Syndicate content

Tri thức chuyên ngành

Các mô hình khai thác dịch vụ Đám mây công cộng

Các dịch vụ Điện toán đám mây công cộng (Public Cloud Computing) hiện được cung cấp rộng rãi trên thế giới với rất nhiều lựa chọn cho khách hàng tổ chức cũng như cá nhân.

ICTPress giới thiệu bài viết về các dịch vụ Public Cloud Computing của anh Đường Tất Toàn, Quản trị Dự án Điện toán Đám mây Công ty Hệ thống thông tin FPT (FPT IS).

Các mô hình dịch vụ Điện toán đám mây (ĐTĐM) hay ngắn gọn là dịch vụ đám mây (cloud service) có thể được quy về ba mô hình IaaS, PaaS, SaaS như cách phân chia của NIST và được tham chiếu sử dụng rộng rãi.

Cách phân chia đó có thể đem đến cho người đọc cảm nhận rằng các lớp dịch vụ đó được triển khai dựa vào nhau (như Hình 1.a, ảnh dưới). Tuy nhiên, lớp dịch vụ SaaS chẳng hạn, có thể được triển khai dựa trực tiếp trên lớp IaaS (Hình 1.b) hoặc có kiến trúc hệ thống riêng để cung cấp dịch vụ SaaS mà không cần dựa trên nền tảng PaaS hoặc IaaS (hình 1.c). Tương tự như vậy, lớp dịch vụ PaaS có thể được phát triển trực tiếp mà không dựa trên một kiến trúc dịch vụ hạ tầng cloud computing.

Các dịch vụ IaaS

Các dịch vụ IaaS cung cấp cho khách hàng tài nguyên hạ tầng điện toán như máy chủ (có thể lựa chọn hệ điều hành – điển hình là Windows và Linux), mạng, không gian lưu trữ, cũng như các công cụ quản trị tài nguyên đó. Các tài nguyên này thường được ảo hóa, chuẩn hóa thành một số cấu hình trước khi cung cấp để đảm bảo khả năng linh hoạt trong quản trị cũng như hỗ trợ tự động hóa.

Dịch vụ hạ tầng cho phép khách hàng thuê tài nguyên tính toán đó thay vì mua thiết bị phần cứng, phần mềm hệ thống và cài đặt trong trung tâm dữ liệu của mình. Đặc điểm của dịch vụ ĐTĐM đó là tính mềm dèo: khách hàng có thể thuê thêm tài nguyên hoặc giảm bớt một cách tự động hoặc theo yêu cầu dựa trên nhu cầu khai thác, sử dụng.

Hiện nay các dịch vụ IaaS phổ biến nhất là cho khách hàng thuê các máy tính ảo (virtual machine), thuê không gian lưu trữ (storage space). Nhà cung cấp dịch vụ cung cấp cho khách hàng phương tiện truy cập thông qua mạng Internet hoặc đường truyền riêng theo nhu cầu. Các chuẩn ảo hóa đã được các nhà cung cấp giải pháp và dịch vụ sử dụng, đem đến cho khách hàng khả năng thay đổi nhà cung cấp dịch vụ và di chuyển các dữ liệu và máy tính ảo sang nhà cung cấp dịch vụ khác một cách thuận lợi. Các tùy chọn về bảo mật như mã hóa dữ liệu, mã hóa thông tin đường truyền, xác thực mạnh với người dùng cũng được cung cấp.

Hệ thống cho phép lựa chọn một cấu hình máy chủ ảo (VM) trên dịch vụ IaaS – FPT Cloud Lab.

Mô hình khai thác dịch vụ hạ tầng đám mây mà các tổ chức, doanh nghiệp thường sử dụng đó là thực hiện thuê một số lượng tài nguyên nhất định cho nhu cầu nghiệp vụ hàng ngày, và thuê dự phòng tài nguyên cho những nhu cầu đột biến. Nhờ vậy, tổ chức doanh nghiệp không phải đầu tư ban đầu, chỉ phải trả chi phí cho những nhu cầu sử dụng thực sự. Khai thác dịch vụ hạ tầng đem lại cho khách hàng hiệu quả kinh tế, đặc biệt trong những trường hợp nhu cầu tính toán, lưu trữ tăng đột biến trong thời gian ngắn, việc đầu tư hạ tầng, thiết bị riêng sẽ gây lãng phí không cần thiết; thời gian để mua sắm thiết bị hạ tầng cũng gây chậm trễ, ảnh hưởng tới công việc, nghiệp vụ của đơn vị.

Các dịch vụ PaaS

Dịch vụ PaaS cung cấp cho khách hàng bộ công cụ để phát triển, thử nghiệm và triển khai ứng dụng trên nền ĐTĐM. Ứng dụng được xây dựng có thể được sử dụng trong nội bộ đơn vị tổ chức, doanh nghiệp hoặc được cung cấp dịch vụ ra bên ngoài cho bên thứ ba. Khách hàng điển hình của dịch vụ PaaS là các ISV (Independent Software Vendor), thực hiện xây dựng các ứng dụng phần mềm và cung cấp lại dịch vụ cho khách hàng là người dùng cuối.

Do đặc thù dịch vụ ĐTĐM cung cấp ứng dụng qua mạng Internet, cho nên hầu hết các nền tảng PaaS cung cấp bộ cung cụ để xây dựng các ứng dụng trên nền tảng Web. Các dịch vụ PaaS phổ biến hiện nay cho phép phát triển ứng dụng trên các nền tảng và ngôn ngữ phát triển ứng dụng phổ biến như .NET (Microsoft Windows Azure); Java, Python, Ruby (Google App Engine, Amazon)... Tuy nhiên ngôn ngữ được hỗ trợ, bộ cung cụ phát triển cũng như các giao diện lập trình ứng dụng (API – Application Programming Interface) có thể nói một mặt là rất phong phú nhưng mặt trái là thiếu chuẩn hóa, thiếu thống nhất. Sự không tương thích giữa các nhà cung cấp dịch vụ PaaS sẽ là một hạn chế cần được khắc phục trong tương lai, nhằm bảo đảm tính mở, cho phép các ứng dụng đám mây có thể dịch chuyển hoặc giao tiếp với nhau giữa các nhà cung cấp dịch vụ.

Dịch vụ SaaS

Trước khi điện toán đám mây được trao đổi rộng rãi trong giới IT hiện nay, thực ra dịch vụ phần mềm (SaaS) đã xuất hiện từ lâu, phổ biến nhất đó là các dịch vụ thư điện tử như hotmail, yahoo mail, gmail... Các dịch vụ này cũng cung cấp cho các tổ chức dịch vụ thư điện tử với tên miền riêng với một mức phí tương đối rẻ. Các dịch vụ phần mềm SaaS cho doanh nghiệp gần đây đang phát triển nhiều hơn: ví dụ như, các dịch vụ ứng dụng văn phòng Office 365 của Microsoft với các ứng dụng email, cộng tác, truyền thông nội bộ; các ứng dụng quản lý khách hàng (CRM) của SalesForce, các ứng dụng thương mại điện tử của Amazon...

Các dịch vụ ứng dụng SaaS đem đến cho tổ chức, doanh nghiệp nhiều lợi ích. Đơn vị trả chi phí theo mức độ sử dụng hàng tuần, hàng tháng mà không phải trả toàn bộ phí bản quyền ngay từ đầu. Ngân sách của doanh nghiệp không phải gánh một khoản đầu tư ban đầu lớn mà sẽ chi trả dần dần và tăng lên khi thực sự có nhu cầu. Bên cạnh đó, tổ chức, doanh nghiệp cũng có lợi thể dùng thử và lựa chọn phần mềm SaaS phù hợp, giảm thiểu được chi phí.

Lời kết

Dich vụ điện toán đám mây cung cấp dưới các hình thức đa dạng với các mô hình khác nhau. Các tổ chức có thể lựa chọn khai thác sử dụng để bổ sung cho hạ tầng điện toán hiện có (dịch vụ IaaS), thử nghiệm, phát triển các ứng dụng (PaaS), hoặc khai thác các ứng dụng sẵn có (SaaS) để đáp ứng kịp thời nhu cầu của nghiệp vụ, giảm chi phí đầu tư cũng như chi phí cơ hội. Nhìn dưới góc độ quản trị, cloud computing cho phép tổ chức, doanh nghiệp chuyển bớt các công việc IT (outsourcing) cho nhà cung cấp dịch vụ, nhằm tập trung vào phát triển công việc, nghiệp vụ cốt lõi, cải tiến quy trình sản xuất, kinh doanh, giảm thời gian phát triển sản phẩm, dịch vụ đưa ra thị trường.

Dương Tất Đoàn

(FPT IS)

Cách sử dụng mã bưu chính Việt Nam để gửi bưu phẩm

(ICTPress) – Tại buổi Lễ phát động cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 41 (năm 2012), Ban tổ chức cuộc thi đã thông báo các bài dự thi gửi về ban tổ chức ngoài phong bì có dán tem, ghi rõ địa chỉ người gửi/địa nơi nhận phải ghi thêm mã địa chỉ bưu chính. Đây là quy định mới của cuộc thi năm nay. Nhân dịp này, Ban tổ chức, Tổng công ty Bưu chính Việt Nam (VNPost) giới thiệu đến các em và bạn đọc cách sử dụng mã bưu chính Việt Nam để gửi thư.

Trong những năm gần đây xu hướng ứng dụng tin học trong các lĩnh vực bưu chính ngày càng phát triển và đa dạng. Phần lớn các công việc từ giao dịch, khai thác tới quản lý... đều đã được tin học hoá. Một trong những khâu quan trọng trong sản xuất bưu chính là khai thác, chia chọn và phát bưu gửi sao cho chính xác, nhanh chóng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp các dịch vụ gia tăng giá trị như xác nhận chứng từ thanh toán ngay từ khi bưu gửi tới trung tâm chia chọn giúp tăng nhanh thời gian quay vòng vốn của các doanh nghiệp... cần được quan tâm đúng mức. Để đạt được điều này, việc cần thiết là phải nhanh chóng “số hoá” địa chỉ bưu chính, chuyển thông tin về địa chỉ bưu chính từ dạng chữ viết sang dạng số nhằm giảm bớt chi phí và nâng cao độ chính xác cho việc nhận dạng địa chỉ bằng máy móc thay cho con người.

Hiện nay, hầu hết các nước phát triển trên thế giới đều đã có hệ thống mã địa chỉ bưu chính và được phổ cập sử dụng rộng rãi trong toàn dân. Trên cơ sở hệ thống mã này, các nước này đã sử dụng máy chia chọn tự động ứng dụng công nghệ OCR (Optical Character Recognition) nhằm tăng năng suất và chất lượng trong khâu chia chọn Bưu chính.

