
Tri thức chuyên ngành
Tiếp thị trực tuyến không hề phức tạp
Submitted by nlphuong on Wed, 28/11/2012 - 13:08(ICTPress) - Đây là thông điệp mà các đại biểu tham gia Hội thảo “Internet Marketing - Đường tới thành công”, Hoạt động chào mừng kỷ niệm 15 năm Internet có mặt tại Việt Nam được tổ chức sáng nay 28/11 tại Hà Nội.
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thành Hưng cho biết trải qua 15 năm, Internet Việt Nam đã phát triển to lớn và vũ bão. 1/3 dân số Việt Nam coi Internet là không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, là công cụ của mọi giới.
Hạ tầng Internet sẵn sàng cho ngành tiếp thị trực tuyến
Ông Lukasz Roszczyc, Giám đốc điều hành công ty KLeo Burnett, công ty agency về nội dung số co biết hạ tầng Internet Việt Nam khá ấn tượng, vùng phủ 3G và Internet, số lượng người dùng smartphone.
Bên cạnh đó, mạng xã hội Việt Nam khá phổ biến, đã có 10 triệu người sử dụng Facebook, cộng đồng mua sắm trên mạng là 500.000 người. Giờ công việc chỉ còn là nhận thức, các doanh nghiệp Việt nên nắm bắt cơ hội số mà Internet mang lại để tăng con số doanh thu từ quảng cáo trực tuyến hiện mới đạt 0,5%.
Hỗ trợ quảng bá trực tuyến nhờ công cụ tìm kiếm, quảng bá thuần Việt
Giám đốc công ty Cổ phần mạng tầm nhìn mới, đơn vị vừa tung ra công cụ tìm kiếm Wada, bà Aigerim Zhangozina cho biết, cho biết GDP của Việt Nam phần lớn từ doanh nghiệp nhỏ và vừa, giống như Mỹ nhưng quảng cáo ở hai nước khác nhau.
Với công cụ tìm kiếm Wada, bạn có thể đưa ra nội dung quảng cáo tương ứng với từ khóa người dùng tìm kiếm hoặc hành vi. Ví dụ, khi tìm “du lịch Nha Trang”, Wada hiểu được điều đó, có thể đưa ra gợi ý cách mua vé, các địa điểm du lịch, các thông tin của Nha Trang sẽ hiển thị nhanh chóng…
Lý do chủ yếu mà doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa bị hấp dẫn để thực hiện quảng cáo trực tuyến là thiếu các công cụ quảng cáo trên mạng… Wada là một công cụ. Nếu một doanh muốn bán điều hòa tại Hà Nội có thể tự hiển thị ngay trên đầu trang tìm kiếm của Wada. Bạn muốn một chiến dịch quảng bá Wada sẽ giúp hiển thị trong một vài phút và cũng có thể thay đổi nhanh chóng. Nhờ tính năng tối ưu hóa mà bạn có thể chỉ mất 50 USD đã có chiến dịch quảng bá hiển thị ngay trên mạng.
Bà Aigerim Zhangozina tự hào cho biết Wada được phát triển nhờ đội ngũ chuyên gia của Nga đã có kinh nghiệm 20 năm với công cụ tìm kiếm Yandex, sở hữu nhiều khả năng như ngôn ngữ khác như Ả rập, Trung Quốc…, công nghệ trí tuệ nhân tạo hỗ trợ tìm kiếm, quảng bá rất lớn. Trong thời gian ngắn nữa, doanh nghiệp và người dùng sẽ được trải nghiệm các tính năng đáng ngạc nhiên khác của Wada.
Chi phí cho tiếp thị trực tuyến giảm không ngờ
Ông Tuấn Hà, Công ty Vinalink Media cho biết các doanh nghiệp nên thay đổi mô hình kinh doanh đó là từ chính việc quảng cáo tiếp thị từ truyền thống sang trực tuyến vì người mua hiện nay thích thì mua ngay, họ bộc lộ cảm xúc, rồi chia sẻ để bạn bè biết tốt hay không tốt. Các doanh nghiệp phải nghiên cứu hành vi đó để từ đó quyết định cách thức quảng cáo gì.
Theo ông Hà có 3 cách marketing mà doanh nghiệp có thể áp dụng ngay: Push marketing - gây sự chú ý, Pull marketing - Kéo khách hàng và Community Relation Marketing - Tiếp thị quan hệ cộng đồng. Ba cách này phải cùng kết hợp.
Một thông tin cho cách khách hàng khi quyết quảng cáo trực tuyến là giai đoạn thu hút sự chú ý khách hàng thì cả cách tiếp thị truyền thống và trực tuyến đều không giảm chi phí nhưng khi khách hàng biết sản phẩm đó rồi thì lôi kéo khách hàng, tạo cộng đồng khách hàng sử dụng thì công cụ trực tuyến giúp giảm tới 90% chi phí.
Minh Anh
Tương lai di động tại Việt Nam
Submitted by nlphuong on Wed, 28/11/2012 - 08:00(ICTPress) - Thời điểm chuẩn bị kết thúc năm, mỗi ngành, lĩnh vực thường có những tổng kết và đề ra những chiến lược phát triển cho một năm mới sẽ tới gần. Với mục tiêu tạo thêm động lực cho sự phát triển vượt trội của ngành di động, các diễn giả là các nhà quản lý ngành, nhà mạng, các chuyên gia nước ngoài đã mang tới Hội nghị Mobile Vietnam 2012 được Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức cuối tháng 10 những nội dung thú vị về các khía cạnh thông tin di động, một ngành đang phát triển năng động và tác động đến đông đảo mọi người, mọi nơi trong xã hội ngày nay.
Mở rộng khái niệm di động
Theo thống kê 6 tháng đầu năm 2012 của Bộ TT&TT và Sách trắng 2012 số lượng thuê bao Việt Nam là 120 triệu thuê bao di động. Dân số của Việt Nam gần 88 triệu dân. Nhìn vào những con số này có thể thấy các nhà khai thác tiếp tục mở rộng thị phần di động là khó khăn. Thực tế, năm 2011 và 2012, các nhà khai thác dịch vụ di động Việt Nam gồm cả Viettel, tốc độ phát triển thuê bao chậm, đặc biệt trong năm 2012. Rõ ràng thị trường của Việt Nam đã vào ngưỡng bão hòa, như vậy, Viettel đặt ra bài toán phải tiếp tục phát triển kinh doanh, mở rộng thị phần, tăng doanh thu, theo đó, Viettel mở rộng khái niệm thuê bao di động nhưng trên cơ sở phát triển các ứng dụng mới.
Ông Hoàng Sơn, Giám đốc Công ty Viễn thông Viettel cho biết ngành nên mở rộng khái niệm về thuê bao di động dựa trên phát triển ứng dụng CNTT, các ứng dụng mới. Tại sao phải mở rộng khái niệm thuê bao di động?
Theo ông Sơn vào năm 2000, người sử dụng di động chủ yếu là khối doanh nghiệp vì chi phí đầu cuối, cước phí sử dụng dịch vụ di động cao. Đến nay, Việt Nam là một trong những thị trường phát triển di động nhanh trên thế giới. Từ thành thị đến nông thôn hiện nay việc sở hữu một chiếc điện thoại di động hết sức phổ cập.
Thuê bao thông thường hiện nay sử dụng dữ liệu, thoại, nhắn tin. Ví dụ, một thuê bao phát sinh cước hàng tháng từ 100.000 - 150.000 đồng thì nay Viettel cung cấp giải pháp, dịch vụ mới dựa trên nhu cầu của khách hàng muốn có thêm dịch vụ như dịch vụ quản lý con đến trường gồm có thông tin điểm số, nhận xét của cô giáo, liên hệ học sinh phụ huynh, cô giáo… và dịch vụ này phát sinh thêm cước 50.000 đồng nữa. Với chi phí chấp nhận được, thuận lợi cho người sử dụng, những thuê bao sử dụng thêm dịch vụ này có thể định nghĩa là thuê bao mới. Thứ hai, những thuê bao thuần, không nhắn tin, gọi điện thoại nhưng là phương tiện để kết nối liên lạc, ví dụ, phát triển hệ thống quản lý giao thông, SIM dịch vụ không phát sinh thoại, nhắn tin nhưng là phương tiện kết nối liên lạc giao thông. Đây cũng được tính đến là một thuê bao mới.
