạo lại và làm cho sản phẩm này tuyệt vời hơn. Apple không sáng tạo ra smart phone, Apple đã sáng tạo lại và làm cho sản phẩm này tuyệt vời hơn. Và Apple không sáng tạo ra máy tính bảng nhưng sáng tạo lại sản phẩm này và sản phẩm trở nên tuyệt vời hơn.

Như nhà thiết của Apple Jonathan Ive cho biết gần đây: “Mục tiêu của chúng tôi rất đơn giản là thiết kế và tạo ra sản phẩm hoàn hảo hơn. Nếu chúng tôi không thể làm gì đó tuyệt vời hơn, chúng tôi sẽ không làm”. Rõ ràng, Apple áp dụng tư duy đó đầu tiên vào iPod, sau đó là điện thoại thông minh và gần đây cho iPad.

6. Apple đi trước đối thủ 2 năm

Đây là một điều đe dọa các đối thủ của Apple nhất. Trong khi các đối thủ cạnh tranh với Apple đang đưa các sản phẩm tiếp thị để cạnh tranh, Apple đã làm các sản phẩm ít nhất là trước 2 năm. Ví dụ, chiếc iPhone mới có thể xuất hiện thị trường vào tháng 10 nhưng đã được thiết kế và hoàn thiện 2 năm trước. Và chiếc iPhone mà Apple đang làm hiện nay là để cho mùa thu 2014. Lịch trình này cũng tương tự cho iPad. iPad mới xuất hiện vào tháng 3 sang năm đã được thiết kế 2 năm trước. Sản phẩm mà hiện đang làm hiện nay thì phải đến năm 2015 mới hiện diện. Đây quả là một ác mộng đối với các đối thủ của Apple và sẽ tiếp tục như vậy.

Ngoài cảm hứng trong thiết kế, phần mềm và bán lẻ, Apple cũng đổ tiền vào sáng tạo các cấu phần, các quy trình sản xuất và những điều tương tự, làm cho cuộc cạnh tranh không dễ dàng cho các đối thủ của Apple. Và không nên để thực tế là Android đã trở thành hệ điều hành smartphone số 1 làm bạn nghĩ rằng đó là người chiến thắng hoành tráng. Đúng vậy, Android đã tạo lập nền tảng bởi số các công ty và sản phẩm thúc đẩy Android. Nhưng phép đánh giá thành công thực sự là lợi nhuận và Apple đang đạt doanh thu 70% lợi nhuận thị phần smartphone và khoảng 85% lợi nhuận thị phần máy tính bảng. Hãy hỏi bất kỳ đối thủ Android nào mà họ thích nhiều hơn, thị phần hay lợi nhuận. Bạn sẽ nhận được câu trả lời liên quan đến việc đánh giá thành công thực sự là ở trên thị trường.

Sáu nguyên tắc này có thể khá đơn giản nhưng thực tế là Apple cũng đã có phần mềm, thiết kế công nghiệp và một hệ nội dung, ứng dụng và dịch vụ mạnh mẽ như là phần công thức thành công của Apple. Tuy nhiên, tôi có thể nói rằng từ ba thập kỷ quan sát Apple, thì 6 nguyên tắc này thực sự làm Apple thành công. Và có thể thấy rằng Apple sẽ tiếp tục tăng trưởng và chiếm một thị phần lớn ở các tiêu chí sản phẩm của Apple nơi Apple cạnh tranh.

Quang Minh

Theo Time

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Tri thức chuyên ngành
Các chuyên mục liên quan: 
CNTT

Chuyện “cắm mốc” chủ quyền cho vệ tinh VINASAT-2

Tóm tắt: 

(ICTPress) - Phải nói rằng việc dành được vị trí quỹ đạo 131,8o Đông sẵn sàng cho việc phóng vệ tinh thứ 2 của Việt Nam cho thấy một tầm nhìn chiến lược, một quyết sách đúng đắn.

(ICTPress) - 5 giờ 13 phút sáng ngày 16/5/2012, vệ tinh Vinasat-2 của Việt Nam sẽ được phóng lên quỹ đạo địa tĩnh ở vị trí 131,8o Đông. Để có được chủ quyền cho các vệ tinh Vinasat-1 và 2 là cả một sự nỗ lực của đội ngũ các cán bộ chuyên viên của Cục Tần số, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT). Nhân dịp này, ICTPress xin giới thiệu đến bạn đọc câu chuyện “cắm mốc” chủ quyền cho vệ tinh Vinasat-2.

Đặc điểm của thông tin vệ tinh là khả năng phủ sóng rộng, không bị giới hạn bởi địa giới hành chính, việc thiết lập đường truyền đơn giản, nhanh chóng nên khi nền kinh tế phát triển việc các doanh nghiệp (DN) sử dụng dịch vụ thuê vệ tinh, thuê kênh của quốc tế là một nhu cầu tất yếu.

Trên thế giới, số lượng các vệ tinh được phóng lên quỹ đạo ngày càng tăng, kèm theo đó việc sử dụng phổ tần số vô tuyến điện dành cho thông tin vệ tinh cũng tăng lên nhanh chóng. Điều này dẫn đến việc tìm kiếm quỹ đạo vệ tinh ngày càng khó khăn. Để đăng ký được một vị trí quỹ đạo với Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) thì ít nhất cũng phải phối hợp với vài chục nước, cả trăm mạng vệ tinh (vệ tinh thật và mạng vệ tinh đã đăng ký trước). Nhiệm vụ phối hợp này rất phức tạp, khó khăn và rất tốn kém mà không phải lúc nào đăng ký cũng có thể dành được vị trí quỹ đạo, cũng có thể phối hợp thành công. 