Sử dụng mã bưu chính khi gửi thư, bưu gửi sẽ giúp cho việc khai thác, chia chọn, chuyển phát thư từ và bưu gửi được thuận lợi và nhanh chóng hơn; nhờ đó mà chất lượng dịch vụ sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, hiện nay thông tin về mã bưu chính và các lợi ích của mã bưu chính còn khá lạ lẫm đối với đại bộ phận người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam, vì thế khách hàng chưa có thói quen sử dụng mã bưu chính khi gửi thư, bưu gửi.

 1. Khái niệm mã bưu chính

Mã bưu chính là một tập hợp các chữ số dùng để thể hiện một địa chỉ hoặc một cụm địa chỉ theo những nguyên tắc xác định nhằm giúp cho việc khai thác, chia chọn, phân phát thư từ, bưu gửi được thuận lợi, nhanh chóng và chính xác.

 2. Cấu trúc mã Bưu chính Việt Nam

Mã bưu chính Việt Nam gồm 06 chữ số được viết liên tục, trong đó:
- Hai chữ số đầu tiên tính từ trái sang phải xác định tỉnh/thành phố (gọi tắt là mã tỉnh/thành phố). Mỗi tỉnh/thành phố có thể có nhiều hơn một mã tỉnh/thành phố. Ví dụ: Thành phố Hà Nội có thể có các mã: 10xxxx, 11xxxx, 12xxxx, 13xxxx...
- Bốn chữ số đầu tính từ trái sang phải xác định quận/ huyện thuộc tỉnh/thành phố (gọi tắt là mã quận/huyện).
Mỗi quận/huyện có thể có nhiều hơn một mã quận/huyện. Ví dụ: Quận Đống Đa - Hà Nội có thể có các mã: 1150xx, 1168xx, 1170xx...
- Năm chữ số đầu tính từ trái sang phải xác định phường/xã thuộc quận/ huyện của tỉnh/thành phố. Mỗi phường/xã có thể có nhiều hơn một mã phường/xã. Ví dụ: Phường Láng Hạ - Quận Đống Đa - Hà Nội có thể có các mã: 11700x, 11711x...
- Sáu chữ số của mã bưu chính Việt Nam xác định được địa chỉ của đối tượng mang mã.

Ví dụ:

3. Các đối tượng được mang mã bưu chính Việt Nam

Các đối tượng được mang mã bưu chính gồm:

- Một đoạn các đường phố, ngõ, ngách

- Các tổ dân phố hoặc cụm dân cư ở thành phố

- Dãy nhà trong khu tập thể

- Thôn/ấp ở nông thôn

Các đối tượng được mang mã riêng theo nguyên tắc khác:

- Các khách hàng đặc biệt

- Các khách hàng lớn

- Các bưu cục thuộc mạng bưu chính công cộng do Bưu chính Việt Nam quản lý

- Các bưu cục thuộc Bưu điện trung ương

4. Lợi ích của mã Bưu chính Việt Nam

a. Đối với Bưu chính Việt Nam

Vai trò tự động hóa bưu chính

Mã bưu chính có vai trò quan trọng trong tự động hóa bưu chính. Bởi vì, mã bưu chính chỉ thể hiện thông tin cần thiết để phân biệt địa chỉ, không có sự dư thừa thông tin như địa chỉ thực nên sẽ tiết kiệm thời gian đọc, tiết kiệm bộ nhớ của tất cả các máy chia chọn tự động. Còn khi chia chọn thủ công, đọc mã địa chỉ bưu chính cũng nhanh hơn đọc địa chỉ rất nhiều và không dễ bị nhầm lẫn như khi đọc địa chỉ. Trình độ, kinh nghiệm của công nhân khai thác không cần đòi hỏi cao như khi đọc địa chỉ, công nhân chia chọn có khi chỉ cần hai số đầu và cuối cho một khoảng địa chỉ, không cần phải có kinh nghiệm và kiến thức về địa lý. Vì thế, năng suất lao động thủ công cũng tăng lên rất nhiều, giám sát sự căng thẳng cho công nhân chia chọn.

Vai trò trong quản lý bưu chính

Mã địa chỉ bưu chính có vai trò rất lớn trong quản lý bưu chính:

Thứ nhất, do hệ thống mã bưu cục là một tập con của mã địa chỉ bưu chính được bảo toàn theo nguyên tắc địa dư hành chính (ở mức độ nhất định) sẽ hỗ trợ cho công tác quản lý nghiệp vụ theo lưu lượng, doanh thu để có thể đề ra chiến lược phát triển các bưu cục một cách hợp lý với hiệu quả cao.

Thứ hai, trên cơ sở sử dụng mã địa chỉ bưu chính, công tác xác định luồng lưu lượng bưu chính sẽ thuận lợi tạo điều kiện cho việc xác định phương tiện vận chuyển phù hợp hoặc tối ưu hóa mạng vận chuyển bưu gửi.

Thứ ba, công tác quản lý chất lượng bưu chính cũng sẽ được hưởng lợi từ mã bưu chính do viêc xác định “thời gian lưu kho” của bưu gửi tại các trung tâm chia chọn sẽ do máy tự động xác định.

Thứ tư, khi mã bưu chính được sử dụng rộng rãi sẽ có lợi cho các dịch vụ thư lai ghép (hybrid mail) như DATAPOST, Bưu phẩm không địa chỉ, Quảng cáo trực tiếp… do địa chỉ người nhận đã được mã hóa giúp cho việc phân nhóm khách hàng được thực hiện ngay từ khâu in ấn, gấp lồng phong bì…

Thứ năm, đối với công tác giao dịch với khách hàng, mã bưu chính cũng hỗ trợ rất nhiều trong việc xác định bưu cục gần nhất với mã bưu chính người nhận có mở dịch vụ nào đó giúp cho giao dịch viên dễ dàng phục vụ khách hàng được thực hiện ngay từ khâu in ấn, gấp lồng phong bì…

Thứ sáu, mã bưu chính thuận tiện cho việc ứng dụng tin học trong quản lý sản xuất, quản lý các dịch vụ.

b. Đối với khách hàng

Lợi ích dễ thấy nhất khi sử dụng mã bưu chính là thư từ, bưu gửi sẽ được phát nhanh hơn và chính xác hơn. Viết mã bưu chính kèm địa chỉ sẽ giúp tránh mọi sai sót và chậm trễ do nhầm lẫn khi đọa địa chỉ viết bằng chữ viết tay như hiện nay.

c. Các lợi ích khác

Mã bưu chính còn đem lại nhiều lợi ích trong các lĩnh vực khác nhau như:

- Cung cấp dịch vụ đặc biệt để giảm chi phí cho các khách hàng lớn do bưu gửi của họ đã được in sẵn mã theo địa chỉ người nhận;

- Cung cấp dịch vụ gia tăng giá trị với các nhu cầu gửi các loại tạp chí, card quảng cáo, hàng quảng cáo trực tiếp;

- Cung cấp thông tin địa chỉ theo mã địa chỉ bưu chính;

- Gắn mã địa chỉ bưu chính với bản đồ hành chính để xác định các vùng có khả năng tiêu thụ hàng hóa…;

- Cung cấp mật độ dân cư tại các vùng cho công tác tiếp thị sản phẩm, dịch vụ…

- Xây dựng kế hoạch thương mại: định hướng phát triển kinh doanh, bán sản phẩm…;

- Xây dựng cơ sở dữ liệu địa chỉ bưu chính cho khách hàng có nhu cầu thường quyên;

- Cung cấp thông tin làm cơ sở cho việc xây dựng kho vận đảm bảo phân phối sản phảm hợp lý, nhanh chóng với chi phí vận chuyển tháp nhất;

- Cung cấp thông tin cho công tác nghiên cứu thị trường; xây dựng quy hoạch cho tương lai…

5. Cách tra cứu và sử dụng mã bưu chính Việt Nam

a. Cách tra cứu mã bưu chính

Để biết được mã bưu chính của một địa chỉ, khách hàng có thể:

- Tham khảo thông tin tại các bưu cục của Tổng công ty Bưu chính Việt Nam

- Bưu chính Việt Nam đã in dạnh bạ mã bưu chính quốc gia để đặt tại các bưu cục. Khách hàng cần tra cứu mã bưu chính có thể tự tra cứu hoặc nhờ giao dịch viên tra cứu tại các bưu cục.

- Gọi điện thoại đến hệ thống Trung tâm hỗ trợ (Call Center) của Bưu chính Việt Nam: Khách hàng có thể gọi điện đến số 1900 545481 để yêu cầu tra cứu mã bưu chính mình cần.

- Truy nhập trang web: http://postcode.vnpost.vn/services/search.aspx

Trang tra cứu tông tin mã bưu chính Việt Nam

Tại ô “Tìm kiếm” cho phép tìm kiếm thuận từ mã ra “Cụm địa chỉ” hoặc ra “Bưu cục” tùy theo ô lựa chọn.

Hoặc cũng có thể cho phép tìm kiếm ngược: từ địa chỉ ra mã; trong đó để bảo đảm tính chính xác của thông tin cần tìm, các tên riêng nên đưa vào trong dấu ngoặc kép. Ví dụ như “Hà Nội”, “Nghi Tàm”, “Thuận An”… (Lưu ý: tiếng Việt nên sử dụng bộ gõ Unicode tổ thợp theo TCVN 6909:2001).

Việc tra cứu thông tin cho phép tìm trên toàn bộ địa chỉ (bao gồm cả tên phường/xã, Quận/huyện, Tỉnh/thành phố) nếu lựa chọn chức năng “tất cả”; Nếu lựa chọn “theo tên” thì chỉ tìm các thông tin liên quan trong các cụm địa chỉ.

b. Cách sử dụng mã bưu chính khi gửi thư từ, bưu gửi

Mã bưu chính được ghi cùng địa chỉ bằng 06 chữ số; Mã bưu chính phải được in hoặc viết tay rõ ràng, dễ đọc, không tẩy xóa, gạch bẩn.