Khai thác giá trị của 3G
3G chính thức có mặt tại Việt Nam vào cuối năm 2009, kể từ đó dịch vụ này đã có sự phát triển nổi bật và luôn giữ được đà tăng trưởng mạnh. Doanh thu có được từ dịch vụ này cũng vì thế ngày một tăng cao. Theo thống kê gần đây của Bộ TT&TT, Việt Nam hiện đang có 16 triệu thuê bao 3G, chiếm 15% tổng dân số quốc gia. Tỉ lệ sử dụng 3G của người tiêu dùng trong nước hiện đang theo kịp với xu thế thị trường nói chung, đặc biệt là khi so sánh tỉ lệ này của Việt Nam với một vài quốc gia trong khu vực, nơi đã triển khai công nghệ 3G trước đó như Philippine hay Indonesia.
Nghiên cứu của Ericsson ConsumerLab dự đoán rằng trong vòng 6 tháng tới, tỉ lệ người sử dụng smartphone tại Việt Nam sẽ tăng trưởng từ 16% lên 21%; trong cùng khoảng thời gian đó, tỉ lệ người dùng máy tính bảng tăng từ 2% lên 5%. Tốc độ tăng trưởng nhanh chóng trong việc sử dụng smarphone và máy tính bảng tại Việt Nam đang và sẽ tạo tiền đề phát triển đầy tiềm năng cho ngành kinh doanh dịch vụ 3G trong nước.
Để có thể khai thác toàn diện tiềm năng đó, việc tập trung triển khai và mở rộng mô hình mạng 5 “S” theo Ericsson là vô cùng quan trọng, trong đó:
Smart networks - Thông minh: cho phép các nhà mạng trở thành các “Ống dẫn thông minh” (Smartpipe) - mang đến chất lượng dịch vụ khác biệt với các gói dịch vụ có chi phí linh hoạt để từ đó tối đa hóa doanh thu.
Simple networks - Đơn giản: giúp các nhà mạng giảm chi phí vận hành bằng việc đơn giản hóa kiến trúc mạng và tối đa hóa chất lượng mạng và lưu lượng truyền tải.
Scalable networks - Có thể mở rộng: cho phép khả năng mở rộng mạng lưới liên tục mà vẫn tiết kiêm chi phí. Đảm bảo mạng lưới phủ sóng có vai trò quan trọng đến sự thành công của dịch vụ 3G, vì khách hàng luôn mong muốn sẽ nhận được kết nối Internet di động ở “bất cứ đâu” và vào “bất kỳ thời điểm nào”.
Superior networks - Ưu việt: đảm bảo khả năng vận hành mạng đầu cuối (cho đến người sử dụng cuối) luôn đạt được chất lượng tốt nhất, góp phần xây dựng hình ảnh nhà cung cấp có uy tín, củng cố thương hiệu và tạo điểm khác biệt, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường một cách có ý nghĩa và bền vững.
Secure networks - Bảo mật: Như đúng tên gọi của nó, các nhà mạng phải đảm bảo rằng mạng lưới họ cung cấp luôn được an toàn khỏi những đe doạ bên ngoài, các thông tin trao đổi trên đó phải có tính bảo mật cao.
Ericsson cũng cho rằng sự phổ cập smartphone với giá thành hợp lý đi kèm với các gói dịch vụ 3G sáng tạo, dịch vụ dữ liệu và ứng dụng có tính chất địa phương sẽ là những yếu tố kiên quyết giúp kinh doanh 3G phát triển mạnh và bền vững.
Phó Tổng Giám đốc Ericsson Việt Nam, Lào và Campuchia Denis Brunetti chia sẻ: “Mạng di động luôn đóng vai trò trung tâm trong tầm nhìn “Xã hội kết nối” (Networked Society) mà Ericsson đang phát triển tại Việt Nam trong hai năm qua. Để có thể hiện thực hóa được những lợi ích của “Xã hội kết nối” và tối đa hóa tiềm năng của 3G tại Việt Nam, các nhà mạng trong nước cần tiếp tục giải quyết 5 yếu tố “S”.
Cũng với mong muốn để 3G giành thắng lợi, ông Mike Mc Donald, Giám đốc Công nghệ khu vực Đông Nam Á của Huawei cho biết cần phải có sự hợp lực của “thiết bị đầu cuối, hạ tầng mạng viễn thông và điện toán đám mây”. Các thiết bị thông minh không chỉ có điện thoại, máy tính bảng và máy xách tay mà còn là M2M (Machine-to-Machine). Hạ tầng mạng là ứng dụng công suất mạng siêu cao nhận biết mạng với độ bao phủ mọi nơi. Và Đám mây là các ứng dụng không nhận biết thiết bị sáng tạo sẽ thúc đẩy hơn nữa sự cộng tác xã hội.
Chuyển mạng giữ số để nhà mạng cạnh tranh chất lượng
Theo ông Tom Kershaw, Phó Tổng giám đốc Telecordia Technologies, công ty vừa được Ericsson mua lại, cho biết giải pháp “Chuyển mạng giữ số (MNP) sẽ rỡ bỏ rào cản cạnh tranh giả tạo và cho phép các nhà mạng cạnh tranh dựa trên chất lượng và sáng tạo; Giúp giảm ARPU do hiện tượng đa SIM; nhiều nhà mạng tăng trưởng sau khi MNP được triển khai và trong khoảng thời gian 2 năm, các mạng quốc gia sẽ bùng nổ, hiện đại và sẵn sàng cho tăng trưởng.
Việt Nam triển khai hệ thống MNP tại thời điểm này là “rất đúng lúc”. Công nghệ này hiện đã ổn định và chín muồi trên thế giới, nhiều nước đã triển khai thành công và có nhiều bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể áp dụng, ông Tom Kershaw phân tích. Chẳng hạn như Ấn Độ, một quốc gia Nam Á đã thực hiện chuyển mạng thành công cho một thị trường có tới 850 triệu thuê bao, sẽ tăng lên 1,1 tỷ thuê bao vào năm 2015 và 14 nhà khai thác ở 22 khu vực riêng rẽ. Cục Viễn thông của nước này đã quyết định chia Ấn Độ thành hai khu vực để triển khai MNP theo quyết định được ban hành vào năm 2009, hoạt động vào ngày 20/1/2011. Tổng chi phí ước tính là 250 triệu USD. “Trên thực tế, Ấn Độ có hệ thống chuyển mạng giữ số lớn nhất thế giới và họ đã thành công”, ông Tom Kershaw cho biết.
Nhiều chuyên gia tại Hội nghị cho rằng công nghệ MNP không còn là rào cản mà quy hoạch phù hợp mới là chìa khóa quan trọng. Tuy nhiên, việc chuyển mạng giữ số cần phải có vài năm để xây dựng kế hoạch hợp lý, khi triển khai thực tế sẽ đạt kết quả tốt hơn.
![]() |
Bản đồ chuyển mạng giữ số trên thế giới của Telecordia |
“Việc triển khai MNP không phải chuyện bất khả thi. Vấn đề chỉ nằm ở thời gian: đâu là thời điểm phù hợp và cách triển khai như thế nào. Thực tế vẫn có khoảng 5 - 6 nước triển khai mỗi năm. Một số nước mất một tháng mới có thể chuyển mạng giữ số, nhưng tại Mỹ, dịch vụ này chỉ mất đúng một giờ", ông Tom Kershaw nói thêm.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam cần xây dựng một trung tâm dữ liệu tập trung. Kho số chung quốc gia là một tài nguyên quốc gia rất quan trọng và cần có một hệ thống mới để quản lý. Lý tưởng nhất là do bên thứ ba quản lý để có thể thúc đẩy và điều phối các nhà khai thác công bằng, hiệu quả. Việt Nam cũng cần xem xét thiết kế nội dung và thương mại để hướng tới các ứng dụng và tính năng mới.
6 logic kinh doanh gia tăng giá trị cho băng rộng di động
Trong đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB) năm 2009, băng rộng di động có tác động mạnh mẽ vào kinh tế - xã hội của toàn cầu và của các nước. Nếu có 10% dân số truy cập băng rộng thì tương đương 1,21% tăng trưởng GDP với các nước đang phát triển và 1,38% GDP với các nước đang phát triển.
Cục trưởng Cục Tần số Vô tuyến điện, Bộ TT&TT Đoàn Quang Hoan cho biết việc phát triển băng rộng không chỉ là phát triển hạ tầng mà phải quan tâm đến các dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ nội dung số.