Hình 1 và 2. Vùng phủ vệ tinh VINASAT-1 băng tần Ku và C

Chuẩn bị dự án phóng vệ tinh đầu tiên (vệ tinh VINASAT-1) vào vị trí 132o Đông nằm cách mặt đất khoảng 38.638 km, Việt Nam đã thực hiện các thủ tục đăng ký vị trí quỹ đạo và phối hợp tần số từ năm 1996 và theo quy định của ITU, Việt Nam phải thực hiện đàm phán thỏa thuận với 27 quốc gia, trong đó có: Indonesia, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Tonga, Anh, Pháp, Thái Lan… Sau hơn 10 năm thực hiện các thủ tục phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh hết sức phức tạp, đầu năm 2008 về cơ bản hoàn thành phối hợp với các mạng vệ tinh xung quanh vị trí quỹ đạo 132E để sẵn sàng phóng vệ tinh VINASAT-1.

Ngày 19/4/2008, tên lửa Ariane 5 của Arianespace đã đưa vệ tinh VINASAT-1 của Việt Nam vào quỹ đạo. Sự kiện này đánh dấu "chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên không gian" bước đầu thực hiện giấc mơ “không gian” phát triển mở rộng, hình thành mạng lưới viễn thông đồng bộ từ hệ thống cáp quang, hệ thống vô tuyến đến hệ thống thông tin vệ tinh đảm bảo thông tin liên lạc luôn được thông suốt trong mọi điều kiện địa hình, thời tiết. Vệ tinh VINASAT-1 thực sự đã là cầu nối truyền thông quan trọng với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Bằng việc có vệ tinh VINASAT-1 trên quỹ đạo, Việt Nam sẽ có khả năng cung cấp đa dạng các dịch vụ viễn thông không chỉ trong nước mà còn cả ở nước ngoài không còn phải phụ thuộc vào việc thuê kênh vệ tinh của nước ngoài.

Quá trình cho thuê dung lượng bộ phát đáp của vệ tinh VINASAT-1 rất khả quan, hiện nay đã khai thác hết dung lượng băng tần Ku và trên 80% dung lượng băng tần C. Thường khi sử dụng khoảng 70% dung lượng vệ tinh hiện tại là phải nghĩ đến việc xây dựng vệ tinh tiếp theo. Điều này cho thấy nhu cầu cần thiết phóng vệ tinh VINASAT-2 nối dài giấc mơ không gian, chắp cánh mở rộng cho vệ tinh VINASAT-1, vệ tinh thế hệ đầu tiên của Việt Nam.

Hình 3. Dịch vụ do VINASAT-1 cung cấp

Giấc mơ đó đã trở thành hiện thực bởi không chỉ “cắm mốc chủ quyền” với vị trí 132o Đông, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) trong đó Cục Tần số là đơn vị chủ trì đã đăng ký thành công vị trí quỹ đạo khác là 131.8o Đông sẵn sàng cho việc phóng vệ tinh VINASAT-2.

Phải nói rằng việc dành được vị trí quỹ đạo 131.8o Đông sẵn sàng cho việc phóng vệ tinh thứ 2 của Việt Nam cho thấy một tầm nhìn chiến lược, một quyết sách đúng đắn. Trong quá trình phối hợp vị trí quỹ đạo 132o Đông cho dự án VINASAT-1, Cục Tần số đã nhận thấy tương lai Việt Nam sẽ không chỉ phóng một vệ tinh duy nhất, mà sẽ là một chuỗi vệ tinh để hình thành nên một hệ thống mạng vệ tinh đầy đủ, tin cậy (có dự phòng) để cung cấp cho nhu cầu sử dụng thông tin vệ tinh trong nước và quốc tế. Cục Tần số đã gửi các văn bản tới các DN Việt Nam để chủ động tìm hiểu khả năng sử dụng thông tin vệ tinh, khả năng phóng vệ tinh viễn thông hoặc các DN có thể liên doanh với các đối tác của nước ngoài để phóng vệ tinh. Vì vậy, cần phải có thêm nguồn tài nguyên quỹ đạo vệ tinh (cần “đất” cho vệ tinh). Trong khi đó vị trí quỹ đạo ngày càng chật chội, việc hoàn thành phối hợp với các mạng vệ tinh xung quanh một vị trí quỹ đạo được đăng ký mới vô cùng khó khăn điều này thể hiện rõ qua thực tế phối hợp cho vị trí quỹ đạo 132o Đông mà Việt Nam đã phải thực hiện.

Trước tình hình đó, Cục Tần số đã có một quyết định chiến lược, đó là tìm kiếm vị trí quỹ đạo trong băng tần quy hoạch. Băng tần này được thế giới quy hoạch với mục đích là để phân bổ cho mỗi nước một vị trí quỹ đạo (“của để giành”) với vùng phủ chỉ phủ quốc gia (nội địa) để tạo điều kiện cho các nước ít nhất cũng có một vị trí quỹ đạo để phóng vệ tinh trong tương lai (Việt Nam được phân bổ vị trí quỹ đạo 107o Đông). Tuy nhiên, vì qui hoạch cho các nước nên các tham số kỹ thuật được phân bổ không thuận lợi cho việc khai thác vệ tinh thương mại như đường kính anten băng tần C sử dụng là 7m, băng tần Ku là 3m.

Chính vì thế, Cục Tần số đã quyết tâm đăng ký vị trí quỹ đạo mới trong băng tần quy hoạch (bên cạnh vị trí 107o Đông đã được phân cho Việt Nam) có khả năng khai thác vệ tinh thương mại với đường kính anten nhỏ hơn.

Năm 2003, Cục Tần số đã đăng ký vị trí quỹ đạo 97o Đông và 103o Đông với 2 hồ sơ mạng vệ tinh có tên VINASAT-FSS-97E-III (97E) và VINASAT-FSS-103E-III (103E). Đồng thời đăng ký mở rộng vùng dịch vụ của mạng vệ tinh được phân bổ tại vị trí 107o Đông có vùng phủ lớn.