Đối với các bưu gửi trong nước

Các bưu gửi trong nước không cần thiết ghi rõ tên nước, mã địa chỉ ghi sau tên Tỉnh/thành phố, phân cách với tên tỉnh/thành phố ít nhất 1 ký tự trống. Ví dụ:

Người nhận: Nguyễn Văn A, Xóm Nà Chang, Xã Xuân Hòa, Huyện Hà Quảng, Tỉnh Cao Bằng 274623

Người nhận: Trần Văn B, Số 15, Ngõ 47, Phố Nguyên Hồng, Phường Láng Hạ, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội 117082

Đối với các bưu gửi từ nước ngoài gửi về Việt Nam, ngoài địa chỉ chi tiết chính xác bắt buộc phải ghi rõ tên nước ở dòng cuối cùng. Mã địa chỉ ghi sau tên tỉnh/thành phố, phân cách với tên tỉnh/thành phố ít nhất 1 ký tự trống. Ví dụ:

Người nhận: Nguyễn Văn A, Xóm Nà Chang, Xã Xuân Hòa, Huyện Hà Quảng, Tỉnh Cao Bằng 274623, Việt Nam

Người nhận: Trần Văn B, Số 15, Ngõ 47, Phố Nguyên Hồng, Phường Láng Hạ, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội 117082, Việt Nam

Đối với các bưu gửi có ô dành riêng cho mã bưu chính, ghi rõ mã bưu chính của người nhận theo quy định trong đó mỗi ô chỉ ghi một địa chỉ số; số phải ghi rõ ràng dễ đọc, không gạch xóa. Ví dụ:

 ./.

Xã hội thông minh cần những giải pháp CNTT nào?

(ICTPress) - Hướng tới một xã hội thông minh là nội dung chính của của các diễn giả Hàn Quốc trình bày tại “Diễn đàn doanh nghiệp CNTT Hàn Quốc và Triển vọng tương lai” ngày hôm nay 6/9/2011 tại Hà Nội do Bộ Kinh tế Tri thức, Hàn Quốc và Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam bảo trợ.

Kỷ nguyên giải pháp CNTT và xã hội thông minh

Theo TS. Hwa-seong Byeon, Phó Giám đốc Cơ quan quảng bá CNTT quốc gia Hàn Quốc (NIPA), hiện nay Hàn Quốc đang bước vào kỷ nguyên với những giải pháp thông minh mới. Đây cũng là giai đoạn 3 của Chiến lược phát triển giải pháp CNTT của Hàn Quốc trong hơn 30 năm qua. Giai đoạn 3 này cũng sẽ tập trung vào 4 mảng phát triển như giai đoạn 1 và 2 (Máy tính cá nhân, Mạng, Dịch vụ và Cơ chế chuyển đổi) nhưng theo hướng thông minh, đó là: thiết bị cá nhân thông minh với điện thoại thông minh, máy tính bảng; Mạng thông minh với USN và 4G, dịch vụ sẽ là đường truyền không dây Internet (3D…); và Cơ chế chuyển đổi sẽ là CNTT hiện diện mọi nơi, Internet cho mọi thứ và cơ sở thông minh cho giải pháp này là chất lượng cuộc sống và sự hội tụ thông minh. Ba đặc trưng của ngành CNTT thông minh là tính di động, sự thông minh và tính xã hội.

Xã hội đang biến đổi theo xu hướng thông minh nhờ sự phát triển của các giải pháp CNTT. Theo TS. Yoon Hong Cho, Cơ quan An ninh và Internet của Hàn Quốc (KISA), xã hội thông minh phát triển theo 4 xu hướng: Tivi thông minh (thân thiện môi trường) tức là tivi không còn là một thiết bị đầu cuối đơn giản mà sẽ thông minh gồm nội dung-nền-mạng-thiết bị thu phát; Điện toán đám mây; Công sở thông minh gồm công nghệ dịch vụ (nhắn tin, truyền hình IP - VoIP), công nghệ mạng được sử dụng tại văn phòng (đám mây, tốc độ truyền (Giga), thiết bị đầu cuối…) và công việc linh hoạt không gò bó về thời gian và địa điểm làm việc; và Kết nối cảm ứng (NFC) cho phép đơn giản hóa thực hiện giao dịch, trao đổi dữ liệu và kết nối không dây giữa hai thiết bị trong một khách cách gần nhất định, thường khoảng vài centimet.

Cuộc sống với công nghệ kết nối cảm ứng

Xã hội thông minh trong tương lai, theo TS. Cho, sẽ cần 6 sản phẩm: Báo giấy điện tử cung cấp phim, hình ảnh và mọi người có thể cầm theo như cuộn giấy; Ảnh giao thoa laze nghĩa là tạo màn hình bằng tia laze và nhận theo tọa độ; Găng tay điện tử - bạn có thể sử dụng máy tính với màn hình điều khiển bằng găng tay từ bất kỳ đâu và bất kỳ lúc nào; Gia tăng hiện thực - các vật thể ảo trong thế giới thật qua công nghệ giúp bạn lái xe những vẫn có thể đọc báo và đàm thoại video; Người máy - di động, phiên dịch đa ngôn ngữ và làm vệ sỹ cá nhân và Sợi điện tử tự hành để điều khiển nhiệt đợi, điều trị bằng dược phẩm tự động.

Hệ thống giao thông minh - lợi ích to lớn cho xã hội và nền kinh tế

Một giải pháp thông minh cho xã hội thông minh được quan tâm nhất tại Diễn đàn này là hệ thống giao thông thông minh đang được triển khai tại Hàn Quốc. Dự án này được khởi động từ năm 1991. Trong các năm 1996 - 1998, kế hoạch tổng thể của dự án quốc gia này đã được hoàn thành và sau đó thực hiện triển khai cho tới nay với 7 khu vực dịch vụ, 23 dịch vụ chính và 46 dịch vụ phụ. Tổng chi phí đầu tư cho dự án này từ năm đầu của giai đoạn 1 dự án là năm 2001 đến năm 2010 là 3.448 triệu USD.

Dịch vụ và kiến trúc của hệ thống giao thông thông minh

Hệ thống giao thông thông minh (GTTM) của Hàn Quốc đã đem lại lợi ích cho xã hội khoảng 10,7 tỷ USD hàng năm nhờ tiết kiệm chi phí do nạn tắc đường, giao thông và hậu cần, đồng thời gia tăng tốc độ giao thông khoảng 15 - 20%; Tiết kiệm 8,26 triệu lít (6,258 tấn dầu quy đổi) nhiên liệu và giảm 18.000 tấn khí thải CO2 mỗi năm với mỗi 1000 km đường có trang bị hệ thống giao thông thông minh; Tiết kiệm 8,45 triệu lít (7,905 tấn dầu quy đổi) nhiên liệu và giảm 23.000 tấn khí thải CO2 mỗi năm với hệ thống thu phí tự động (Hi-pass system) trên các trạm thu phí quốc lộ. Hệ thống này đã được lựa chọn và quản lý trong danh mục tổng số 17 sản phẩm phát triển mở ở Hàn Quốc (13/1/2009).

Tương lai của các dịch vụ giao thông thông minh ở Hàn Quốc, theo TS. Stan Seunghwan Lee, là không cần điều khiển giao thông, không còn tai nạn và tắc đường, thông tin giao thông nhanh và theo yêu cầu và không còn cần đến các trạm thu phí và thiết bị văn phòng cồng kềnh, môi trường trạm thu phí thông minh khi xe chạy không cần dừng đỗ.

Mai Vân

Mô hình nào để thiết kế chiến lược băng rộng

(ICTPress) - Một cây quyết định có thể hỗ trợ các chính phủ trong việc thiết lập thực tiễn tốt nhất cho kế hoạch băng rộng.

Có nhiều cấp độ các quyết định được áp dụng để thiết kế một kế hoạch băng rộng. Có rất nhiều thông tin của các nước đã thực thi các quyết định ở một số cấp độ. Một cây quyết định có thể hỗ trợ các chính phủ trong việc thiết lập thực tiễn tốt nhất cho kế hoạch băng rộng.

Một cây quyết định là một công cụ hỗ trợ quyết định sử dụng mô hình quyết định kiểu hình cây và các kết quả hay hậu quả có thể của mô hình này. Mô hình này gồm ba loại node:

- Các node quyết định (hình vuông)

- Các node cơ hội (hình tròn), và

- Các node kết thúc (hình tam giác).

Hình vuông thể hiện sự tập trung của một quyết định cơ bản được thực hiện và hình tam giác mang lại các lựa chọn hay giải pháp sẵn sàng cho nhà hoạch định chính sách. Hình tròn thường ở giữa hình vuông và hình tam giác và thể hiện khả năng (ở đâu thích hợp) để hỗ trợ hơn nữa cho nhà hoạch định chính sách.

Áp dụng khái niệm này vào việc hình thành một kế hoạch băng rộng quốc gia, thách thức có thể được nắm giữ nhờ sáu cấp node quyết định (xem hình). Cây quyết định ở đây không chứa các node cơ hội, vì hai lý do. Lý do đầu tiên là phụ thuộc các khả năng chủ quan liên quan đến bất kỳ node cơ hội nào sẽ thay đổi khác nhau ở mỗi nước. Thứ hai trong khi các tải trọng cơ hội có thể được giới thiệu, cho rằng, phụ thuộc vào một số các quốc gia quyết định dựa trên các lựa chọn cụ thể, điều này không thể đưa đến thực tiễn tốt nhất, nhưng chỉ ra một bản chất nhóm.

Khi trèo cây, không nhất thiết phải tuân thủ chặt chẽ chuỗi các node quyết định theo trình tự. Nhiều nước đã đi theo một chuỗi đang thay đổi. Tuy nhiên, nhìn chung các cấp độ 1 và 2 là chuỗi khởi động logic và hiệu quả nhất, cũng như rủi ro thấp nhất cho một kế hoạch quốc gia nhiều thông tin. Ưu điểm của việc sử dụng cây quyết định là, ở từng cấp, kinh nghiệm của nhiều nước là chuyển sang tư duy hình thành.

Trong khi các node cuối được mô tả trong mô hình thể hiện một loạt các lựa chọn không đáng kể cho một quốc gia ở mức điểm quyết định, trong một số trường hợp có một sự kết hợp các lựa chọn. Ở từng cấp, kinh nghiệm từ một số nước là chuyển sang một tư duy hình thành.

Cây quyết định: Sáu cấp node quyết định

(Nguồn: ITU News Magazine 9/2011)

Tìm hiểu mô hình ngân hàng di động

(ICTPress) - Ở các nước đang phát triển hiện đã có hơn 4 tỷ thuê bao điện thoại di động (ĐTDĐ), có thể tiếp cận cac dịch vụ tài chính qua ĐTDĐ (được gọi là ngân hàng di động - m-banking).