Trong khi đó, Ericsson gợi ý 6 logic kinh doanh giúp các nhà mạng gia tăng giá trị cho dịch vụ băng rộng di động, thông qua việc giảm thiểu các thuê bao ngưng sử dụng dịch vụ, cải thiện APRU, thúc đẩy khả năng thâm nhập thị trường, mang đến các giá trị gia tăng ngoài việc cung cấp kết nối và đảm bảo doanh thu dài hạn.
Ericsson đang triển khai chiến dịch UNPLUG! với các khách hàng trên toàn thế giới để chia sẻ sâu hơn 6 logic kinh doanh này. “Unplug” không có nghĩa chúng ta phải phá bỏ các nguyên lý cơ bản mà nó cần được hiểu là theo nghĩa vượt qua những cách tiếp cận thông thường, phá vỡ tư duy cũ hay những lối mòn trong suy nghĩ. Chúng ta nên nhìn nhận “Unplug” như là một khái niệm để chỉ sự khơi dậy những ý tưởng sáng tạo, mở ra các khả năng kinh doanh tiềm tàng và phát huy tối đa giá trị những tài sản chúng ta vốn có.
![]() |
6 logic UNPLUG của Ericsson |
Theo cách tiếp cận của Ericsson, “Unplug” bao gồm 6 logic cơ bản:
The Incentivist - Logic về sự “khuyến khích”: Đây là logic về việc đưa ra những ý tưởng để tạo ra những chương trình khuyến mại có thể áp dụng đối với việc kinh doanh di động băng rộng, theo đó, nguyên lý cơ bản đó là người sử dụng sẽ càng được lợi và được ưu tiên nếu họ sử dụng dịch vụ ngày càng nhiều
The here and now - Logic về tính thời điểm: Logic này gợi ý các nhà mạng về việc dự đóan những trường hợp mà ở đó người sử dụng có nhu cầu sử dụng dịch vụ cao hơn so với bình thường và dựa vào đó, tạo ra những gói cước ngắn hạn, phù hợp theo nhu cầu của họ tại thời điểm đó với mức giá thành hợp lý.
The one-trick pony - Logic về sự tập trung: Dựa vào logic này, thay vì đưa ra nhiều lựa chọn khác nhau cho tất cả đối tượng người sử dụng trong cùng một gói cước, các nhà mạng cần tìm hiểu kỹ hơn nhu cầu sử dụng của từng đối tượng khách hàng và chỉ tập trung phát triển các gói cước phù hợp với nhu cầu thực tế của họ.
The add - on - Logic về giá trị gia tăng: Chúng ta cần nghĩ đến việc tạo ra các giá trị “thêm”, đưa ra gói dịch vụ “all-in-one” cho phép dùng chung và kết nối tất cả các thiết bị khách hàng theo tiêu chuẩn của gói dịch vụ đó.
The management - Logic về hiệu quả quản lý: Logic đề cập đến việc sử dụng dịch vụ di động băng rộng cho hoạt động quản lý kinh doanh với việc sử dụng những gói dịch vụ dành riêng cho các doanh nghiệp nhằm mục đích giúp các công việc điều hành, quản lý và hậu cần của họ trở nên dễ dàng, tiết kiệm và thông minh hơn
The Invisible: Các nhà mạng nên hướng đến việc mang đến sự kết nối liên tục bằng việc tích hợp dịch vụ di động băng rộng vào các thiết bị mà ở đó người sử dụng không bị bắt buộc phải đăng ký sử dụng di động băng rộng, thay vì thế tiêu dùng nó như một chức năng “sẵn có” trong thiết bị.
Thị trường Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của việc sử dụng dịch vụ dữ liệu di động cho điện thoại thông minh, máy tính bảng và các thiết bị kết nối thông minh khác. Sự phát triển này là một tín hiệu mừng đối với một thị trường đang dần trở nên ngày một bão hòa với các dịch vụ thoại cơ bản khi các nhà mạng trong nước có thể xây dựng và phát triển các dịch vụ dữ liệu di động. Cánh cửa kinh doanh mở ra cho tất cả những nhà kinh doanh dịch vụ viễn thông và người chiến thắng là người có những phương thức kinh doanh mới, tạo ra những giá trị sử dụng thích hợp nhưng khác biệt và ưu việt cho người tiêu dùng dịch vụ của họ.
Di động đang thay đổi nền kinh tế
Vừa qua, Gangnam Style - màn trình diễn của ca sỹ Hàn Quốc Park Jae Sang sẽ chẳng thể nào trở thành hiện tượng âm nhạc khiến cả thế giới “choáng váng” nếu không có sự hỗ trợ đắc lực từ truyền thông xã hội.
“Nhưng điều đáng chú ý là Mỹ là quốc gia xem Gangnam style nhiều nhất, sau đó là Anh, Canada, Hàn Quốc. Điều này chứng tỏ truyền thông di động không bó hẹp người dùng ở đâu, thiết bị gì được sử dụng. Trong 1, 2 năm tới tổng lưu lượng trên mạng sẽ tăng đột biến”, ông James T.C Tan, Trưởng bộ phận chiến lược và tìm kiếm di động của Google cho biết.
Tại Việt Nam, giá cước 3G đã rẻ, giá smartphone dưới 4 triệu đồng, sắp tới còn còn rẻ hơn, truy cập trên bất cứ nền tảng nào (platform) nào đã thúc đẩy lưu lượng mạng đáng kể.
Di động (mobile) đang thay đổi nền kinh tế thật, thay đổi thế giới, ông Nguyễn Thế Tân, Phó Tổng giám đốc Công ty Truyền thông cho biết. Lấy ví dụ dễ nhận thấy như nhiều người muốn đi taxi họ không cần phải gọi đến tổng đài điện thoại của công ty taxi để gọi xe nữa mà họ chỉ tìm ứng dụng taxi gần nhất. Điều này tương tự với việc đặt nhà hàng qua ứng dụng. Như vậy các ứng dụng taxi, nhà hàng trở thành chủ của hãng taxi, nhà hàng. Điều này làm thay đổi nền kinh tế thật, đó là doanh thu sẽ đến từ phí tải ứng dụng, phí thuê bao.
Các bên tham gia vào nền kinh tế này có Apple, Google, nhà sản xuất thiết bị Android, các công ty viễn thông, nhà phát triển ứng dụng, nhà cung cấp nội dung, nhà phân phối ứng dụng, cửa hàng ứng dụng, cửa hàng không chính thức, mạng quảng cáo.
Có thể nói tương lai di động Việt Nam cần phải nắm lấy các cơ hội ứng dụng di động đang bùng nổ cũng như hợp tác sâu sắc hơn nữa giữa các công ty khi tham gia vào nền kinh tế di động.
Lan Phương
26 câu chuyện thú vị về công nghệ giờ mới tiết lộ
Submitted by nlphuong on Tue, 27/11/2012 - 07:26(ICTPress) - Công nghệ là một điều tuyệt vời, và những ai đã tiếp cận thường có những thuận lợi. Chúng ta chụp ảnh và chia sẻ tệp JPEG ngay với bạn bè, gia đình vì các hình ảnh sẽ đến ngay người người nhận mà không phải quan tâm JPEG vận hành ra sao và JPEG có ý nghĩa gì.
Chúng ta kinh ngạc trước các trang web mới, đôi khi không rõ làm thế nào mà HTML có thể thúc đẩy. Chúng ta sử dụng Siri, mà không quan tâm tới lệnh thoại chính là một sự tiến hóa của máy ghi tiếng của Alexander Graham Bell. Chúng ta đang bấm phím trên các máy tính xách tay QWERTY và điện thoại thông minh suốt ngày, nhưng tại sao những chữ cái lại được sắp xếp như vậy?
Mashable đã cùng với Outlook.com mang tới cho bạn đọc một cái nhìn toàn diện về công nghệ hàng ngày. Dưới đây có thể đề cập một công nghệ mà bạn có thể đã không biết, và có nhiều công nghệ đến từ đâu - hãy cùng lướt qua các câu chuyện đằng sau những thuật ngữ công nghệ này:
1. Sản phẩm năm 1996 của nhà thiết kế Jonathan Gay là FutureSplash Animator, một phần mềm sau đó trở thành Adobe Flash, hiện là một nền tảng hỗ trợ thế hệ kế tiếp của các công cụ web tương tác, trong đó có HTML5.
2. JavaScript được Brendan Eich tại Netscape sáng tạo lần đầu vào năm 1995, có biệt hiệu Mocha trong khi phát triển và cuối cùng được đặt tên JavaScript vượt trên sự phổ biến của Java (một ngôn ngữ lập trình khác).