Với tầm nhìn chiến lược đó, Cục Tần số đã cử các cán bộ, chuyên viên xuất sắc, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh liên tục tham gia các nhóm nghiên cứu của của ITU để nắm bắt từng qui định cụ thể, chi tiết và hết sức phức tạp của Thể lệ tần số vô tuyến điện quốc tế (luật quốc tế) qua đó không chỉ hiểu luật quốc tế mà còn có thể tham gia trực tiếp sửa đổi các điều khoản qui định có lợi cho Việt Nam tại các hội nghị này.

Đây là một quyết định hết sức quan trọng để thực hiện tầm nhìn chiến lược dành vị trí quỹ đạo cho Việt Nam. Bởi với việc tham gia liên tục tham gia các nhóm nghiên cứu của của ITU, Cục Tần số đã có những đóng góp trực tiếp để giảm kích thước đường kính anten theo quy định sử dụng trong băng tần này. Và trên hết là với tình hình thảo luận qua 4 năm (từ năm 2003 đến năm 2007) tại các nhóm nghiên cứu của ITU, Cục Tần số đã dự đoán khả năng thay đổi qui định sau hội nghị vô tuyến thế giới năm 2007 (WRC-07) xóa bỏ việc cho phép dịch chuyển vị trí quỹ đạo đã đăng ký sang vị trí mới. Chính vì thế, trước hội nghị WRC-07, Cục Tần số đã đăng ký mạng vệ tinh VINASAT-FSS-97E-III (quỹ đạo 97o Đông) và VINASAT-FSS-103E-III (quỹ đạo 103o Đông) được dịch vị trí quỹ đạo sang các vị trí 126o Đông và 131.8o Đông và được đổi tên là VINASAT-FSS-126E-III và VINASAT-FSS-131E-III. Việc dịch chuyển vị trí quỹ đạo này giúp Việt Nam giảm được các mạng vệ tinh phải phối hợp và đặc biệt tránh được can nhiễu lớn tới mạng vệ tinh của Liên Bang Nga. Và quả thực, sau Hội nghị WRC-07, việc di chuyển vị trí quỹ đạo đã không còn được phép thực hiện.

Tại cuộc họp phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh tháng 8/2007 tại Mátxơcơva, Liên bang Nga các chuyên gia phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh của Liên Bang Nga không tin Việt Nam có thể vận dụng Thể lệ (luật quốc tế) và kỹ thuật để dịch chuyển thành công, đăng ký cho vị trí quỹ đạo 126o Đông và 131,8o Đông. Bởi thực tế, ngoài việc vận dụng các qui định phức tạp của ITU thì sau khi đăng ký dịch chuyển vị trí quỹ đạo sang vị trí 126o Đông và 131,8o Đông, theo quy định Việt Nam chỉ có 1 tháng để xử lý tất cả các tham số kỹ thuật (đường kính anten, công xuất phát, vùng phủ,…) để loại bỏ hết can nhiễu đến mạng vệ tinh của các nước thì mới được đăng ký và được quốc tế công nhận. Điều này là vô cùng khó khăn đối với một nước đang phát triển, đang hội nhập và chưa có vệ tinh nào trên quỹ đạo.

Tuy nhiên với việc được cọ sát liên tục trong môi trường quốc tế, bản lĩnh và kinh nghiệm của các chuyên gia Cục Tần số đã ngày đêm tìm mọi cách tối ưu các tham số kỹ thuật, tự viết phần mềm thiết kế vùng phủ vệ tinh, chạy đi chạy lại nhiều lần phần mềm của ITU để dần từng bước loại bỏ can hết can nhiễu. Cuối cùng trước một tuần ngày hết hạn qui định của ITU, Cục Tần số đã tìm ra các tham số tối ưu, vùng phủ vệ tinh tối ưu đáp ứng được đầy đủ các điều kiện, quy định của ITU để đăng ký thành công vị trí quỹ đạo 126o Đông và 131.8o Đông sẵn sàng cho việc phóng vệ tinh VINASAT-2.

Dưới đây là các tham số mạng VINASAT-FSS-131,8E vị trí quĩ đạo: 131,8o Đông và mạng vệ tinh VINASAT-FSS-126E vị trí quỹ đạo: 126o Đông.

Băng tần C:

Vùng phủ sóng và vùng dịch vụ:

Băng tần Ku:

Vùng phủ sóng và vùng dịch vụ:

Đối với vị trí quỹ đạo 107o Đông (mạng vệ tinh VINASAT-FSS-107E), Cục Tần số đã áp dụng các kỹ thuật đặc biệt, tìm cách vận dụng quy định quốc tế để thiết kế, mở rộng vùng phủ tối đa cho mạng vệ tinh Việt Nam trong khi khoét các “điểm mù” để loại bỏ các can nhiễu có thể gây ra cho các nước. Với cách làm đó, vị trí 107o Đông cũng đã được đăng ký thành công sẵn sàng cho việc phóng vệ tinh của Việt Nam.

Như vậy, Việt Nam là một trong những nước đi đầu và thành công trong việc dành vị trí quỹ đạo trong băng tần qui hoạch (vị trí 107o Đông, vị trí 126o Đông và vị trí 131.8o Đông). Những vị trí này hết sức quý giá trong bối cảnh vị trí quỹ đạo là một nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm. Điều này đã khẳng định vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế trong vấn đề đăng ký, phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh. Đồng thời các cán bộ chuyên viên của Cục Tần số cũng đã khẳng định được trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý (luật quốc tế) trong khu vực và trên thế giới và một trong số đó những cán bộ, chuyên viên đó đã trở thành chuyên gia hàng đầu thế giới trong vấn đề xử lý đăng ký, phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh trong băng tần qui hoạch mà hiện nay anh đang làm việc cho ITU.

Tập đoàn VNPT đã đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông chấp thuận cho VNPT được sử dụng các vị trí quỹ đạo theo thứ tự ưu tiên là 107º Đông và 131.8º Đông.