Có rất nhiều mô hình ngân hàng di động, và các mô hình này thường theo 2 tiêu chí chính: mô hình phụ thuộc ngân hàng và mô hình không cần có ngân hàng. Mục tiêu hay mô hình mà một công ty triển khai để thực hiện cung cấp các dịch vụ ngân hàng di động đôi khi phụ thuộc vào các luật và quy định tài chính và mức độ linh hoạt mà nhà quản lý mong muốn cho phép.

Một số quốc gia cho phép các cá nhân và tổ chức có thể trở thành các đại lý cho ngân hàng. Ở Ấn Độ là một ví dụ, các bưu cục và các nhà khai thác mạng di động có thể hoạt động như là các đại lý. Ở Kenya, bấ cứ tổ chức vì lợi nhuận nào (như một cửa hàng rau quả hay các cơ sở bán lẻ địa phương khác) có thể trở thành đại lý. Bài viết này trình bày các mô hình dịch vụ ngân hàng di động khác nhau.

Mô hình dựa vào ngân hàng

Mô hình ngân hàng di động dựa vào ngân hàng có nghĩa là các ngân hàng cung cấp dịch vụ có sẵn của mình cho các máy di động. Một ngân hàng sẽ thỏa thuận với một nhà khai thác di động để cung cấp các dịch vụ tài chính qua cả nhắn tin văn bản và các ứng dụng di động thông minh hiện đã trở nên phổ biến. Các khách hàng có thể thực hiện một loạt các giao dịch tài chính mà không phải tới ngân hàng. Khách hàng có thể thiết lập một mối quan hệ hợp đồng trực tiếp với một tổ chức tài chính được cấp phép và giám sát, mặc dù một đại lý có thể cung cấp cho khách hàng dịch vụ, giữ các hồ sơ, xử lý tiền mặt và quản lý khả năng thanh toán bằng tiền mặt.

Các mô hình dựa vào ngân hàng thường tập trung vào các khách hàng của ngân hàng hiện nay, tạo cách thức thuận tiện nhất (bên cạnh thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động ATM và Internet) để quản lý tiền mà không phải cầm tiền mặt. Nhưng ở đâu vẫn còn các cản trở cung cấp các dịch vụ tài chính, một số dịch vụ ngân hàng di động phụ thuộc ngân hàng sẽ hướng những người chưa được ngân hàng vươn tới. Đây là trường hợp ở Pakistan, nước này đã quy định cụ thể tổ chức ngân hàng được phép cung cấp dịch vụ. Khi các dịch vụ ngân hàng di động phát triển và nhiều công ty muốn tham gia, Bảng 1 là những thỏa thuận khác nhau cho mô hình dựa vào ngân hàng.

Bảng 1

Sắp xếp

Mô tả

1 - 1

Thỏa thuận mở rộng giữa một ngân hàng và một nhà khai thác di động

1 và nhiều bên

Ngân hàng cung cấp các dịch vụ ngân hàng di động thông qua nhiều nhà khai thác hoặc một nhà khai thác di động cung cấp ngân hàng di động qua nhiều nhà khai thác

Đa bên

Các ngân hàng và các nhà khai thác di động đều cung cấp các dịch vụ ngân hàng di động và không được phép độc quyền

Nguồn: Telecommunications Management Group, Inc

“easypaisa” và “Omni” ở Pakistan

Telenor Pakistan và Ngân hàng tài chính vi mô Tameer đã thành lập easypaisa, một dịch vụ ngân hàng di động, ở Pakistan năm 2009 theo một thỏa thuận 1-1. Các dịch vụ gồm thanh toán hóa đơn, gửi tiền trong nước và quốc tế. Hơn 1,5 triệu giao dịch được thực hàng tháng thông qua easypaisa, dịch vụ này tập trung vào người dân mà ngân hàng chưa vươn tới.

Các khách hàng có thể đăng ký một tài khoản di động từ bất cứ đại lý nào của Telenor, chi nhánh ngân hàng Tameer. Khách hàng có thể lấy thông tin của khách hàng trên hệ thống, chụp hình và sao dấu vân tay của khách hàng và in ra tờ biên nhận phí mở tài khoản. Khách hàng sẽ nhận được một cuộc gọi xác nhận từ ngân hàng trong vòng 3 giờ và sau khi thẩm định thành công, một tài khoản sẽ được mở cho khách hàng.

Một số ngân hàng cho phép các dịch vụ ngân hàng di động được khách hàng của bất cứ nhà khai thác di động nào sử dụng, theo hình thức thỏa thuận một với nhiều bên. Ví dụ UBL, một trong những ngân hàng thương mại lớn nhất của Pakistan bắt đầu cung cấp các dịch vụ (cũng từ năm 2009), đã xây dựng mạng lưới đại lý riêng với thương hiệu “Omni” và có thể phục vụ nhiều khách hàng của bất kỳ nhà khai thác di động nào với một tài khoản có thể tiếp cận nhờ ĐTDĐ hoặc thẻ.

Không độc quyền ở Ghana và Bangladesh

Hướng dẫn của Ngân hàng Ghana năm 2008 là ủng hộ mô hình ngân hàng di động nhờ ngân hàng sử dụng các đại lý bán lẻ không phải của ngân hàng (như thương gia, các trạm gas, hay các bưu cục) và cấm các đối tác mở rộng để cung cấp các dịch vụ. Trong các thỏa thuận đa bên, các ngân hàng và các nhà khai thác di động có thể “thỏa mãn các khách hàng của nhau”. Các tài khoản của khách hàng nằm ở chỗ ngân hàng. Hiện nay có ba dịch vụ ngân hàng di động được các nhà khai thác di động cung cấp với sự hợp tác của các ngân hàng là MTN Mobile Money; Airtel Money; và Tigo Cash.

Ở Bangladesh, có ba ngân hàng hiện nay cung cấp các dịch vụ ngân hàng di động. Ngân hàng Dutch-Bangla đã giới thiệu các dịch vụ ngân hàng di động qua các nhà khai thác di động Banglalink và Citycell, chủ yếu sử dụng các quầy và đại lý bán lẻ của những nhà khai thác này. Ngân hàng Islami Bangladesh Limited thỏa thuận với Software Shop Limited Wireless để cung cấp các dịch vụ ngân hàng di động cho các khách hàng hiện nay. Và vào ngày 22/7/2011, Ngân hàng BRAC đã khai trương dịch vụ được miêu tả là “dịch vụ tài chính di động toàn diện đầu tiên” của Bangladesh, cung cấp cho các thuê bao di động một loạt các dịch vụ ngân hàng và tài chính khác qua ĐTDĐ, mà không cần họ phải có tài khoản ngân hàng hay không. Dịch vụ này được cung cấp qua bKash Ltd, một chi nhánh của BRAC, hợp tác với nhà khai thác di động Robi (Axiata Bangladesh).

Các khách hàng của Robi được cung cấp qua một tài khoản ví di động bKash, được xây dựng trên nền tảng công nghệ của VISA và được mã hóa hoàn toàn để thực hiện các giao dịch một cách bảo mật. Các tài khoản của các khách hàng có thể được gửi với tiền điện tử, như lương, khoản vay hay gửi tiền trong nước. Tiền sau đó sẽ được chuyển ra ngoài khi tiền điện tử tới bất cứ đại lý tiền ra nào được bKash ủy quyền.

Mô hình không phụ thuộc ngân hàng

Mô hình không phụ thuộc ngân hàng là một ngân hàng chính thức thường chỉ có vai trò như là một người giữ tiết kiệm, trong khi mối quan hệ khách hàng được một tổ chức không phải ngân hàng quản lý - thường là một nhà khai thác di động. Các khách hàng không có quan hệ hợp đồng trực tiếp với tổ chức tài chính được quản lý, và thực hiện các giao dịch tại một cơ sở bán lẻ có tư cách như là một đại lý dịch vụ. “Tiền” của khách hàng được ghi lại trong một tài khoản ảo trên server của một tổ chức không phải là ngân hàng.

Các mô hình không phụ thuộc ngân hàng thường tập trung vào các khách hàng chưa được ngân hàng đáp ứng. Các khách hàng có thể yêu cầu thanh toán cho bất cứ ai tham gia vào hệ thống và có thể nhận các thanh toán từ họ. Các khách hàng cũng có thể chuyển tiền giữa các tài khoản và thanh toán các hóa đơn.

Hai cơ chế thường được sử dụng để thực hiện các giao dịch là: một điểm trên mạng lưới bán lẻ và một hệ thống điện thoại. Ở một điểm của mạng lưới bán hàng, khách hàng có thể viếng thăm một đại lý bán lẻ mỗi lần họ muốn thực hiện giao dịch. Trên một hệ thống điện thoại, khách hàng phải ghé một đại lý bán lẻ để gửi tiền hoặc chuyển giá trị được lưu sang tiền mặt.

“GCASH” ở Philippines

Nhà cung cấp di động Globe Telecom ở Philippines cung cấp dịch vụ ngân hàng di động với tên gọi GCASH, cho phép một ĐTDĐ được sử dụng như là một ví điện tử để gửi tiền đi – và nhận tiền về từ người sử dụng GCASH khác. Các đại lý bán lẻ thực hiện các chức năng nhận tiền và chuyển tiền phải đăng ký với Ngân hàng trung ương Phillipines và phải gửi nhân sự đi đào tạo chống rửa tiền. Trong khi ngân hàng thực hiện dịch vụ ngân hàng di động và giám sát các công ty viễn thông, những công ty này độc quyền quản lý các đại lý của mình.

“M-PESA” ở Kenya

Có lẽ dịch vụ ngân hàng di động không phụ thuộc ngân hàng thành công nhất là M-PESA, một dịch vụ chuyển tiền di động được khai trương ở Kenya trên cơ sở thử nghiệm vào tháng 10/2005 của Safaricom và Vodafone, và được thương mại vào tháng 3/2007. M-PESA lưu trữ các tài khoản giá trị được cấu trúc cẩn thân do đó không xây dựng một hoạt động ngân hàng theo luật Ngân hàng Kenya. Để giải quyết các mối quan tâm cấp phép, Safaricom – đã tư vấn Ngân hàng Trung ương Kenya (CBK) - đầu tư một lượng tiền tương đương tiền gửi ròng của M-PESA ở các ngân hàng thương mại để đảm bảo sự an toàn tiền gửi của khách hàng.

M-PESA tập trung và các thuê bao ĐTDĐ trả trước chưa được ngân hàng vươn tới. Sau một đăng ký đơn giản để thiết lập một tài khoản M-PESA, khách hàng có thể gửi, chuyển và rút tiền tại bất kỳ đại lý phân phối nào của Safaricom. Chỉ các khách hàng của Safaricom có thể đăng ký M-PESA, nhưng người nhận chuyển không cần phải có tài khoản M-PESA hoặc một thuê bao Safaricom.