3. Năm 2009, Satoshi Nakamoto đã tung ra máy khách Bitcoin đầu tiên và sau đó phổ biến trở thành các Bitcoin đầu tiên.
4. Broadband (băng rộng) được nhiều tiêu chuẩn khác nhau định nghĩa như là khả năng truyền dữ liệu ở tốc độ 1,5 hay 2 Megabit/s (Mbits) - kiểu tốc độ này cần thiết cho định luồng video phân giải cao, chơi game trực tuyến và gửi và nhận một khối lượng lớn dữ liệu.
5. Siri, bạn có biết lịch sử của lệnh thoại (voice command)? Ngược lại những năm 1870, Thomas Edison đã phát minh ra máy quay đĩa, và Alexander Graham Bell và hai cộng sự nghiên cứu một máy ghi âm thanh “dictaphone”.
6. Thành viên nhóm công tác công nghệ ứng dụng Web HyperText (WHAT) là Ian Hickson đã viết và đưa ra bản soạn thảo HTML5 đầu tiên vào năm 2008.
7. Vệ tinh GPS đầu tiên được khai trương vào năm 1978, và một loạt 24 vệ tinh đã vận hành vào năm 1995.
![]() |
8. Steve Wilhite của Compuserve đã công bố GIF vào tháng 6/1987. Nhưng ông đã không được nhìn thấy điều này.
9. Phillip Katz đã phát minh ra ZIP file vào năm 1986, và lần đầu tiên được triển khai với chương trình PKZip cho công ty của Katz, công ty PKWare.
![]() |
10. Emoticons (các biểu tượng cảm xúc) lần đầu tiên được Scott Fahlman, một nhà khoa học máy tính tại Đại học Carnegie Mellon, sử dụng vào ngày 19/9/1982. Scott Fahlman đã sáng tạo một khuôn mặt cười và một khuôn mặt khóc bằng một dấu hai chấm, một dấu nối và dấu ngoặc đơn.
11. Các bàn phím QWERTY được Christopher Sholes, người sáng tạo ra máy chữ, thiết kế vào năm 1868. Tuy nhiên, các sắp đặt bàn phím khác, như Dvorak và Capewell, có rất nhiều.
![]() |
12. Khi tham gia vào các trò chơi trực tuyến nhiều người chơi rộng lớn Massive Multiplayer Online Role-Playing Games (MMORPGS), thế giới của Warcraft là trò chơi hàng đầu. Trò chơi này đã có hơn 10 triệu người chơi kích hoạt và tạo ra hàng tỷ USD về doanh thu cho người sở hữu Activision Blizzard kể từ khai khai trương vào cuối năm 2008.
13. IBM Simon là chiếc điện thoại đầu tiên với một màn hình cảm biến, được tung ra vào năm 1992. Nó được xem như là “smartphone” đầu tiên mặc dù thuật ngữ đã chưa được hình thành.
14. Các ngôn ngữ Style sheet đã tồn tại kể từ những năm 1980, nhưng việc chuẩn hóa và triển khai các style sheet cuộn, hay CSS vào năm 1996 được xem như là một trong những ngôn ngữ tiến hóa cho phát triển web.
15. Bluetooth được đặt tên theo một vị vua Đan Mạch, người đã thống nhất các vùng lãnh thổ khác nhau.
16. TCP/IP – cho phép các máy tính kết nối lẫn nhau và dành cho các ứng dụng để gửi dữ liệu đi và về - ban đầu được Vint Cerf và Bob Kahn phát triển, trong khi có hợp đồng hợp Bộ quốc phòng Mỹ.
17. Comic Sans đã được nhà thiết kế font trước đây của Microsoft Vincent Connare, người dã sáng tạo ra các font nổi tiếng khác như Trebuchet và một số font Wingdings, thiết kế.
![]() |
18. Theodore George Paraskevakos đã lấy bằng sáng chế cho khái niệm điện thoại thông minh (smartphone) cơ bản vào năm 1974.
19. Tiềm năng của MP3 được hiện thực hóa khi một bài hát capella “Tom’s Diner” của Suzanne Vega [Spotify link] có thể được mã hóa, nén và tua lại mà không cần phải vặn vẹo giọng nói của Vega, kỹ sư âm thanh Karlheinz Brandenberg cho biết.
20. Wi-Fi không viết tắt của điều gì - đây là 1 trong 10 lựa chọn tên thương hiệu từ công ty tư vấn Interbrand.
![]() |
21. Hơn 3 tỷ sản phẩm USB được xuất xưởng mỗi năm.
22. Chuột máy tính đầu tiên làm bằng gỗ.
23. JPEG viết tắt của Joint Photographic Experts Group, nhóm chuyên gia phát triển chuẩn JPEG.
24. Nhắn tin văn bản (Text Messaging), hay SMS, đã được Friedhelm Hillebrand và Bernard Ghillebaert phát triển ở công ty Franco-German GSM vào năm 1984.
![]() |
25. Morton Heilig, cha đẻ của công nghệ ảo thực, đã lấy bằng sáng chế cho máy mô phỏng Sensorama vào ngày 28/8/1962. Công nghệ này đã phát triển thành công nghệ tương tác thời gian thực (augmented reality)
26. Vào năm 1910, Nathaniel Baldwin đã phát minh ra tai nghe trong bếp của nhà mình ở Utah.
Quang Minh
Tại sao ĐTDĐ thúc đẩy các nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn
Submitted by nlphuong on Mon, 26/11/2012 - 07:51(ICTPress) - Các nghiên cứu đã tiếp tục chứng minh mạng điện thoại di động (ĐTDĐ) giúp các nền kinh tế tăng trưởng. Và đó không chỉ là bởi vì con người xây dựng mạng lưới và bán điện thoại.
Bằng cách tăng luồng thông tin, ĐTDĐ làm tăng hiệu suất và hiệu quả và mở ra các thị trường mới và các hình thức kinh doanh mới cho các nền kinh tế.
Nghiên cứu chứng minh cho thấy việc tăng cường truy cập Internet di động cũng sẽ tạo động lực cho các nền kinh tế. Một nghiên cứu gần đây đã nghiên cứu tác động của các kết nối dữ liệu di động 3G nhanh hơn so với các kết nối 2G chậm hơn. Nghiên cứu được nhóm thương mại di động của Hiệp hội di động GSM, Deloitte và Cisco tiến hành đã khảo sát 96 thị trường phát triển và đang phát triển từ 2008 đến 2011. Khi một thị trường đạt một sự chuyển đổi 10% từ 2G lên 3G, GDP trên tăng trưởng theo đầu người tăng trung bình 0,15%. Một nhánh nghiên cứu riêng đối với 14 nước từ 2005 đến 2010 cho thấy việc sử dụng dữ liệu di động gấp đôi sẽ làm tăng 0,5%/tăng trưởng theo đầu người.
![]() |
Tác động của việc tăng 10% thâm nhập di động đối với hiệu suất. Việc thâm nhập di động của Việt Nam đạt 35% thì hiệu suất tăng khoảng 2,5% (Nguồn: Deloitte analysis) |
Các nước có mức độ sử dụng dữ liệu trên mỗi kết nối 3G cao hơn như Nga, Hàn Quốc và Anh đã cho thấy GDP tăng trên tăng trưởng theo đầu người ít nhất là 1%. Ấn Độ là nước thấp nhất trên thang đánh giá vì không có phần trăm tăng trưởng từ việc sử dụng 3G, vì nước này bắt đầu triển khai 3G vào năm 2011 sau nhiều năm mắc kẹt.
Hiện toàn cầu có 1 tỷ thuê bao ĐTDĐ 3G, chiếm 18% số người sử dụng ĐTDĐ, tăng hơn 1/3 trong năm 2011.
Thực tế cho thấy việc tăng sử dụng dữ liệu băng rộng di động tốc độ cao dẫn tới trung bình thu nhập theo đầu người lớn hơn đòi hỏi việc cần thiết tăng đầu tư vào mạng di động cũng như các chính sách của chính phủ để tăng đầu tư trong đó có phân bổ phổ tần bổ sung, TS. Robert Pepper, Phó Chủ tịch phụ trách chính sách công nghệ toàn cầu tại Cisco cho biết.
QM
10 “chiêu” ứng dụng hiệu quả Facebook cho hoạt động kinh doanh và xây dựng thương hiệu
Submitted by nlphuong on Fri, 23/11/2012 - 07:05(ICTPress) - Tính tới 24/10/2012, số người dùng Facebook tại Việt Nam đã lên tới 9.117.480 người, tăng 5.479.000 người dùng trong vòng 6 tháng vừa qua. Trung bình 1 ngày, Facebook có thêm hơn 30.000 người Việt Nam tham gia mạng xã hội này.