Ngày 11/5/2010, tại Hà Nội, VNPT và Công ty Lockheed Martin Commercial Space Systems - Tập đoàn Lockheed Martin (Hoa Kỳ) đã ký kết Hợp đồng gói thầu “Cung cấp vệ tinh, thiết bị trạm điều khiển và dịch vụ phóng” thuộc dự án phóng vệ tinh viễn thông VINASAT-2 vào quý II năm 2012 chính thức biến giấc mơ chắp cánh cho VINASAT-1 trở thành hiện thực.

Để bảo giảm thiểu rủi ro (vệ tinh phải đưa vào sử dụng trước ngày 8/6/2012, nếu không sẽ mất vị trí quỹ đạo) và tăng cường mở rộng vùng dịch vụ cho vệ tinh VINASAT-2 (vùng dịch vụ vệ tinh VINASAT-2 chỉ bao phủ lãnh thổ Việt Nam), Cục Tần số đã thực hiện phối hợp mở rộng vùng dịch vụ cho vệ tinh VINASAT-2 với cơ quan quản lý tần số Lào. Dựa trên tinh thần hữu nghị, hợp tác đặc biệt giữa cơ quan quản lý tần số hai nước, Lào đã đồng ý, cho phép vùng dịch vụ của mạng vệ tinh VINASAT-FSS-131E-III (131.8E) được phủ lãnh thổ Lào. Cục Tần số cũng đã làm việc với cơ quan quản lý tần số Campuchia để sớm tổ chức cuộc họp phối hợp mở rộng vùng dịch vụ cho VINASAT-2 sang Campuchia trong năm nay. Tại Hội nghị vô tuyến thế giới năm 2012 (WRC-12), Cục Tần số đã đề nghị Hội nghị xem xét và cho phép hồ sơ mạng vệ tinh VINASAT-FSS-131E-III (131,8E) của Việt Nam được kéo dài 1 năm trong trường hợp trễ phóng do phóng kèm. Đề nghị của Việt Nam đã được Hội nghị chấp thuận, thông qua và ủy quyền cho RRB xem xét (được ghi tại biên bản của Hội nghị). Đây là một thành công lớn, giúp Việt Nam có cơ hội giữ được vị trí quỹ đạo trong trường hợp phóng trễ do phóng kèm.

Vệ tinh VINASAT-2 có công suất, trọng lượng lớn hơn, số bộ phát đáp nhiều hơn (VINASAT-2 có 24 bộ phát đáp trong khi VINASAT-1 chỉ có 20 bộ phát đáp) có thời gian sống 15 năm. Với thực tế việc kinh doanh băng tần Ku thuận lợi, VINASAT-2 chỉ được xây dựng với băng tần Ku. Tuy VINASAT-2 có hạn chế là vùng phủ của vệ tinh nhỏ hơn chỉ bao gồm Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan và một phần Mianma, tuy nhiên VINASAT-2 cũng đã được thiết kế với nhiều giải pháp kỹ thuật kết hợp với kết quả phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh sẽ có các vùng phủ linh hoạt mở rộng khả năng phục vụ nhu cầu khách hàng các nước trong khu vực. Cùng với VINASAT-1, vệ tinh VINASAT-2 sẽ tạo thành một hệ thống vệ tinh có khả năng dự phòng về dung lượng và giảm thiểu rủi ro giữa các vệ tinh, củng cố an ninh, an toàn cho mạng viễn thông quốc gia, đồng thời đem lại lợi ích chung cho cộng đồng, góp phần tăng cường khả năng khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên tần số quỹ đạo vệ tinh.  

Tiếp nối phóng vệ tinh VINASAT-1 việc thực hiện dự án phóng vệ tinh VINASAT-2 sẽ tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của ngành vệ tinh viễn thông Việt Nam, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng trong và ngoài nước, hỗ trợ và nâng cao hạ tầng viễn thông của 3 nước Việt nam, Lào, Campuchia, góp phần nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ khoa học, làm chủ kỹ thuật, công nghệ trong lĩnh vực thông tin vệ tinh hiện đại. Trong đó, Cục Tần số đã tiên phong mở đường tìm “đất” cho vệ tinh của Việt Nam cất cánh.

N.H Cương

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Tri thức chuyên ngành
Các chuyên mục liên quan: 
Viễn thông

Tận hưởng ứng dụng di động - lý do để trang bị smartphone

Tóm tắt: 

(ICTPress) - 10 hoạt động phổ biến nhất của người dùng smartphone là kiểm tra địa điểm, sử dụng bản đồ định vị hoặc truy cập thông tin về giao thông, xem TV qua internet, xem phim...

(ICTPress) - Ericsson ConsumerLab vừa công bố nghiên cứu về "Văn hóa sử dụng ứng dụng" dựa trên nghiên cứu trực tuyến thực hiện tại 3 nước Nga, Ấn Độ và Brazil.

Nghiên cứu trên được thực hiện vào cuối 2011 với số người dùng điện thoại thông minh (smartphone) độ tuổi từ 15 đến 54, sử dụng smartphone để truy cập Internet ít nhất 1 tuần/lần.

1.220 người đã tham gia khảo sát bao gồm những người bắt đầu dùng smartphone nhưng tiếp cận nhanh chóng với các ứng dụng và những người dùng smartphone lâu năm. 69% người sử dụng smartphone trong khảo sát truy cập Internet sử dụng ứng dụng hàng ngày và 20% sử dụng các dịch vụ dữ liệu như video, TV, bản đồ và ứng dụng tọa độ.

10 hoạt động phổ biến nhất của người dùng smartphone là kiểm tra (check-in) địa điểm, sử dụng bản đồ định vị hoặc truy cập thông tin về giao thông, xem TV qua internet, xem phim, chơi game trực tuyến, xem video streaming, chơi game trên các trang mạng xã hội, xem tin trực tiếp, sử dụng Twitter và viết blog.