CBK chứng kiến một số tài khoản ngân hàng chính thức ở nước này đã tăng gần 150% trong thời gian từ 2005 - 2008. CBK đóng góp nhiều vào sự gia tăng này để các khách hàng không được đáp ứng dịch vụ ngân hàng có thể thấy phổ biến với các khái niệm ngân hàng qua dịch vụ M-PESA của Safaricom. Về mặt doanh thu, đối với năm tài chính kết thúc tháng 3/2010, các ủy quyền từ M-PESA chiếm 9% doanh thu hay khoảng 94,26 triệu USD (khoảng 7,56 tỷ KSH).

Tiền được gửi qua các dịch vụ ngân hàng di động có thể tới những người nhận bị giới hạn hoặc không tiếp cận tới các kênh chính thức để chuyển tiền. Tuy nhiên, trong trường hợp không có những hợp tác, người gửi tiền sẽ không có nhiều lựa chọn để gửi tiền quốc tế đến tài khoản ngân hàng di động của người sử dụng. Một số nhà khai thác ngân hàng di động như Globe và SMART ở Phillipines và M-PESA ở Kenya, đã thỏa thuận với Western Union để cung cấp một kênh dành cho gửi tiền. Dịch vụ này cho phép người gửi ở những nước lựa chọn để sử dụng các đại lý của Western Union để gửi tiền trực tiếp đến các tài khoản ngân hàng di động của thuê bao di động.

(Trích: ITU News Magazine 9/2011)

Liquid Net của NSN đáp ứng tối ưu hóa băng thông

(ICTPress) - Liquid Net, một phương thức hoàn toàn mới về cung cấp băng thông, cho phép một nhà khai thác mạng có thể thiết lập hệ thống mạng của mình theo cơ chế tự thích ứng.

Nokia Siemens Networks (NSN) hôm nay vừa ra mắt giải pháp Liquid Net, một phương thức hoàn toàn mới về cung cấp băng thông, cho phép một nhà khai thác mạng có thể thiết lập hệ thống mạng của mình theo cơ chế tự thích ứng nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng biệt của họ về dung lượng và độ phủ sóng.  

Giải pháp Liquid Net bao trùm cả các hệ mạng truy nhập qua sóng vô tuyến, mạng lõi và mạng truyền dẫn: Liquid Radio, Liquid Core, Liquid Transport do NSN thiết kế giúp giải phóng công suất mạng chưa được dùng tới và phân bổ chúng ngay lập tức trên toàn hệ mạng tới bất cứ đâu và bất cứ khi nào cần thiết. Liquid Net sử dụng cơ chế tối ưu hóa băng rộng tự động và tự điều chỉnh, cung cấp các dịch vụ và nội dung nhằm đảm bảo trải nghiệm khách hàng tốt nhất nhờ việc luôn biết rõ trạng thái vận hành của hệ mạng cũng như những dịch vụ đang được sử dụng. Hơn nữa, Liquid Net cũng giúp phân luồng dữ liệu trên hệ thống mạng truyền tải dữ liệu theo cách dễ dàng nhất và chi phí thấp nhất giữa các địa điểm của các nhà khai thác mạng.  

Liquid Net không chỉ giúp các nhà mạng nâng cao niềm tin và sự tín nhiệm của khách hàng mà còn mở ra những cơ hội kinh doanh mới cho họ.

Liquid Net được xây dựng dựa trên những nguyên tắc cơ bản trong kiến trúc Liquid Radio của Nokia Siemens Networks. Giải pháp này giúp bổ sung tính năng Liquid Core và Liquid Transport cho các hệ mạng một cách độc lập trong các môi trường đa nhà cung cấp giải pháp, hoặc trong toàn bộ hệ thống mạng thuộc một nhà khai thác mạng nhằm đem đến những lợi ích tối ưu nhất mà giải pháp Liquid Net có thể mang lại.

Trưởng bộ phận Hệ thống mạng tại NSN Marc Rouanne cho biết: “Có thể có tới 50% dung lượng băng thông của một hệ mạng lõi truyền thống không được sử dụng tới. Giải pháp Liquid Net cho phép giải phóng công suất mạng đang bị lãng phí này, biến chúng trở thành nguồn cung tài nguyên dồi dào, có thể đáp ứng được mọi nhu cầu khó lường của người dùng về băng rộng bất cứ ở đâu và bất cứ khi nào.”

Chuyên gia phân tích luồng dữ liệu, Giám đốc dịch vụ cho Hạ tầng nhà cung cấp dịch vụ, cho biết Peter Jarich: “iều quan trọng nhất là Liquid Net đáp ứng nhu cầu về giải pháp hơn là về sản phẩm điểm; trong khi các cấu phần của giải pháp có thể được triển khai dưới dạng là một phần của một giải pháp đa nhà cung cấp, thì việc kết hợp các tính năng Liquid Radio, Liquid Core và Liquid Transport vào Liquid Net sẽ giải quyết những băn khoăn cũng như nhu cầu của nhà khai thác mạng".

Liquid Radio, Liquid Core và Liquid Transport có thể được triển khai đồng thời cùng nhau hoặc riêng biệt trên một hệ mạng nhằm đảm bảo công suất, độ phủ sóng và dịch vụ được hiệu quả ở bất kỳ thời điểm nào - đây sẽ là lợi thế lớn cho các mạng đa nhà cung cấp. Hơn nữa, khi phát triển toàn bộ hệ thống mạng, tiềm năng to lớn của công suất linh hoạt hoàn toàn có thể được tận dụng tối ưu.

 Ngọc Thu

Giải pháp nào cho đồng bộ và bảo mật mạng 3G

(ICTPress) - Hội thảo đã tập trung vào nhiều giải pháp cho mạng viễn thông của VNPT, trong đó có hai giải pháp đồng bộ và bảo mật cho mạng di động 3G.

Hàng năm cứ đến ngày kỷ niệm thành lập Viện Khoa học Kỹ thuật Bưu điện, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông (BCVT) thuộc Tập đoàn BCVT Việt Nam (VNPT), hội thảo khoa học thường niên lại được Viện tổ chức. Hội thảo năm nay được tổ chức trước ngày kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Viện và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất vào ngày mai 17/9.

Hội thảo lần này đã tập trung vào nhiều giải pháp cho mạng viễn thông của VNPT, trong đó có hai giải pháp đồng bộ và bảo mật cho mạng di động 3G được các nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Bưu điện tập trung nghiên cứu và đề xuất các giải pháp khả thi và đã được áp dụng trên mạng lưới.

Từ năm 2009, các nhà cung cấp dịch vụ di động như MobiFone, Vinaphone, Viettel… đã triển khai hạ tầng mạng di động 3G. Mạng truyền tải cũng dần được chuyển đổi từ TDM truyền thống sang Mobile Backhaul. Do vậy việc đồng bộ cho mạng 3G trở nên phức tạp hơn. Giải pháp sử dụng tín hiệu đồng bộ qua PTP IEEE-15888 để đồng bộ các node của mạng 3G được phân tích là hiệu quả nhất. Đây là giải pháp tiêu chuẩn trong kết nối nội bộ mạng, tín hiệu đồng bộ thời gian cũng được truyền cùng lưu lượng và nhiều hãng cung cấp thiết bị node B đã tích hợp PTP Client vào trong thiết bị, tín hiệu đồng bộ có thể phục hồi để hỗ trợ mạng có nhiều kết nối và rộng, chất lượng của tín hiệu đồng hồ được quản lý. Giải pháp này được nhóm nghiên cứu khuyến nghị áp dụng phổ biến trong việc triển khai phân phối trong mạng 3G.

Tại hội thảo này bài trình bày các giải pháp bảo mật hệ thống thông tin di động 3G hiệu quả đã thu hút sự quan tâm. Người sử dụng 3G hiện nay có thể nhận được rất nhiều ứng dụng đa phương tiện phong phú như Gọi video (Video Call), Internet di động (Internet Mobile), Truyền hình di động (Mobile TV), Băng rộng di động (Mobile Broadband)… Do đó, các mạng di động 3G không chỉ bị tác động bởi các tấn công trên đường truyền truy nhập vô tuyến giống như ở mạng 2G truyền thống mà còn có thể bị tấn công bởi các loại virus, worm và Trojan đặc chủng trong môi trường di động, các tấn công từ chối dịch vụ (DoS)… từ các tin tặc hoặc các tổ chức tội phạm khác nhau. Giải pháp bảo mật mạng 3G theo các miền bảo mật từ bảo mật miền truy nhập vô tuyến đến bảo mật miền mạng được Dự án đối tác thế hệ thứ 3 (3GPP) khuyến nghị.

Ngoài ra để bảo vệ mạng thông tin di động 3G của mình và bảo vệ khách hàng, nhóm nghiên cứu về vấn đề bảo mật mạng 3G đã đề xuất nhiều công việc cho các nhà mạng. Trong đó, có việc kêu gọi các nhà khai thác mạng di động cần hợp tác với nhau, hợp tác với các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP), và các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông khác để đảm bảo rằng mức độ bảo mật nhỏ nhất vẫn rất mạnh chống lại các tấn công. Hơn nữa, các nhà mạng cần đặc biệt chú ý nhiều hơn đến lưu lượng báo hiệu bởi vì lưu lượng báo hiệu trên IP có những nguy cơ bảo mật mới.

PGS. TS. Nguyễn Minh Dân, Thành viên Hội đồng thành viên VNPT, nguyên Viện trưởng Viện KHKT Bưu điện cho biết năm nay VNPT nỗ lực đạt doanh thu 120.000 tỷ đồng. Doanh thu này xoay quanh các dịch vụ viễn thông. VNPT đánh giá cao các nghiên cứu khoa học và đưa vào áp dụng trong thực tế của Viện.

 NBM

Vai trò của CNTT&TT trong nền kinh tế tri thức và trường hợp của Việt Nam

TS. Đặng ThVit Đức, TS. Nguyễn Thanh Tuyên

Mở đầu

Từ những năm 50 của thế kỷ 20, các nhà kinh tế học đã phát hiện ra những hiện tượng mới trong nền kinh tế mà các lý thuyết kinh tế cũ không thể giải thích được. Nền kinh tế, thay vì dựa trên việc sử dụng và phân phối các yếu tố vật chất như trước, chuyển sang dựa ngày càng nhiều trên các yếu tố phi vật chất là thông tin, tri thức và sự sáng tạo (Solow 1957, Machlup 1962). Năm 1969, lần đầu tiên khái niệm nền kinh tế tri thức được đưa ra. Sau hơn 50 năm được nghiên cứu, tới nay kinh tế tri thức đã trở thành xu hướng không thể phủ nhận. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế của cấu trúc kinh tế mới, các quan hệ kinh tế mới phát sinh dựa trên đầu vào cốt lõi mới là thông tin, tri thức. Nền kinh tế tri thức tạo cơ hội cũng như thách thức đối với mọi quốc gia.