![]() |
Độ tuổi tham gia nhiều nhất và có tốc độ tăng nhanh nhất thuộc hai nhóm từ 18 - 24 và 25 - 34 tuổi, là hai nhóm người tiêu dùng có nhu cầu cao và khả năng chi trả tốt.
![]() |
Tăng trưởng người sử dụng Facebook và nhân khẩu học đối với Việt Nam |
![]() |
Tăng trưởng sử dụng Facebook ở Việt Nam theo độ tuổi |
Các mạng xã hội khác Linked, Twitter, Google+, Pinterest cũng có lượng người dùng trên thế giới tăng vọt và đang tác động lớn tới người dùng Internet tại Mỹ. Tuy vậy, tại Việt Nam các mạng xã hội này tác động không đáng kể.
Theo các kết quả nghiên cứu, Facebook hiện đã tạo nên một mạng kết nối bạn bè quan trọng: 60% số việc làm tìm thấy thông qua bạn bè, 90% số người được hỏi cho biết tin tưởng bạn bè hơn các bình luận của các chuyên gia.
Nghiên cứu của Comscore về 1000 thương hiệu đứng đầu cho thấy trung bình số lượng bạn bè của người hâm mộ trên trang fanpage lớn gấp 81 lần số lượng khách hàng của 1 thương hiệu.
Với những dữ liệu thuận lợi này, ông Huỳnh Kim Tước, Giám đốc phát triển và hoạch định chính sách của Facebook Việt Nam tại Hội nghị định Tiếp thị trực tuyến thường niên 2012 vừa được Tập đoàn Truyền thông và Công nghệ Nova và Báo Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức đã chia sẻ 10 đề xuất ứng dụng hiệu quả Facebook cho hoạt động kinh doanh và xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp:
- Sau khi tạo ra trang Facebook nên viết những nội dung ngắn gọn trong vòng 3 dòng từ 100 và 250 ký tự sẽ có tỷ lệ người xem và người thích hơn 60% so với nội dung có nhiều hơn 250 ký tự.
-
Đăng những hỉnh ảnh và video cụ thể vì theo thống kê Facebook khi đưa hình ảnh lên số lượng tương tác tăng lên 100%, 120% và 180% và càng thú vị khi có lời chú thích cuối.
-
Nên đưa thông tin thường xuyên để tạo sự kết nối lâu dài, nhấn mạnh vào sự kiện cần gây chú ý.
-
Nên hỏi ý kiến của người hâm mộ (fan), tạo nên những cuộc hội thoại, sự kết nối và đồng thời cũng tìm kiếm sự đóng góp ý kiến của họ về dịch vụ, sản phẩm của bạn. Triết lý của Facebook về chiến dịch quảng bá không nên đưa chiến dịch xây chung quanh sản phẩm mà xây dựng xung quanh con người (social), tìm hiểu vì sao khách hàng quan tâm tới sản phẩm. Ví dụ, có khách hàng quan tâm máy tính nhưng chưa chắc quan tâm Levono, mà lại quan tâm Sony… nên khi người đó thích Sony thì doanh nghiệp cần đưa quảng cáo Sony. Nói tóm lại, cần hỏi fan của mình.
-
Đặt câu hỏi, những khảo sát với những lựa chọn, để họ có thể chỉ cần 1 nhấn chuột đã cho bạn kết quả khảo sát.
-
Để họ tham gia vào bài viết của bạn với dạng điền tiếp vào chỗ trống là một cách rất hiệu quả, tới hơn 90% số người tham gia so với việc đăng bài bình thường.
-
Dành cho người hâm một trên Facebook của bạn những độc quyền thông tin riêng như: những thông tin phía sau.
-
Dành cho họ những ưu đãi đặc biệt khi họ là thành viên trang của bạn: chương trình khuyến mãi, phân phối mã phiếu giảm giá…
-
Đặc biệt lưu ý cập nhật thông tin đề cập chủ đề của những ngày lễ, kỷ niệm, dịp đặc biệt, thống kê cho thấy chủ đề nói đến ngày 2/9 thu hút được hơn 90% quan tâm so với các chủ đề khác.
-
Có sự tập trung bài viết đến đối tượng cụ thể.
Một điểm nữa mà ông Tước cho rằng các doanh nghiệp trước khi định làm lớn có thể tận dụng Facebook thăm dò khả năng ban đầu nhờ việc xây dựng fanpage. Với fanpage mọi cá nhân và doanh nghiệp không tốn đồng nào và chỉ mất có 5 phút để tạo được một trang fanpage. Khi doanh nghiệp đã phát triển cần quảng bá sản phẩm thương hiệu chuyên nghiệp hơn nữa thì Facebook có những trang cao cấp hơn, nhiều chức năng thương mại thậm chí có thể thực hiện thanh toán thì lúc đó Facebook mới tính tiền.
Không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp mà ngay một người bình thường như sinh viên, nhân viên văn phòng nếu bỗng dưng có ý tưởng về một sản phẩm cũng có thể tận dụng Facebook. Nhờ Facebook họ có thể thăm dò hỏi ý kiến bạn bè. Bạn bè, người thân của bạn có thể nhanh chóng bình luận ý tưởng của bạn. Nếu bạn bè ủng hộ nhiều, bạn có thể quyết định tiếp tục phát triển ý tưởng.
Minh Anh
Hiểm họa khi trình duyệt không được cập nhật
Submitted by nlphuong on Thu, 22/11/2012 - 14:15(ICTPress) - Kết quả nghiên cứu của Kaspersky Lab cho thấy khi một phiên bản mới của trình duyệt được phát hành, phải mất hơn một tháng thì hầu hết người dùng mới nâng cấp trình duyệt mình đang sử dụng. 23% người dùng đã không cài đặt phiên bản mới nhất của trình duyệt web mà họ sử dụng. Việc sử dụng phần mềm không được cập nhật trở nên phổ biến và có khả năng gây mất an toàn thông tin cho chính người dùng.
![]() |
Trình duyệt web là phần mềm được sử dụng rộng rãi nhất và được cài đặt hầu hết trên các máy tính. Phần lớn các cuộc tấn công mạng hiện nay đều thông qua các lỗ hỗng bảo mật trong các ứng dụng trình duyệt hoặc chức năng plug-in trong trình duyệt. Chính vì thế, việc nâng cấp trình duyệt web với các bản sửa lỗi bảo mật và các tính năng bảo vệ mới là vô cùng quan trọng đối với người dùng. Sử dụng dữ liệu vô danh được thu thập từ đám mây của Kaspersky Security Network, Kaspersky Lab đã tiến hành phân tích các mẫu trình duyệt web được hàng triệu khách hàng trên thế giới sử dụng và đã khám phá được một số vấn đề đáng báo động.
23% người dùng vẫn sử dụng các trình duyệt web cũ hoặc không được cập nhật đã tạo ra một khoản cách lớn trong vấn đề bảo mật trực tuyến: 14,5% người dùng vẫn sử dụng các trình web cũ, 8,5% vẫn sử dụng trình duyệt web không được cập nhật.
77% khách hàng của Kaspersky Lab sử dụng trình duyệt đã được cập nhật (phiên bản mới nhất hoặc phiên bản đang được thử nghiệm).
Khi một phiên bản mới của trình duyệt được phát hành, phải mất ít nhất là một tháng để người sử dụng thực hiện việc nâng cấp. Trong khi đó, tội phạm mạng có thể tiến hành khai thác thông qua các lỗ hỗng trình duyệt web chỉ trong vài giờ.
Trong số 5 trình duyệt web thông dụng nhất, tỷ lệ người sử dụng các trình duyệt này được Kaspersky Lab thống kê như sau: Internet Explorer là trình duyệt phổ biến nhất (37,8%), tiếp theo là Google Chrome (36,5%); Firefox chiếm vị trí thứ 3 với 19,5%; Tỷ lệ người dùng cài đặt các phiên bản mới nhất: Internet Explorer chiếm 80,2%; Chrome chiếm 79,2%, Opera chiếm 78,1%; Firefox chiếm 66,1%; Thời gian chuyển tiếp cần thiết cho đa số người dùng chuyển sang phiên bản mới nhất: Chrome -32 ngày, Opera -30 ngày, Firefox-27 ngày.