Việc sử dụng ứng dụng trên di động tại 3 quốc gia trong danh sách khảo sát có những đặc điểm khác nhau. Người Ấn Độ thích tải các ứng dụng mang tính cá nhân như màn hình chờ, màn hình chính và các trình duyệt của đối tác thứ ba ngoài những ứng dụng truyền thông và trò chơi trên mạng xã hội. Người Nga thích các ứng dụng tiện ích đối với cuộc sống như định vị, bản đồ, so sánh giá cả, máy quét ký hiệu hàng hóa, phần mềm chính tả và dịch thuật. Người Brazil sử dụng những ứng dụng để kết nối tương tác mang tính xã hội.

Nghiên cứu này cũng chỉ ra đặc điểm sử dụng ứng dụng ở các nước đang phát triển có nét khác biệt với các nước phát triển. 2/5 người sử dụng hiếm khi hoặc không bao giờ vào chợ ứng dụng chính thức mà thường tải (download) ứng dụng từ các trang diễn đàn của bên thứ ba. Khoảng nửa số người tải ứng dụng trên máy tính PC trước, sau đó chuyển sang smartphone để tiết kiệm dung lượng dữ liệu.

X.T

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Tri thức chuyên ngành
Các chuyên mục liên quan: 
Viễn thông

4G - một số vấn đề nên quan tâm

Tóm tắt: 

Khuyến nghị của ITU, kinh nghiệm triển khai, những thử nghiệm mới, tương lai của 4G trên thế giới và ở Việt Nam… đó là những vấn đề cần được quan tâm.

Khuyến nghị của ITU, kinh nghiệm triển khai, những thử nghiệm mới, tương lai của 4G trên thế giới và ở Việt Nam… đó là những vấn đề cần được quan tâm.

Khuyến nghị ITU-R M.2012

Ngày 18/1/2012 tại Geneva, phiên họp toàn thể của Hội đồng Thông tin Vô tuyến (Radiocommunication Assembly - ITU-R) đã nhất trí phê chuẩn khuyến nghị ITU-R M.2012 về chuẩn giao diện IMT-Advanced [1].

Chuẩn giao diện vô tuyến IMT-Advanced, hay còn được nhắc đến như là chuẩn 4G, gồm 2 loại giao diện vô tuyến là LTE-Advanced và WirelessMAN-Advanced. Trong đó, chuẩn giao diện vô tuyến LTE-Advanced do 3GPP phát triển (phiên bản LTE Release 10 và tiếp sau) còn chuẩn WirelessMAN-Advanced do IEEE phát triển (chuẩn WirelessMAN-Advanced kết hợp với chuẩn IEEE 802.16).

WiMAX nằm trong chuẩn 4G và được gọi tên là WirelessMAN (WiMAX Release 2.0), đó là một trong hai nhánh của chuẩn 4G. Trong khi đó, LTE vẫn được giữ nguyên tên.

Điểm khác nhau cơ bản giữa 4G và 3G

Đó là sự khác nhau về tốc độ và hiệu quả sử dụng phổ tần số:

Tốc độ:

Tốc độ theo chuẩn 4G nhanh gấp nhiều lần so với tốc độ của chuẩn 3G.

Theo định nghĩa trước đây thì chuẩn 3G có tốc độ là 2Mbit/s. Nhưng định nghĩa chuẩn 4G có tốc độ lên đến 1 Gb/s, tức là cao hơn gấp 500 lần chuẩn 3G.

IMT-Advanced sẽ cung cấp các dịch vụ băng thông rộng với chất lượng cao hơn, tốc độ lớn hơn so với những công nghệ hiện có. Tốc độ dữ liệu đường xuống cao nhất là 100Mbit/s trong trường hợp di chuyển nhanh và 1Gbit/s các kết nối trong khi di chuyển chậm.

Hiệu quả sử dụng phổ tần số:

IMT-Advanced vượt trội không chỉ về tốc độ mà còn về hiệu quả sử dụng phổ tần số. IMT-Advanced có thể truyền dữ liệu lớn hơn trên băng thông hẹp hơn. Điều này giúp các nhà mạng đối mặt với sự gia tăng nhanh của lưu lượng dữ liệu trong tương lai gần.

Hiện nay đã có bao nhiêu mạng 4G đã được triển khai

Theo thống kê của Hiệp hội các nhà cung cấp thiết bị di dộng (GSA), tính tới tháng 1 năm 2012, đã có 285 mạng di động trên 93 quốc gia cam kết sẽ triển khai LTE. Hiện nay, mạng LTE đã có thể cung cấp tốc độ lên tới 100Mbps, tuy nhiên, tốc độ thay đổi tuy theo địa điểm và tải lượng mạng thời điểm đó của mỗi mạng. Hiện có khoảng 100 loại thiết bị LTE đã có mặt trên thị trường. Đa số các mạng 4G đang được triển khai theo LTE Release 8 và hiện đã có 17 mạng đã được triển khai thương mại trên toàn cầu, cung cấp dịch vụ cho khoảng 200 triệu thuê bao [2, 3]

Nhiều nhà mạng bắt đầu có kế hoạch triển khai mạng sử dụng công nghệ IMT-Advanced trong vài năm tới. Trong đó có một vài nhà khai thác đang sử dụng WiMAX, đã tuyên bố sẽ nâng cấp lên dùng LTE-Advanced. Ví dụ: Clearwire (Mỹ) sẽ triển khai LTE Advanced theo chuẩn TDD-LTE để thay thế mạng WiMAX của mình. Tháng 10/2011, Spint Nextel tuyên bố sẽ triển khai LTE Advanced tại băng tần 800 MHz vào nửa đầu năm 2013. Bên cạnh đó, AT&T sẽ triển khai LTE Advanced trong năm 2013.

Thử nghiệm LTE-Advanced 1 Gbps

Ericsson đã tiến hành thử nghiệm bước phát triển kế tiếp của LTE (LTE-Advanced) với Cục Viễn Thông và Bưu điện Thụy Điển từ cuối tháng 6/2011. Thử nghiệm này diễn ra ở Kista, khu công nghệ cao ở ngoại vi thủ đô Stockholm của Thụy Điển. Đây là thử nghiệm đầu tiên về LTE-Advanced trong môi trường di động, đạt tốc độ lên tới 1Gbps, gấp trên 10 lần so với tốc độ hiện tại ở các mạng LTE thương mại [2,4].