Ảnh minh họa: guardian

Một trong những đặc trưng nổi bật nhất của nền kinh tế tri thức là sự phát triển và ứng dụng sâu rộng của công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT) (ICT). Becker G.S. nhà kinh tế nổi tiếng của đại học Chicago và Standford, Mỹ nghiên cứu và kết luận rằng từ năm 1995 tới năm 2000, phần lớn tăng trưởng năng suất lao động ở Mỹ là nhờ việc đầu tư ứng dụng CNTT hoặc nhờ những tiến bộ của các sản phẩm CNTT (Becker 2003). ICT được coi là nhân tố mở đường cho nền kinh tế tri thức. Nhiều học giả nhấn mạnh hơn rằng chính ICT làm xuất hiện hiện tượng kinh tế mới, dẫn tới các lý thuyết về nền kinh tế thông tin, kinh tế mạng, kinh tế số, kinh tế không trọng lượng v.v.

Đối với các nước đang phát triển, việc phát triển ICT còn có ý nghĩa lớn hơn vì ICT sẽ là cầu nối giúp các nước này kế thừa tri thức từ các nước phát triển. Nhiều quốc gia đang phát triển đã và đang đưa ICT trở thành chiến lược trọng tâm cho phát triển kinh tế, tin rằng ICT sẽ tạo ra cơ hội tiên quyết để hòa nhập và đuổi kịp nền kinh tế thế giới. Tuy vậy, sự thất bại của nhiều dự án đầu tư vào CNTT trong những năm qua đã dấy lên sự hoài nghi về vai trò của ICT trong nền kinh tế mới (Heeks 2005). Các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách nhận ra rằng việc nhìn nhận quả đơn giản về ICT đã dẫn tới những thất bại đó. Câu hỏi về vị trí của ICT trong nền kinh tế hiện đại đã được nêu lên nhiều lần nhưng chưa được giải quyết một cách toàn diện.

Để giúp trả lời câu hỏi trên, bài viết tập trung phân tích các khía cạnh khác nhau về vị trí của ICT trong nền kinh tế tri thức. Trước hết bài viết sẽ hệ thống hóa bốn quan điểm khác nhau về ICT trong nền kinh tế mới bao gồm quan điểm ICT là một công nghệ, một ngành công nghiệp, một bộ phận cấu thành nền kinh tế tri thức và cuối cùng là đòn bẩy thúc đẩy sự ra đời và phát triển của nền kinh tế tri thức. Trong phần hai bài viết sẽ đi sâu hơn vào lý thuyết khuôn mẫu công nghệ (Technological paradigm theory), được tác giả coi là một mô hình có nhiều gợi ý đúng đắn về phát triển ICT trong nền kinh tế. Cuối cùng bài viết đề cập tới các vấn đề phát triển ICT của Việt Nam, xác định những cơ hội và nguy cơ trong phát triển ICT cho phát triển kinh tế.

Các quan điểm về CNTT-TT trong nền kinh tế

Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ICT là gì trong nền kinh tế hiện đại, các nhà kinh tế đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, mỗi quan điểm sẽ dẫn tới hệ quả lý luận về chính sách kinh tế khác nhau nhằm phát triển nền kinh tế tri thức. Bài viết phân tích 4 cách nhìn về ICT trong nền kinh tế bao gồm (1) ICT là một công nghệ, (2) ICT là một ngành công nghiệp, (3) ICT là một bộ phận cấu thành và (4) ICT là đòn bẩy của nền kinh tế.

Trong những mô hình giải thích kinh tế tri thức đầu tiên như các mô hình tăng trưởng mới (New growth theory) của Romer (1986), ICT không được đề cập. Lúc này, ICT chỉ đơn giản là một công nghệ trong rất nhiều công nghệ mới được phát triển và ứng dụng trong sản xuất. Công nghệ là biểu hiện của tri thức, tham gia như một yếu tố đầu vào của sản xuất. Sở dĩ tri thức công nghệ có vị trí quan trọng nổi bật hơn các yếu tố đầu vào khác vì tri thức có thể chia sẻ, dồn tích và đóng góp vượt trội cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Có hai điều có thể rút ra từ cách nhìn nhận ICT là một công nghệ. Thứ nhất, do ICT chỉ là một công nghệ như bao công nghệ khác nên trên quan điểm của toàn nền kinh tế sẽ không cần phải đầu tư trọng điểm vào ICT. Thứ hai, vì công nghệ phát triển trên nền tảng khoa học, nên để phát triển CNTT-TT chỉ cần hai yếu tố cơ bản đầu tư cho khoa học gắn kết với sản xuất và đầu tư phát triển ứng dụng thành tựu nghiên cứu vào sản xuất mà thôi.

Quan điểm ICT là một ngành công nghiệp gần gũi với quan điểm ICT là một công nghệ đã trình bày phía trên. Năm 1962, nhà kinh tế học người Mỹ Machlup F. là người đầu tiên đưa ra khái niệm ngành công nghiệp tri thức. Machlup chỉ ra 6 ngành công nghiệp sản xuất tri thức chính gồm (1) Giáo dục), (2) Nghiên cứu và phát triển (R&D), (3) Nghệ thuật, (4) Truyền thông, (5) Dịch vụ thông tin và (6) Thiết bị thông tin (Machlup 1962). Cách tiếp cận này sau đó được tiếp thu bởi nhiều nhà kinh tế và tổ chức kinh tế quốc tế. Khi ICT được coi là ngành một công nghiệp thì mối quan tâm sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động sản xuất và tiêu thụ. Một ngành công nghiệp có thể có quy mô rất lớn, nhưng vẫn bị giới hạn ở các mối quan hệ đầu ra, đầu vào và phụ trợ nhất định, vì vậy mức độ ảnh hưởng sẽ khó lan tỏa để bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Năm 1999, Ngân hàng thế giới đưa ra một mô hình tối giản nhất nhằm hướng dẫn các quốc gia xây dựng nền kinh tế tri thức. Theo đó nền kinh tế tri thức phát triển dựa trên 4 trụ cột (Hình 1). Trụ cột đầu tiên Hệ thống thể chế và các kích thích kinh tế nhằm đảo bảo sự lưu chuyển, phân bổ các nguồn lực hiệu quả, kích thích hoạt động sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức. Trụ cột thứ hai Giáo dục và nguồn nhân lực hướng tới việc tạo mới, thu nhận và sử dụng tri thức. Trụ cột thứ ba là một Hệ thống sáng chế hiệu quả của các doanh nghiệp (DN), các trung tâm nghiên cứu và các trường đại học. Trụ cột thứ tư chính là Hạ tầng thông tin để hỗ trợ truyền và xử lý thông tin nhanh chóng. Trụ cột thứ tư có vị trí đặc biệt quan trọng với các nước đang phát triển vì nó tạo cầu nối, giúp các nước này tận dụng và phát triển các tri thức đã tồn tại sẵn tại các nước phát triển. Mô hình này đưa đến một kết luận rõ ràng là muốn xây dựng và phát triển kinh tế tri thức việc phát triển ICT là một trọng tâm. Tuy nhiên, việc coi ICT là một trong bốn trụ cột của kinh tế tri thức vô hình chung lại làm ICT kém quan trọng hơn. ICT sẽ được phát triển ngang bằng và đồng thời với ba trụ cột khác. Không có trụ cột nào là cốt lõi hay trọng yếu hơn.

Hình 1. Mô hình nền kinh tế tri thức của Ngân hàng thế giới (Nguồn: World Bank 1999)

Các nghiên cứu gần đây đều đồng thuận rằng ICT có vị trí thực tế quan trọng hơn đã từng được ghi nhận. ICT không phải là một công nghệ bình thường như mọi công nghệ khác vì sức ảnh hưởng của nó sâu và rộng khắp các hoạt động kinh tế. ICT có vị trí hơn một ngành kinh tế. Hầu hết các bằng chứng đều chỉ ra rằng tác động của ICT tới phát triển  của các ngành kinh tế khác thực sự lớn và quan trọng hơn nhiều chính bản thân đóng góp của ngành sản xuất và kinh doanh ICT đối với tổng giá trị quốc dân. Việc coi ICT là một trong bốn trụ cột của nền kinh tế tri thức tỏ ra hợp lý hơn hai quan điểm trên. Tuy nhiên, như đã phân tích quan điểm này thực chất chưa nhấn mạnh vai trò của ICT đủ để phản ánh hiện tượng ICT gắn liền với bước chuyển mạnh mẽ sang nền kinh tế tri thức mà các nhà kinh tế đã đồng thuận trước đó.

ICT là công cụ và nhân tố quan trọng trong kiến tạo và truyền bá tri thức do ICT làm chi phí truyền tải và tái tạo tri thức trở nên rẻ chưa từng thấy. Bản thân việc nhận thức vị trí quan trọng của tri thức trong nền kinh tế có sự góp phần quan trọng của sự phát triển và sử dụng rộng rãi ICT. Do việc sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, cũng như khả năng hỗ trợ các công nghệ khác, ICT có thể dẫn tới những thay đổi trong phương thức sản xuất và định hình lại nền kinh tế (Helpman 1998, Shiller 2000, Freeman 2005). Nói cách khác, ICT là đòn bẩy để phát triển kinh tế tri thức.

Do việc tồn tại song song nhiều quan điểm khác nhau về ICT, việc phát triển kinh tế sử dụng ICT có thể dễ dẫn tới sai lầm. Có nghĩa là trong khi các nền kinh tế cố gắng phát triển ICT để phát triển kinh tế tri thức theo quan điểm ICT là đòn bẩy của nền kinh tế tri thức, họ lại sử dụng định nghĩa quá giản đơn về ICT,ví như ICT là một công nghệ hoặc một ngành công nghiệp. Kết quả là nền kinh tế bỏ khoản đầu tư lớn vào ICT trong khi không thu được hiệu quả tương ứng thậm chí còn làm nền kinh tế mất phương hướng. Nhiều nhà kinh tế (Perez 2004, Freeman 2005) chỉ ra rằng tác động của ICT tới nền kinh tế còn phụ thuộc vào những thay đổi tương ứng trong cấu trúc tổ chức, xã hội và thể chế. ICT một mặt thúc đẩy nền kinh tế tri thức, mặt khác, đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải nâng cao tri thức của mình để vận dụng nó. Nền kinh tế tri thức chỉ có thể phát triển dựa trên sự phát triển song song của hai khía cạnh này.