![]() |
Biểu đồ tỷ lệ người sử dụng 5 trình duyệt phổ biến nhất |
Một phát hiện quan trọng khác của cuộc khảo sát là các phiên bản đặc biệt của trình duyệt web được hầu hết các khách hàng của Kaspersky Lab sử dụng thường xuyên. Số liệu thống kê của Kaspersky Lab cho thấy rằng 23% người dùng đã không cài đặt phiên bản mới nhất của trình duyệt web mà họ sử dụng. Trong số 23% này, gần 2/3 người (chiếm 14,5%) sử dụng các phiên bản cũ và 8,5% còn lại sử dụng phiên bản không được cập nhật. Điều đó có nghĩa là trong 10 người sử dụng sẽ có 1 người sử dụng trình duyệt không được cập nhật để kiểm tra tài khoản ngân hàng và thông tin cá nhân.
Ví dụ đáng chú ý nhất của các trình duyệt lỗi thời là Internet Explorer 6 và 7 chiếm tới 3,9 % thị phần tương đương với hàng trăm ngàn người dùng trên toàn thế giới. Kể từ khi ba trình duyệt (Opera, Chrome và Firefox) được cập nhật chỉ trong một thời gian ngắn trước tháng 8 năm 2012, tốc độ cập nhật của 3 trình duyệt này đã được tính toán là số ngày cần thiết cho các phiên bản trình duyệt mới đạt được thị phần tương tự như các phiên bản trước. Phải mất từ 5 đến 9 ngày cho một phiên bản mới vượt qua thị phần của phiên bản cũ và phải mất 1 tháng để đa số người dùng chuyển sang sử dụng phiên bản mới.
Khảo sát hoạt động của người dùng đã cho thấy trong khi đa số người sử dụng Internet siêng năng cập nhật trình duyệt web thì vẫn còn hàng chục triệu người dùng không cập nhật trình duyệt cũng như các ứng dụng quan trọng.
Mặc dù báo cáo này chủ yếu bao gồm các dữ liệu của người dùng cá nhân nhưng các công ty cũng nên dành sự chú ý đặc biệt về kết quả nghiên cứu này. Trong khi người dùng cá nhân có nhiều tự do hơn để cập nhật những phần mềm đã cài đặt như trình duyệt web nhân viên trong các doanh nghiệp thường bị giới hạn trong việc cập nhật các phiên bản phần mềm mới nhất. Do đó, việc sử dụng phần mềm không được cập nhật trở nên phổ biến và có khả năng gây nguy hiểm trong môi trường kinh doanh.
Andrey Efremov, Giám đốc nghiên cứu cơ sở hạ tầng đám mây và Whitelist của Kaspersky Lab cho biết: “Nghiên cứu mới của chúng tôi đã cho thấy một bức tranh đáng báo động. Trong khi hầu hết người dùng thực hiện chuyển đổi phiên bản trình duyệt mới nhất trong một tháng thì vẫn còn khoảng ¼ người dùng không thực hiện việc cập nhật này. Điều này đồng nghĩa hàng triệu máy tính có khả năng bị các phần mềm độc hại mới và nổi tiếng tấn công. Đây là bằng chứng mạnh mẽ về nhu cầu cấp thiết cần có các phần mềm bảo mật thích hợp có khả năng phản ứng với các mối đe dọa mới trong vài phút chứ không phải là vài ngày hoặc thậm chí là cả tuần”.
Minh Thiện
JavaScript là tương lai của lập trình?
Submitted by nlphuong on Thu, 22/11/2012 - 07:15(ICTPress) - JavaScript là một ngôn ngữ lập trình để làm trang web tương tác. Các slideshow, pop-up quảng cáo và tính năng tự động hoàn toàn của Google là tất cả các ví dụ của JavaScript trong công việc.
![]() |
JavaScript lần đầu được Brendan Eich sáng tạo tại Netscape vào năm 1995 - có tên là Mocha trong giai đoạn phát triển, được tung ra ở dạng beta với tên LiveScript và cuối cùng được đặt tên JavaScript để phổ biến Java (một ngôn ngữ lập trình khác) vì các mục đích tiếp thị.
Đầu tiên, các nhà phát triển đã không coi trọng JavaScript, bởi vì ngôn ngữ này không được xem như là một ngôn ngữ nghiêm túc như Java, Ruby hay Python, là những ngôn ngữ phía server. JavaScript đã là lớp phủ kem trên chiếc bánh, chỉ chịu trách nhiệm trải nghiệm người dùng. Nhưng ngôn ngữ này tiếp tục trở nên mạnh mẽ hơn, thường được khuyến nghị như là ngôn ngữ đầu tiên dành cho người mới bắt đầu. Nếu bạn sử dụng JavaScript với một khung được gọi là Node.js, bạn nay có thể thực sự sử dụng JavaScript như là một ngôn ngữ phía server.
Tại sao JavaScript được sử dụng rộng rãi?
JavaScript là ngôn ngữ lập trình phía client (máy khách) duy nhất. Do đó, đang được sử dụng trên hầu hết các trang web. Đây là một trong những lý do tại sao Codecademy tung ra JavaScript như là ngôn ngữ đầu tiên dành cho người sử dụng để học tập. Không giống như các ngôn ngữ truyền thống có thể được dạy tại khoa máy tính ở trường đại học, JavaScript hoàn toàn được sử dụng trong công việc nếu ai đó bắt đầu làm việc như là một người phát triển web.
Cũng kể từ khi JavaScript chạy trên một trình duyệt, bạn không cần phải tải phần mềm về để sử dụng nữa. Tất cả thứ bạn muốn là một biên tập văn bản (chẳng hạn như TextWrangler hay TextEdit) và một trình duyệt. Đây là một lợi ích rõ ràng cho các lập trình viên mới vào nghề.
Mặc dù có sự tiện ích, các lập trình viên không xem JavaScript là một ngôn ngữ hoàn hảo - mà nó khá rắc rối. CoffeeScript là một nỗ lực để thay đổi điều này - nó làm cho JavaScript giống như Ruby hay Python nhiều hơn bằng cách từ bỏ các dấu ngoặc móc và chấm phẩy và bổ sung khoảng trắng và các thụt lề. Những thay đổi này là cho code đọc được dễ dàng hơn, dù bạn quay lại mã cũ và cố gắng ghi nhớ những gì đã làm hay làm trong một dự án với một lập trình viên khác.
JavaScript có thể làm gì?
Đầu tiên, như đề cập trên đây, JavaScript có thể được sử dụng để xây dựng toàn bộ một trang nếu được sử dụng với Node.js và MongoDB (một cơ sở dữ liệu). Node.js là không đồng bộ, và điều này làm tăng quy mô và rất phù hợp cho tất cả dữ liệu lớn ra ngoài. Ví dụ, một nhà phát triển tìm thấy gửi 600 thư điện tử với Node.js chỉ mất 3 giây, và mất 30 giây với PHP. MongoDB là một cơ sở dữ liệu hướng văn bản được xây dựng quy mô những vẫn thiếu chức năng để mang lại sự tốt nhất cho cả hai thế giới.
JavaScript hiện là một trong những cách được ưa chuộng để phát triển các ứng dụng cho giao diện người sử dụng (UI) mới của Windows 8. Đây là ngôn ngữ hàng đầu được sử dụng trên Github. Rất nhiều trang được xây dựng nhờ Node, trong đó có Klout, Storify và Yammer. Do có thể sử dụng chung ngôn ngữ phía trước và sau đã làm cho các đội phát triển dễ dàng hơn nhiều.
Riêng về mình JavaScript chịu trách nhiệm về các hoạt ảnh như các cửa sổ pop-up và với AJAX, các trang này đã cho thấy dữ liệu mới mà không cần một làm mới (refresh) trang. Một ví dụ của AJAX hoạt động ở đây là chúng ta xem khi nào bạn bấm vào một hình ảnh, URL và màn hình thay đổi mà không cần làm mới toàn bộ trang. AJAX là chữ viết tắt của Asynchronous JavaScript And Xml, do đó nó không thể được sử dụng tách rời khỏi JavaScript.
JavaScript là ngôn ngữ của tương lai?
HTML5 được cho là cuối cùng của Flash, nhưng nếu HTML5 là công cụ tổ chức, đó là JavaScript đang chiếm lấy chỗ của thành phần Flash. Các video này hay các hình ảnh khác được sử dụng để đáp ứng trong một plugin nay được dùng với JavaScript, chạy trên trình duyệt của bạn, do đó bạn không phải tải về một plugin bên thứ ba để xem nó, và các nhà phát triển biết mọi người đang có được trải nghiệm tương tự.