Với tần số thử nghiệm do Cục Viễn thông và Bưu điện cho phép, thử nghiệm LTE-Advanced cho thấy rõ tốc độ và dung lượng đáp ứng nhu cầu rất lớn của xã hội kết nối trong tương lai, dự kiến là 50 tỉ vào năm 2020.

Hệ thống thử nghiệm vận hành trên trạm phát sóng Ericsson RBS6000 multi-mode, multi-standard. Sự kết nối giữa RBS và một chiếc xe tải chuyển động đã tạo ra những kết nối thực trong môi trường di động, qua đó quan sát được chất lượng vận hành của mạng. Thử nghiệm đã sử dụng ba kênh liền nhau đồng thời 60MHz, so với mức tối đa là 20MHz hiện đang sử dụng ở các mạng LTE thương mại. Và 8x8 MIMO được sử dụng trong downlink.

Dự kiến những giai đoạn đầu tiên của quá trình triển khai thương mại của LTE-Advanced sẽ diễn ra vào năm 2013.

Sách mới về 4G

4G trong tương lai

Khuyến nghị ITU-R M.2012 về chuẩn giao diện IMT-Advanced bao gồm LTE-Advanced và WirelessMAN-Advanced là tiêu chí để những nhà sản xuất thiết bị thực hiện các thiết kế kỹ thuật chi tiết theo đúng chuẩn.

Việc đưa ra tiêu chuẩn này là sự khẳng định xu thế phát triển công nghệ của tương lai phát triển theo chuẩn mà ITU đưa ra. Điều này là cơ sở cho việc các thiết bị được sản xuất ra sẽ phải đáp ứng được yêu cầu tương thích.

Việc phê chuẩn về 4G cũng giúp cơ quan quản lý ở các quốc gia có định hướng trong quá trình quy hoạch băng tần một cách phù hợp.

Trên cơ sở này, các nhà mạng có thể lên kế hoạch triển khai 4G mà không ngại về vấn đề thiếu tương thích hay những thay đổi không bền vững.

Việc ITU phê chuẩn chuẩn 4G IMT-Advanced là cơ sở cho  một công nghệ hài hòa toàn cầu, thỏa mãn những yêu cầu chặt chẽ trong quá trình vận hành. Khi được triển khai ở quy mô toàn cầu hay khu vực trên những dải tần đã được thống nhất, sẽ mang lại tính kinh tế và giá thành hợp lý. Sự phê chuẩn sẽ mang lại sự phát triển mang tính dài hạn, cung cấp một hệ thống tiêu chuẩn để nhà sản xuất thiết bị hạ tầng, nhà mạng, nhà sản xuất thiết bị đầu cuối có cơ sở để tra cứu và phát triển công nghệ, thiết bị.

Sự phát triển công nghệ dựa trên các tần số được thống nhất ở trong khu vực và toàn cầu sẽ đảm bảo hệ thống cơ sở hạ tầng đồng nhất mang lại sự tối ưu hóa về chi phí cho các nhà mạng và đồng thời cung cấp các thiết bị chi phí hợp lý cho người tiêu dùng với các sự lựa chọn đa dạng về thiết bị thoại tới các thiết bị thông minh như smart phone, máy tính bảng và máy tính cá nhân

Mặc dù các công nghệ mới cũng cần có thời gian để khẳng định sự thành công và tính vững bền trong quá trình thương mại hóa đưa vào sử dụng; việc Khuyến nghị ITU-R M. 2012 được thông qua vẫn đánh dấu một bước tiến quan trọng để thúc đẩy việc đưa ra thương mại các công nghệ theo chuẩn 4G. Thị trường viễn thông thế giới trong một vài năm tới sẽ có nhiều đột phá.

Khi nào thì Việt Nam nên triển khai 4G

Điều kiện cơ bản để triển khai 4G là có tần số và thiết bị. Ở Việt Nam, hiện có hai băng tần 2,3 GHz và 2,6 GHz đang được xem xét cấp phép. Cụ thể hiện một số nhà mạng đã được cấp giấy phép để thử nghiệm ở băng tần 2,6 GHz.

Tuy nhiên, thực tế là hiện tại ở Việt Nam, 3G vẫn đang trong giai đoạn phát triển mở rộng. Sự xuất hiện ngày càng nhiều loại thiết bị thông minh như smart phone, máy tính bảng với mức chị phí hợp lý tạo cơ sở cho nhu cầu sử dụng dữ liệu ngày càng cao ở Việt Nam và 3G là môi trường thích hợp để đáp ứng nhu cầu thực tế đó của người sử dụng. 3G cũng tạo điều kiện để nhiều ứng dụng thiết thực của CNTT được đi vào cuộc sống trong tương lai, có lợi cho người tiêu dùng, cho xã hội, cho nhà mạng, cho các nhà cung cấp dịch vụ nội dung.

Theo đánh giá của các chuyên gia [2], hiện tại ở Việt Nam, 3G đã đủ để đáp ứng nhu cầu hiện tại và trong vài năm nữa. Khó có thể nói chính xác năm nào cần có 4G nhưng với thực tế là lưu lượng dữ liệu di động trung bình hàng năm tăng gấp 2 lần và dự kiến đến 2016 thế giới có 5 tỉ thuê bao băng rộng di động thì 4G sẽ là bước phát triển kế tiếp trong tương lai.

4G sẽ cần thiết khi thị trường Việt Nam thực sự cần một dung lượng rất lớn để đáp ứng nhu cầu thực tế. 

Tài liệu tham khảo:

1/ ITU-R Recommendation M.2012 Detailed specifications of the terrestrial radio interfaces of International Mobile Telecommunications-Advanced (IMT-Advanced)

2/ Recommendation of IMT-Advanced (4G) approved by ITU

Presentation of Dr. Håkan Ohlsén, Director of Technology & Industry  Ericsson APAC

Head of R&D EricssonVietnam& Mr. Jan Wassenius, President EricssonVietnamLaosCambodia.