Lý thuyết khuôn mẫu công nghệ (Technological paradigm)

Lý thuyết khuôn mẫu công nghệ được một số học giả như Dosi (1982) và Perez (1983, 2004) đưa ra, ban đầu để giải thích sự vận động có tính chu kỳ của nền kinh tế mà theo họ nguyên nhân cốt lõi của sự vận động ấy nằm ở sự thay đổi công nghệ nền tảng. Về sau, lý thuyết này khi được vận dụng với CNTT-TT đã trở thành lý thuyết hữu hiệu giải thích bản chất của ICT trong nền kinh tế tri thức.

Trung tâm của lý thuyết khuôn mẫu công nghệ là khái niệm “khuôn mẫu công nghệ” (technological paradigm)1. Thuật ngữ “khuôn mẫu công nghệ” được vận dụng từ  thuật ngữ “khuôn mẫu khoa học” (science paradigm) của Thomas S. Kuhn trong cuốn The Structure of Scientific Revolutions để ám chỉ một tập các niềm tin, các nguyên lý, các quy tắc, các chuẩn mực mà một “cộng đồng khoa học” cùng chia sẻ và tuân theo. Điều này dẫn họ đến những thành tựu khoa học cũng như sai lầm khoa học thuộc cùng một hệ thống. Khuôn mẫu công nghệ bao gồm một nhóm các công nghệ cơ bản được tạo ra và chi phối bởi những nguyên lý và các quy tắc thực hành nhất định. Nhóm công nghệ cơ bản khi là “khuôn mẫu” phải có ảnh hưởng đột phá, sâu rộng không chỉ trên khía cạnh kỹ thuật  mà còn cả cấu trúc tổ chức - quản lý, thực sự tạo nên một cuộc cách mạng thay đổi toàn bộ logic sản xuất và nền kinh tế.

Shiller (2000) và Freeman (2005) gọi tên “khuôn mẫu ICT” tương ứng với nền kinh tế tri thức. ICT đã giúp các nền kinh tế nhìn nhận rõ hơn vị trí trung tâm của tri thức trong sản xuất. ICT buộc các doanh nghiệp phải thay đổi cấu trúc tổ chức, cách thức quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp, cũng như với các đối tác, nhà cung cấp, khách hàng hướng tới không ngừng kiến tạo tri thức để không bị đào thải khỏi thị trường. ICT tác động đến lối sống, thói quen sinh hoạt và làm việc của dân cư… Và cuối cùng chúng ta có được một trật tự kinh tế hoàn toàn mới của nền kinh tế tri thức. Theo cách lý luận đó, ICT là đòn bẩy, mấu chốt mở ra kinh tế tri thức. Mức độ ảnh hưởng mạnh mẽ của ICT tới các hoạt động kinh tế đã được nhấn mạnh đâu đó, chẳng hạn trong lý thuyết về công nghệ mang mục đích chung (Helpman 1998). Tuy nhiên, chỉ lý thuyết khuôn mẫu công nghệ mới khẳng định chắc chắn rằng sự tác động của ICT là toàn diện trên cả mặt chất và lượng, cả cấu trúc của hệ thống kinh tế- kỹ thuật (techno-economic system) và hệ thống xã hội-thể chế (socio-insitutional system) của nền kinh tế.

Theo lý thuyết khuôn mẫu công nghệ, một chu kỳ lớn của một nền kinh tế trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn nảy sinh và hình thành một khuôn mẫu công nghệ mới với sự gắn kết giữa nghiên cứu phát triển và sản xuất. Có hai nhóm chủ thể đóng vai trò chủ đạo trong giai đoạn này: (1) các viện nghiên cứu, nơi nghiên cứu phát triển công nghệ mới và (2) các chủ thể kinh tế chấp nhận rủi ro, sẵn sàng đi đầu ứng dụng những giải pháp kỹ thuật, thương mại mới cho dù các lợi ích tương lai còn chưa rõ ràng. Theo Dosi (1982), các chủ thể chấp nhận rủi ro chỉ có thể là những DN nhỏ tham vọng và chưa có nhiều đề mất, cho dù trước đó công nghệ mới được đầu tư nghiên cứu ở các DN lớn. Ngược lại, Perez (1983) lại nhấn mạnh vai trò của các DN lớn. Perez phân tích hai nhóm DN sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong giai đoạn hình thành khuôn mẫu công nghệ gồm “nhóm mang” (carrier branches) và “nhóm thúc đẩy” (motive branches). Nhóm mang là những khách hành đầu tiên của công nghệ khuôn mẫu mới. Nhóm thúc đẩy chịu trách nhiệm sản xuất ra các sản phẩm công nghệ khuôn mẫu (ngành sản xuất ICT trong trường hợp khuôn mẫu ICT). Theo Perez, chỉ những DN lớn mới có thể là những chủ thể đầu tiên chạm tới giới hạn của khuôn mẫu công nghệ mới, và cũng chỉ những DN này mới đủ tiềm lực để phát triển công nghệ mới.

Trong giai đoạn thứ hai, khi một khuôn mẫu công nghệ đã hình thành bước đầu, những lợi ích của khuôn mẫu công nghệ mới cũng rõ ràng hơn, khuôn mẫu công nghệ sẽ dần dần tác động thay đổi toàn diện nền kinh tế. Đầu tiên, các chủ thể kinh tế - kỹ thuật bắt đầu áp dụng công nghệ mới do nhìn thấy lợi nhuận tiềm năng. Sau đó các yếu tố của hệ thống xã hội-thể chế bắt đầu bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, sự tác động không đơn giản, tuyến tính một chiều. Trong giai đoạn phát triển của khuôn mẫu công nghệ, người ta thấy sự tương hỗ qua lại, đan xen phức tạp của các yếu tố kinh tế- kỹ thuật và các yếu tố xã hội-thể chế. Một công nghệ mới khi áp dụng đòi hỏi một cách thức tổ chức mới, các quan hệ kinh tế, xã hội, thể chế mới để dung nạp nó. Những thay đổi này lại là tiền đề cho sự trưởng thành hơn của khuôn mẫu công nghệ. Cứ tiếp tục vòng xoáy như vậy cho đến một lúc mọi trật tự của nền kinh tế xã hội được sắp xếp lại và chúng ta có một nền kinh tế hoàn toàn khác. Các học giả của lý thuyết khuôn mẫu công nghệ gọi nền kinh tế xã hội là một hệ tiến hóa gồm 2 hệ con: hệ kinh tế- kỹ thuật và hệ xã hội-thể chế. Sự đồng tiến hóa và tương tác giữa hai hệ con sẽ tạo “khuôn” cho hệ tổng thể. Việc kết thúc một khuôn mẫu công nghệ và chuyển qua một khuôn mẫu khác cũng sẽ là kết quả của quá trình đồng tiến hóa, tương tác này.

Trường hợp của Việt Nam và kết luận

Năm 2000, hội thảo đầu tiên về kinh tế tri thức tại Việt Nam có tên Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam được Ban Khoa giáo của Đảng, Bộ Khoa học Công nghệ và Bộ Ngoại giao phối hợp tổ chức tại Hà Nội. Trong văn kiện Đại hội lần thứ 9 của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2001, lần đầu tiên thuật ngữ “kinh tế tri thức” xuất hiện. Cuối năm 2000, Bộ Chính trị cũng chính thức ban hành Chỉ thị 58 (58-CT/TW) về đẩy mạnh phát triển và ứng dụng CNTT. Từ thời điểm này, có thể nói kinh tế tri thức và CNTT đã trở thành một phần trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Việc Việt Nam tiếp cận kinh tế tri thức và phát triển ICT hoàn toàn phù hợp với vị thế của mình và phù hợp với xu hướng chung của thế giới.

Chỉ thị 58 của Bộ chính trị về CNTT chỉ rõ “CNTT là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, vǎn hoá, xã hội của thế giới hiện đại”. “Ứng dụng và phát triển CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế…” Việc nhấn mạnh về ứng dụng CNTT trong Chỉ thị 58 chứng tỏ quan điểm vĩ mô về ICT khá rõ ràng: ICT vượt qua khỏi giới hạn của một công nghệ và một ngành công nghiệp và trở thành một bộ phận không tách rời của nền kinh tế tri thức mà chúng ta hướng tới, mặc dù vị trí của ICT vẫn chưa được nhấn mạnh đầy đủ. Chỉ thị 58 cũng chỉ rõ phương hướng để phát triển ICT cho Việt Nam gồm bốn hướng đồng thời: Ứng dụng ICT, Hạ tầng ICT, Giáo dục đào tạo về ICT và Công nghiệp ICT.

Một thập kỷ qua kể từ Chỉ thị 58, Việt Nam đã đạt được những bước phát triển vượt bậc trong lĩnh vực CNTT-TT. Từ vị trí không có tên trên bản đồ CNTT-TT thế giới những năm 90 của thế kỷ thứ 20, đến nay Việt Nam đã đạt tới mức phát triển trung bình của thế giới và châu Á. Về hạ tầng CNTT, năm 1990, Việt Nam chỉ có tổng cộng khoảng 140,000-150,000 thuê bao điện thoại, tức là khoảng 500 người chung 1 thuê bao. Đến 11/2010, tổng số thuê bao điện thoại cả nước ước đạt xấp xỉ 163,8 triệu thuê bao, tức 2 thuê bao/1 người, tỷ lệ dân số Internet của Việt Nam đã trên 30% cao hơn mức trung bình của thế giới (26,6%). Công nghiệp CNTT-TT tăng trưởng nhanh, đạt mức 20-25%/năm, gấp khoảng 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP. Tổng doanh thu ngành công nghiệp ICT năm 2009 đạt 13 tỷ USD gấp 15 lần năm 2001, đóng góp 6,7% GDP của cả nước. Đã hình thành ngành công nghiệp phần mềm với tốc độ phát triển cao, bình quân 33% năm, với các hoạt động gia công xuất khẩu phần mềm được ghi nhận trong số 20 nước đứng đầu trên thế giới. Về ứng dụng ICT, trong khu vực quản lý nhà nước từ những năm 1996-1997 ICT đã được đẩy mạnh ứng dụng theo Đề án 112 và vẫn đang tiếp tục. Trong lĩnh vực kinh doanh, hầu hết các DN đều sử dụng ICT để hỗ trợ các hoạt động của mình cho dù mức độ đầu tư cho ICT còn thấp và đơn giản (Ban chỉ đạo quốc gia về CNTT 2010).