Kể từ khi JavaScript bắt đầu là ngôn ngữ như Java nhưng đã không thể có khả năng thực hiện các nhiệm vụ tương tự, và đôi chút ngạc nhiên để bất cứ ai cược là sẽ tiếp tục phát triển lớn mạnh. Đây cũng không phải là một hùng biện nhất - các lập trình viên cho rằng Ruby hay Python được viết theo cách bạn không trông đợi vào, do đó nó tự nhiên hơn. Nhưng một ngôn ngữ chỉ tốt như các công cụ đi kèm, và nhờ có các bổ sung như Node.js, iQuery (một thư viện), JSON (JavaScript Object Notation) và MongoDB, JavaScript có một tương lai tươi sáng.
Quang Minh
Một số vấn đề mới về giá cước thanh toán giữa các nhà khai thác viễn thông
Submitted by nlphuong on Wed, 21/11/2012 - 13:20(ICTPress) - Giá cước các dịch vụ viễn thông luôn là vấn đề dành được nhiều sự quan tâm của các nhà khai thác viễn thông.
Do vậy, hàng năm Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) tổ chức các cuộc họp nhóm cước và các chính sách kinh tế ở các châu lục và toàn thế giới. Cuộc họp mới nhất của nhóm cước toàn thế giới thuộc nhóm nghiên cứu số 3 của Ủy ban tiêu chuẩn ITU đã được tổ chức với sự tham gia của gần 200 đại biểu từ 50 nước trên thế giới từ ngày vào đầu tháng 9/2012. Kỳ họp này đã đề cập đến các vấn đề chủ yếu đang được thảo luận ở nhiều nhiều quốc gia.
Kết nối Internet quốc tế là một chủ đề được tranh luận sôi nổi tại ITU kể từ năm 1998. Các quan điểm về kết nối Internet quốc tế giữa các nước phát triển như Mỹ, Anh luôn luôn không đồng nhất với các nước kém phát triển hoặc đang phát triển. Mới đây, khu vực châu Phi đã đề xuất kiến nghị thiết lập IXP khu vực với mục tiêu giảm tối thiểu 3% chi phí kết nối Internet. Ngoài ra để giảm thiểu chi phí kết nối Internet quốc tế, các chuyên gia của ITU cũng khuyến nghị các nước cần đẩy mạnh phát triển các dịch vụ và hosting, nội dung ở trong nước; xây dựng các website với nội dung thông tin phong phú và hệ thống caching; khuyến nghị tránh đánh thuế hai lần đối với dịch vụ này.
Một đề xuất mới từ các nước phát triển như Anh, Mỹ, Úc trong xu hướng tự do hóa viễn thông là muốn tự do kết nối vào điểm cập bờ cáp biển trên lãnh thổ nước khác. Tuy nhiên, đề xuất này đang gặp phải sự phản đối quyết liệt của các nước đang phát triển. Hầu hết các nước đang phát triển đều có các quy định rất chặt chẽ về việc cho doanh nghiệp nước ngoài kết nối điểm cập bờ tại nước mình.
Trước đây, cước thanh toán quốc tế là chủ đề rất quan trọng trong ITU, ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà khai thác viễn thông quốc tế. Trong Hội nghị lần này, ITU khuyến nghị một số biện pháp để đảm bảo doanh thu thanh toán quốc tế như hiển thị số chủ gọi đối với các cuộc gọi quốc tế, kể cả đối với các cuộc gọi qua điểm trung chuyển lưu lượng, tránh đánh thuế 2 lần; sử dụng các biện pháp tín dụng trong thanh toán quốc tế, áp dụng trả trước trong thanh toán quốc tế. Các nước sẽ tiến tới cam kết cung cấp thông tin các công ty có mức tin tưởng tín dụng thấp cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế để tránh nợ đọng thanh toán quốc tế
Các nước đang phát triển như Châu Phi, Việt Nam cũng đề nghị giảm thời gian thanh toán xuống còn 30 ngày.
Một trong các vấn đề đang là xu hướng toàn cầu hóa là dịch vụ chuyển vùng quốc tế. Các vấn đề khách hàng thường xuyên gặp phải là bill shock, tính cước sai, không biết sử dụng dịch vụ, thiếu thông tin về dịch vụ.
Tại cuộc họp, các nước cũng về bàn kinh nghiệm quản lý dịch vụ chuyển vùng quốc tế của các khu vực như các nước Trung Đông quy định chung về mức cước IOT, tỷ lệ markup, giá bán cho khách hàng.
Tham khảo cước chuyển vùng quốc tế với dịch vụ truyền dữ liệu từ Thụy Sỹ như sau:
![]() |
Sơ đồ trên cho thấy cước data chuyển vùng quốc tế cao nhất là 30,95 USD/Mbyte, gấp 29 lần so với mức cước thấp nhất là 1,07 USD/Mbyte.
Tham khảo cước gửi tin nhắn từ các nước khác đến Thụy Sỹ. Số liệu trên cho thấy cước nhắn tin từ nước ngoài đến Thụy Sỹ cao nhất là 1,25 USD/SMS, cao gấp 7 lần so với cước nhắn tin mức thấp nhất là 0,18 USD/SMS và thấp hơn rất nhiều so với cước chuyển vùng quốc tế dịch vụ data.
Qua số liệu tham khảo được, thì mức cước IOT và cước thu khách hàng hiện nay của các nhà khai thác di động Việt Nam không phải ở mức cao so với các nước khác.
Giá cước luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt trong xu thế mở rộng và hội nhập kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nắm vững các xu thế chung trên thế giới để đàm phán đúng hướng, đạt hiệu quả cao trong kinh doanh quốc tế.
Tuyết Lan
Lịch sử cực ngắn về dịch vụ nhắn tin SMS
Submitted by nlphuong on Thu, 15/11/2012 - 07:56(ICTPress) - Chúng ta sẽ ở đâu nếu không có dịch vụ nhắn tin? Dịch vụ này đã phát triển từ việc đơn giản là nghiện công nghệ thành một sản phẩm mang tính toàn cầu. Nó cho phép chúng ta hiệu quả, độc lập và trực tiếp hơn.
![]() |
Khi bạn đang tới nơi nào đó muộn, bạn có thể nhắn tin cho ai đó để thông báo. Khi bạn đang trong lớp hoặc trong một cuộc họp và có việc khẩn cấp, bạn sẽ được biết tức thời. Khi bạn cần một câu trả lời ngắn gọn “Đúng” hoặc “Không”, bạn hỏi bằng cách nhắn tin.
Làm thế nào phương thức liên lạc quá đơn giản này đã dẫn tới hàng ngàn tỷ tin nhắn được gửi đi mỗi ngày?
Nhắn tin hay còn gọi SMS (dịch vụ nhắn tin ngắn) là một phương thức liên lạc gửi văn bản giữa các điện thoại với nhau - hay từ một PC hay từ một máy cầm tay tới một chiếc điện thoại di động (ĐTDĐ).
Chữ “ngắn” là chỉ kích thước tối đa của các tin nhắn là 160 chữ cái (chữ, số, hoặc biểu tượng bằng bảng chữ cái Latin).
Khái niệm SMS được công ty Franco-German GSM của Friedhelm Hillebrand và Bernard Ghillebaert phát triển vào năm 1984.
Tin nhắn đầu tiên được gửi vào năm 1992 từ Neil Papworth, một nhà phát triển tại Sema Group Telecoms. ĐTDĐ đã không có bàn phím vào lúc đó, do đó Papworth phải gõ tin nhắn trên một chiếc PC. Nội dung tin nhắn của Papworth là “Merry Christmas” (Chúc mừng Giáng sinh) đã được gửi thành công tới Richard Jarvis tại Vodafone.
Những chiếc ĐTDĐ cầm tay đầu tiên không hỗ trợ khả năng gửi tin nhắn. Các cổng SMS đầu tiên cho ĐTDĐ là những cảnh báo mạng, thường thông báo thư thoại.
Nokia là nhà sản xuất máy cầm tay đầu tiên mà dòng điện thoại GSM năm 1993 đã hỗ trợ người sử dụng gửi SMS. Năm 1997, Nokia đã trở thành nhà sản xuất đầu tiên sản xuất ra ĐTDĐ với một bàn phím đầy đủ: Nokia 9000i Communicator.