3/ http://www.gsacom.com

4/ Video of demo LTE-Advanced 1Gbps

Quý Minh

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Tri thức chuyên ngành
Các chuyên mục liên quan: 
Tri thức chuyên ngành

Giáo dục công nghệ cho trẻ từ tuổi nào

Tóm tắt: 

(ICTPress) - "Giáo dục công nghệ là một quá trình liên tục. Trẻ ngay từ 2 tuổi đã thường sử dụng điện thoại thông minh và các thiết bị công nghệ khác".

(ICTPress) - Hiện nay trung bình số trẻ em trước tuổi đến trường có thể chơi game video nhiều hơn là có thể đi xe đạp hoặc buộc dây giầy và với 3/4 trẻ em phổ thông và trung học đã có điện thoại di động. Đây quả là một câu hỏi ngày càng khó đối với cha mẹ thời công nghệ số.

Đã đến lúc các bậc phụ huynh giúp trẻ có những lựa chọn thông minh trên Web

Từ những vấn đề đang nổi cộm như nạn côn đồ trên Internet (cyberbullying), bôi nhọ giáo viên trên mạng (cyberbaiting) và chụp ảnh tự sướng (sexting) đến các mối quan ngại khác ngày càng tăng về an ninh Internet, tội phạm mạng và việc chia sẻ quá nhiều thông tin cá nhân trên mạng, gia đình hiện nay rõ ràng đang phải đối mặt với một loạt thách thức số vô cùng lớn của thế kỷ 21.

Đối với các gia đình trong thế giới số bùng nổ như hiện nay, có lẽ câu hỏi luôn đặt ra là: Chúng ta làm gì để chuẩn bị cho trẻ vào đời trong thời đại kết nối 24 giờ/7 ngày? 70% ông bố bà mẹ tin rằng trước khi trẻ đến trường nên nói cho trẻ nhiều hơn về an toàn trực tuyến và 4/5 giáo viên đồng ý cần nhiều chương trình giáo dục kiểu này hơn tại trường. Các bên đều thống nhất câu trả lời là “không bao giờ là quá đủ”.

“Đối với các che mẹ đang nỗ lực nuôi trẻ và trao công nghệ vào tay trẻ để trẻ thành công, cũng có nghĩa là phải bảo vệ trẻ, nhưng không ai cho biết các bước thực hiện ra sao. Tôi hy vọng các trường cung cấp thông tin và gia đình giáo dục, và quan trọng, cha mẹ có một vai trò lớn trong quá trình này”, người chủ trương Internet an toàn ở Symantec cho biết.

Trẻ ngày nay đang được giáo dục sử dụng nhiều đồ công nghệ nhưng tác động của chúng tới trẻ là vô cùng lớn cả xấu và tốt. Tiến bộ công nghệ nhanh chóng bao nhiêu thì cha mẹ có vẻ đã phản xạ chậm bấy nhiêu, rất nhiều bậc cha mẹ đang phải chạy đuổi theo.

“Mối đe dọa lớn nhất trên Internet hiện nay là bậc cha mẹ không tham gia vào việc sử dụng công nghệ của con trẻ. Để bảo vệ con trẻ an toàn trên Internet cần phải có sự nỗ lực đồng bộ và điều này bắt đầu từ cha mẹ bởi vì phải bắt đầu ngay từ khi trẻ còn thơ bé”, Chủ tịch trang web những đứa trẻ thông minh (Wise Kids), Judi Warren cho biết.

Nhưng đổ cả trách nhiệm giáo dục công dân số cho riêng gia đình sẽ là sai lầm. Giáo dục công nghệ là một quá trình liên tục. Trẻ ngay từ 2 tuổi đã thường sử dụng điện thoại thông minh và các thiết bị công nghệ khác, Warren cho biết.

Giám sát các mạng xã hội

Theo dõi việc bùng nổ của các mạng xã hội và các mạng này hình thành trải nghiệm của trẻ như thế nào thì có thể thấy chỉ 6 năm trước, trước khi Facebook phổ biến đến công chúng vào tháng 9/2006, thuật ngữ “bạn bè” (friend) để mô tả bạn bè hàng xóm và bạn cùng lớp còn quá xa lạ.

Hiện nay, Facebook mở rộng đến hàng trăm người ngang hàng, các đám đông tiềm năng và thậm chí nhiều người lạ. Con trẻ của chúng ta tương tác trực tuyến với tất cả họ, nhiều người trong số họ chưa từng gặp bao giờ.

88% số thanh thiếu niên có mặt trên các trang này đã chứng kiến các hành động cực đoan và cộc cằn.

Đương nhiên, các mạng xã hội có thể là một phương tiện an toàn và thú vị hoàn toàn cho những đứa trẻ muốn chia sẻ ý tưởng và thiết lập các mối quan hệ lành mạnh. Tất cả phụ thuộc vào cách con trẻ sử dụng mạng xã hội như thế nào.

Nhưng khi đề cập đến các nền tảng và các quy định đạo đức mới của công nghệ, cha mẹ không phải lúc nào cũng hiểu rõ. Người lớn đang vật lộn để theo kịp những quy tắc xã giao và chia sẻ thông tin trực tuyến đang thay đổi. Và theo một báo cáo gần đây của tờ báo trực tuyến “Thứ Hai đầu tiên”, một số bậc cha mẹ đang tích cực giúp trẻ vị thành niên tham gia Facebook và các mạng khác, mà không biết là đang tạo ra áp lực cho con trẻ tham gia trực tuyến.

Các chương trình đào tạo

Alas, không phải là chuẩn hay là hệ thống đào tạo quốc gia được công nhận ở Mỹ, đã tồn tại để giáo dục trẻ khám phá Web. Một khóa học an toàn mạng đã được chuẩn hóa và chương trình chứng chỉ công dân số có thể là câu trả lời.