Như bất cứ một công nghệ mới nào, tăng trưởng ban đầu của SMS là khá chậm. Vào năm 1995, một người Mỹ trung bình gửi 0,4 tin/tháng. Dần dần, ĐTDĐ và mạng lưới đã tốt hơn để nhắn tin. Vào năm 1999, những nhắn tin cuối cùng đã có thể được thực hiện giữa các mạng khác nhau, đã làm tăng tính ứng dụng của tin nhắn. Vào năm 2000, số tin nhắn trung bình được gửi đi ở Mỹ tăng lên 35 tin/tháng/người.
Các phương thức nhắn tin
Phương thức phổ biến nhất, đầu tiên của tin nhắn thương mại liên quan đến việc bấm nhiều lần (multi-tap). Mỗi số trên điện thoại liên quan tới 3 hoặc 4 chữ. Ví dụ bấm phím số “3” sẽ hiển thị các chữ “D,” “E” và “F”. Khá dễ hiểu khi phải bấm nhiều lần nhưng rất không hiệu quả.
Vào những năm 1990, đồng sáng lập Telgic, Cliff Kushler đã phát minh ra phương thức T9, ngắn gọn cho cả cụm “Text on 9 keys”. Thay vào bấm nhiều lần, công nghệ bấm chữ được dự báo trước đã hiển thị các chữ từ một phím bấm duy nhất. Khi T9 trở nên phổ biến hơn với các từ và cụm từ thường được những người nhắn tin sử dụng, các từ và cụm từ trở thành người đưa tin theo trật tự tần suất. Vào năm 2011, Kushler đã sáng tạo ra Swype, một tính năng nhắn tin cho các màn hình cảm biến cho phép người sử dụng di ngón tay để kết nối các chấm giữa các chữ cái trong một từ.
Bàn phím đầy đủ trên ĐTDĐ lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1997 với Nokia 9000i Communicator, đã trở nên phổ biến vào những năm 1990 và đầu những năm 2000. Phần lớn các model chấp nhận bàn phím QWERTY, một sự bố trí dần quen thuộc trên các máy tính.
Simon của IBM lần đầu tiên giới thiệu màn hình cảm biến vào năm 1992 - cũng được xem như là smartphone đầu tiên dù thuật ngữ này đã chưa được gọi tên. Chiếc điện thoại đã có lịch sử 15 năm. Những chiếc smartphone đã thay đổi và vào năm 2007 Apple giới thiệu iPhone, đáng chú ý về giao diện cảm biến và bàn phím ảo.
Bàn phím ảo có khả năng sửa chữa và hiệu chỉnh đánh vần tự động, công nghệ văn bản thông minh và khả năng đoán các từ mới. Các phím lớn hơn và bàn phím được điều chỉnh theo độ rộng của điện thoại dựa trên nền hay hướng thẳng đứng. Hiện nay, các bàn phím ảo đã trở thành một tính năng chuẩn cho các smartphone.
Năm 2007 cũng đánh dấu là năm đầu tiên người Mỹ gửi và nhận nhiều tin nhắn/tháng nhiều hơn cuộc gọi thoại. Các trang xã hội như Twitter chấp nhận định dạng chữ ngắn có thể phần nào hỗ trợ khái niệm tin nhắn ngắn - chúng ta đã biết cách viết ngắn gọn và rõ chữ hơn.
Truyền thông xã hội, chat, thư điện tử, Skype và các hình thức liên lạc khác đang mở rộng các lựa chọn ngoài cách chỉ nhắn tin. Nhưng phần lớn các lựa chọn này cần dữ liệu. Tin nhắn vẫn là một cách truyền thông trên ĐTDĐ phổ cập nhất.
Hiện nay, SMS là ứng dụng dữ liệu được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới, chiếm 81% thuê bao ĐTDĐ sử dụng dịch vụ nhắn tin. Và SMS trở nên phổ biến hơn chỉ là cách để nhắn cho bạn bè - mà còn cho phép chúng ta nhận các cập nhật và cảnh báo, thông tin tài chính, gửi thư điện tử và nhiều nữa.
SMS tại Việt Nam
Tại Việt Nam, cũng không thể phủ nhận ý nghĩa to lớn của dịch vụ nhắn tin SMS. Năm 1993, mạng ĐTDĐ đầu tiên của Việt Nam được thiết lập và triển khai cung cấp dịch vụ. Trải qua gần 20 năm xây dựng và phát triển, đến nay có 6 doanh nghiệp được cấp giấy phép cung cấp dịch vụ ĐTDĐ, tổng số thuê bao là 120,7 triệu tính đến tháng 6/2012. Cũng như nhiều nước, dịch vụ nhắn tin qua ĐTDĐ cũng phát triển vượt bậc. Chỉ bằng việc gửi một tin nhắn người sử dụng Việt Nam hiện nay có thể tải các hình ảnh, nhạc chuông, bài hát, tra cứu điểm, tư vấn tình cảm, kết bạn… đáp ứng nhu cầu thông tin một cách kịp thời, nhu cầu giải trí lành mạnh, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của đông đảo người sử dụng.
Các cơ quan nhà nước cũng như doanh nghiệp đã ứng dụng dịch vụ nhắn tin từ đầu số để phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, sản xuất có hiệu quả. Nhiều chương trình nhân đạo mang tính nhân văn cao sử dụng phương thức nhắn tin đến đầu số đã có sức lan tỏa rộng lớn trong toàn xã hội như: “Mỗi tin nhắn, một viên đá xây Trường Sa”, "Trái tim cho em”, “Tấm lưới nghĩa tình”. Sau 3 năm triển khai 17 chiến dịch đã quyên góp được với tổng số tiền gần 60 tỷ đồng.
QM
GIF và YOLO chính thức được công nhận là các từ của năm 2012 trong từ điển Oxford
Submitted by nlphuong on Tue, 13/11/2012 - 08:27(ICTPress) - Sau 25 năm cuối cùng GIF đã được công nhận là từ chính thức của năm 2012 trong từ điển Mỹ Oxford.
![]() |
Được biết đến như là định dạng trao đổi hình ảnh (Graphics interchange format), GIF cũng đã tự khẳng định trong năm 2012. Từng được biết đến là một định dạng lỗi thời xuất hiện khắp nơi trên web không chỉ là giải trí trực tuyến mà còn bình luận chính trị, thể thao, thời trang và nghệ thuật.
"GIF đã đánh dấu bước ngoặt từ vựng trong năm 2012 khi trở thành một động từ chứ không chỉ là một danh từ. GIF đã phát triển từ một phương thức cho các meme (một định dạng nội dung được phổ biến rất nhanh, rộng rãi, và thu hút được sự quan tâm chú ý của đông đảo cư dân mạng) văn hóa pop thành một công cụ với nhiều ứng dụng nghiêm túc trong đó có nghiên cứu và báo chí và việc có định nghĩa cho từ này để chứng minh một thay đổi để bắt kịp sự tiến triển”, Katherine Martin, người phụ trách chương trình từ điển Mỹ tại Oxford cho BetaBeat biết trong một thông báo.
Các từ sau đây cũng cạnh tranh để có mặt trong từ điển gồm YOLO, viết tắt của “You Only Live Once”. Năm 2012 cũng được ghi nhớ là năm của từ YOLO được đưa vào từ điển.
Giờ đây, có lẽ bất cứ ai đều nhất trí cách phát âm phù hợp. Dưới đây là các từ trong đó có nhiều từ mà những người làm công nghệ quan tâm, được đưa vào từ điển Oxford trong năm 2012 và được định nghĩa:
1. Eurogeddon: sự sụp đổ tài chính có thể của khu vực Euro, ngụ ý các thảm khốc cho sự ổn định kinh tế của khu vực này [từ ghép của các từ euro + (arma)geddon]
2. Super PAC: một cách thức của ủy ban hành động chính trị độc lập có thể quên tiền không giới hạn từ các công ty, liên minh và các cá nhận nhưng không được phép đóng góp vào hoặc điều phối trực tiếp với các đảng phái hay ứng cử viên.
3. Superstorm (siêu bão): là một cơn bão lớn và có sức tàn phá không bình thường.
4. Nomophobia: sự lo lắng do không mang theo điện thoại [từ ghép của các từ no và mo(bile) + phobia].
5. Higgs boson: Một phần tử nguyên tử mà sự tồn tại của nó được dự báo bằng lý thuyết hợp nhất các tương tác kém và điện từ.
6. YOLO: viết tắt của You Only Live Once, thường được sử dụng như là nhân tố hay sự tán thành về một hành vi bốc đồng hay không chịu trách nhiệm.
7. MOOC: viết tắt của massive open online course; một khóa học đại học được cấp miễn phí qua Internet.
QM