Theo đó, bắt đầu với trình độ K sơ cấp, các chuyên gia có thể hướng dẫn kiểu cầm tay chỉ việc ở trường học nhờ sử dụng máy tính bảng, PC cảm biến và trình duyệt Web. Chương trình ở nhà, các bài giảng trực tuyến và các hoạt động tương tác (được cung cấp qua các ứng dụng, hướng dẫn có thể tải về hay trang web) có thể thực hiện đào tạo bổ sung và các điểm trao đổi cho các gia đình.

Đối với các bậc che mẹ môn cập nhật các công cụ và thực hành web, các trường đại học hay các tổ chức có thể tổ chức các lớp học đào tạo thường xuyên.

Các diễn đàn trực tuyến có thể kết nối các cha mẹ và con trẻ với các chuyên gia công nghệ và y tế. Và các chuyên gia có thể xây dựng một cơ sở dữ liệu các câu trả lời đối với các câu hỏi về an toàn công nghệ phổ thông cho các bậc cha mẹ.

Tuy nhiên, điều này mới chỉ bắt đầu. Một bước logic tiếp theo là sẽ tạo ra một mạng lưới các chương địa phương có thể thực hiện hỗ trợ cho các gia đình gặp phải các vấn đề như nạn côn đồ trên Internet và nghiện Web.

Cha mẹ vẫn là quan trọng

Stephen Balkam, CEO của Viện An ninh gia đình trực tuyến (Family Online Safety Institute), khuyến khích hình thành một “văn hóa trách nhiệm” khi nói với trẻ về an ninh Internet. Theo đó, nhiều khách cạnh của xã hội cùng đóng góp vào việc bảo vệ trẻ.

Một chương trình như vậy bắt đầu từ cấp cao nhất, đó là chính phủ thiết lập các quy định và khung pháp lý an ninh cho các gia đình. Điều này cũng bao gồm các thành viên thực thi luật thực hiện phần công việc giám sát và bắt những kẻ lợi dụng trực tuyến.

Nhưng trong khi các nhà giáo dục theo sát các xu hướng Web và giúp hướng dẫn trẻ hướng tới sự an toàn, họ không thể làm đơn độc mà cần phải phối hợp với các bậc phụ huynh và con trẻ để có những trao đổi thường xuyên, thiết lập các quy định ngay trong gia đình và thực hiện các lựa chọn thông minh trên Web.

Công nghệ đã trở thành thiết yếu như cơm ăn nước uống hàng ngày, nên mỗi chúng ta không thể đơn giản là lờ đi. Tiềm năng của Internet để nâng cao cuộc sống của chúng ta là vô hạn. Nhưng chúng ta không thể để trẻ em và các bậc cha mẹ tự vật lộn với những cạm bẫy mà không có những chuẩn bị và kế hoạch.

Quang Minh

Theo CNN

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Tri thức chuyên ngành

Mạng LTE FDD 1.8GHz đầu tiên được thương mại hóa ở châu Phi

Tóm tắt: 

(ICTPress) - Mạng viễn thông này sẽ cung cấp các dịch vụ băng rộng di động với tốc độ tải dữ liệu lên đến 100Mb/s.

(ICTPress) - Movicel, nhà khai thác viễn thông hàng đầu châu Phi và là hãng tiên phong trong cung cấp các dịch vụ di động tại Angola, ngày đã chính thức công bố việc triển khai mạng Long Term Evolution (LTE) 1.8GHz thương mại đầu tiên của châu Phi tại tỉnh Cabinda, khu vực có trữ lượng dầu thô lớn nhất của Angola.

Ảnh minh họa (arialtel)

Mạng viễn thông này sẽ cung cấp các dịch vụ băng rộng di động với tốc độ tải dữ liệu lên đến 100Mb/s.

Tại triển lãm Di động thế giới (MWC) 2012 diễn ra tại Barcelona, Tây Ban Nha hồi tháng 2, Movicel đã công bố triển khai mạng LTE FDD 1.8GHz thương mại đầu tiên tại Angola vào cuối tháng 5/2012 và nhấn mạnh năng lực cũng như cam kết của Movicel đối với xã hội.

Tuy nhiên, hệ thống mạng chính thức được khai trương ngày 14/4, sớm hơn 45 ngày so với kế hoạch ban đầu. Đây là một bước tiến lớn đối với Angola trong lĩnh vực băng rộng và di động tiên tiến, lĩnh vực giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, hiệu quả kinh doanh và năng suất lao động. Mạng di động này cũng hỗ trợ thúc đẩy phát triển nền kinh tế của Angola thông qua việc tăng cường khả năng liên lạc, trao đổi thông tin nhanh chóng và tiện lợi.

Mạng di động này là một siêu xa lộ thông tin không dây cho phép người dân Angola thụ hưởng: truy cập dễ dàng và nhanh chóng, tốc độ truyền tải dữ liệu nhanh hơn, sử dụng dịch vụ hiệu quả hơn với các dịch vụ đa phương tiện phong phú và tiêu tốn ít thời lượng pin hơn. Mạng tiên tiến này cũng hỗ trợ chính phủ và doanh nghiệp Angola triển khai quá trình trao đổi thông tin toàn cầu tự động hóa và hiệu quả hơn.

Movicel sẽ cung cấp các dịch vụ và công nghệ băng rộng di động tiên tiến nhất trên toàn bộ lãnh thổ Angola trong 3 năm. Năm 2012, Movicel có kế hoạch mở rộng phạm vi phủ sóng LTE tới các thành phố lớn của Angola, nơi sự phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy phát triển hạ tầng thông tin mạnh mẽ hơn.

Huawei, đã hợp tác với Movicel để triển khai hệ thống mạng di động tiên tiến LTE và là một đối tác chặt chẽ trong suốt quá trình triển khai dự án.

X.T

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Tri thức chuyên ngành
Các chuyên mục liên quan: 
Viễn thông