Chính phủ Việt Nam tiếp tục theo đuổi CNTT-TT. Tháng 9/2010, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Đề án Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT-TT (Quyết định 1755/QĐ-TTg). Tháng 12/2010, Ban Chỉ đạo quốc gia về CNTT-TT tổ chức họp tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 58, trong đề xuất kiến nghị đối với Đảng và Nhà nước, Ban chỉ đạo nhấn mạnh quan điểm “Ứng dụng và phát triển CNTT-TT trong giai đoạn 2011-2020 là lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư, tạo sự đột phá chiến lược, là nền tảng và động lực cho hiện đại hóa và tri thức hóa nền kinh tế, góp phần đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Việt Nam phấn đấu tới năm 2020, với sự trợ giúp của ICT làm thay đổi cấu trúc kinh tế, Việt Nam về cơ bản sẽ trở thành một nền kinh tế tri thức (Huyền Chi 2009). Nhưng cùng lúc đó những hoài nghi về vai trò và đường hướng phát triển ICT cũng xuất hiện. Không hiếm các chuyên gia cho rằng mục tiêu của chính phủ không chắc đạt được. Cả ICT cũng như kinh tế tri thức suy cho cùng không có cái quyền năng như đã được khoác lên.

Những bối rối trong phát triển ICT đưa chúng ta về những câu hỏi ban đầu: ICT là gì? Tại sao phải phát triển ICT? Cần nhấn mạnh những khía cạnh nào trong phát triển ICT? Ai là người dẫn dắt công cuộc phát triển ICT trong mỗi giai đoạn phát triển?... Như bài viết đã phân tích ở trên, quan điểm đúng đắn phát triển ICT cho phát triển kinh tế nên là quan điểm ICT là đòn bẩy của nền kinh tế, là khung mẫu công nghệ của nền kinh tế. Nhưng cũng như đã phân tích ở trên, quá trình phát triển ICT hướng tới nền kinh tế tri thức dễ bị rơi vào “cái bẫy” mà nguyên nhân chính là sự sai khác giữa nhận thức và hành động. Khi say sưa phát triển ICT, các chủ thể kinh tế dễ vì lợi ích trước mắt chẳng hạn như giá trị đóng góp của ngành ICT hay mức độ hiện đại của ứng dụng ICT mà nhìn nhận về ICT quá đơn giản như là một công nghệ hoặc một ngành công nghiệp. Kết quả là ICT và nền kinh tế có thể bị phát triển chệch hướng và dẫn tới những hoài nghi về con đường đã chọn. Vì vậy, ngay lúc này chính phủ, các tổ chức, DN, các tổ chức nghiên cứu và cộng đồng sử dụng ICT cần xem xét lại và củng cố lại cách nhìn nhận đúng đắn về ICT trong nền kinh tế. Hơn nữa, các chính phủ và chủ thể kinh tế phải xác định rõ được trạng thái phát triển của khung mẫu công nghệ ICT. Việc nhìn nhận và định vị  đúng sẽ giúp Việt Nam có những bước đi phù hợp để phát triển ICT cho phát triển nền kinh tế quốc gia.

Tài liệu tham khảo

[1]. Ban chấp hành trung ương Đảng, 2000, Chỉ thị số58-CT/TW: Về việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày 17/10/2000.

[2]. Becker, G.S., 2003, “The Productivity Boom is just Warning Up”, BusinessWeek, 20 October, p.16.

[3]. Ban chỉ đạo quốc gia về CNTT, 2010, Tổng kết 10 năm chính phủ thực hiện chỉ thị 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của bộ chính trị về “Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, tháng 12/2010.

[4]. Freeman, C., 2005, “The ICT Paradigm”, in Mansell, R. et al. (ed.), The Oxford Handbook of Information and Communication Technologies, U.S.: Oxford University Press.

[5]. Dosi, G., 1982, “Technical Paradigms and Technological Trajectories”, Research Policy, 11, pp.147-162.

[6]. Helpman, E. (ed.) , 1998, General Purpose Technologies and Economic Growth, Cambridge, MA: MIT Press.

[7]. Heeks, R., 2005, ICTs and the MDGs: On the Wrong Track? Information for Development Net, retrieved from www.i4donline.net/feb05/perspective.pdf on 20 October 2008.

[8]. Huyền Chi, 2007, “Internet: Nền tảng công nghệ cho xã hội tri thức”, VietnamNet, ngày 15/5, lấy từ http://vietnamnet.vn/cntt/2007/05/695302/ ngày 1/6/2009.

[9]. Machlup, F., 1962, The Production and Distribution of Knowledge in the United States, Princeton: Princeton University Press.

[10]. Perez, C., 1983, “Structural Change and Assimilation of New Technologies in the Economic and Social systems,” Future, October, pp. 357-375.

[11]. Perez, C., 2004, “Technological Revolutions, Paradigm Shifts, and Socio-Institutional Change”, in Erik, R. (ed.), Globalization, Economic Development and Inequality: An Alternative Perspective, Cheltenham, UK, Northampton, MA, USA: Edward Elgar, pp. 217-242.

[12]. Romer, P.M, 1986, “Increasing Returns and Long-run Growth”, Journal of Political Economy, 94(5), pp. 1001-1035,

[13]. Shiller, R., 2000, Irrational Exuberance, New York: Princeton University Press.

[14]. Sollow, R.M., 1957, “Technical Change and the Aggregate Production Function”, Review of Economics and Statistics, 39(1957), pp. 312-320

[15]. World Bank, 1999, Knowledge for Development, World Development Report 1998-1999.

Chú thích:

[1] Nguyên gốc tiếng Anh của từ dịch có khác nhau giữa các tác giả. Dosi (1982) sử dụng thuật ngữ “technological paradigm”, Freeman (1983) là “technological system” và Perez (1983) là “technological style”, tuy nhiên giải thích của các tác giả này đều thống nhất với nhau.

Kinh doanh LTE - Mô hình nào là phù hợp?

(ICTPress) - Khi lựa chọn một mô hình kinh doanh phù hợp cho LTE, một nhà khai thác cần xem xét cả hai tiêu chí là tài chính và chiến lược. 

Các nhà khai thác trên toàn thế giới hiện nay đang đánh giá vai trò của LTE trong toàn bộ công việc kinh doanh của mình, bởi vì LTE sẽ mang lại những lợi ích như tiết kiệm hơn do sự sẵn sàng của phổ tần bổ sung và người sử dụng sẽ được trải nghiệm cao hơn nhờ có những cải tiến về công nghệ.

Phổ tần mà LTE có thể được triển khai sẽ sẵn sàng thông qua các phân bổ mới (700/800MHz, 2.6GHz) hay xác định lại (1.8GHz).

- Sự sẵn sàng của phổ tần bổ sung trong những băng tần này cho phép các mạng hiệu quả hơn về chi phí đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cho dữ liệu từ các máy cầm tay và các mdeom USB.

- LTE sẽ cho phép các nhà khai thác cung cấp các dịch vụ với các tốc độ cao có thể so sánh với các tốc độ của băng rộng cố định.

Các nhà khai thác đang đánh giá ba mô hình kinh doanh cho LTE, như tóm tắt trong Hình 1.

  1. LTE mọi nơi: Một triển khai mạng mạnh mẽ với sự hợp lý trong kinh doanh để cung cấp một dịch vụ tốt trên thị trường cũng như khả năng làm giảm các chi phí mạng khi được đánh giá trong giai đoạn 5 đến 7 năm. Chi phí mạng thấp hơn là kết quả của việc tránh các đầu tư do công suất thúc đẩy vào HSPA trong những năm đầu. Điển hình, các nhà khai thác di động thuần túy (như CSL ở Hong Kong) là các nhà khai thác có thể chấp nhận mục tiêu này.

  2. LTE vùng nóng: Các triển khai LTE tập trung ở vùng nóng để giảm nghẽn mạng và dần mở rộng vùng phủ theo một tiến hóa công nghệ được quản lý. Trong khi đó cũng có một số khả năng để tăng ARPU (ví dụ, bằng cách cung cấp các tải cao LTE chỉ trong các gói cuối cao hơn, hợp lý chính cho chiến lược này là quản lý các yêu cầu công suất ngắn hạn và các chi phí hiệu quả. Điển hình các công ty tích hợp hiện nay (như T-Mobile ở Đức) có thể chấp nhận xu hướng này.

  3. LTE để tiếp thị: các triển khai hạn chế và chọn lựa để sử dụng như là một thông điệp tiếp thị trong việc gián nhãn thế hệ sau cho các khách hàng. Điển hình, các nhà khai thác bị ràng buộc phổ tần (như M1 ở Singapore) phần lớn là có thể chấp nhận xu hướng này.

Khi lựa chọn một mô hình kinh doanh phù hợp cho LTE, một nhà khai thác cần xem xét cả hai tiêu chí là tài chính và chiến lược:

Để đánh giá tiêu chí tài chính cần tính đến các chi phí đáp ứng các yêu cầu cung sử dụng các vị trí/nhà khai thác HSPA:

- Các chi phí nâng cấp mạng lên LTE

- Doanh thu phía trên từ các dịch vụ di động điển hình ARPU cao hơn

- Sự phổ biến (được mong đợi) của các máy cầm tay và modem USB giá cạnh tranh

- Chiến lược phổ tần toàn diện của nhà khai thác, bao gồm vai trò tiềm năng phổ tần kép TD-LTE

Để đánh giá tiêu chí chiến lược cần tính đến sự thay đổi trong hành vi người sử dụng và sự linh hoạt cạnh tranh tiềm năng xuất phát từ việc triển khai LTE. Ví dụ:

- LTE tiềm năng mang lại cho các nhà khai thác di động cơ hội thúc đẩy sử thay thế cố định-di động cho băng rộng, mặc dù các thách thức khả năng lợi nhuận là có.

- Chấp nhận LTE có thể mang lại cho nhà khai thác một vị trí dẫn đầu công nghệ đặc biệt là giải quyết các phần mảng giá trị cao như phân mảng khách hàng doanh nghiệp.

Linh Hoàng

Tham khảo: AnalysysMason.com, telecomasia

Nội dung Luật tần số vô tuyến điện (Phần 3)

Luật Tần số VTĐ gồm 8 chương, 49 điều đã được soạn thảo công phu, khá chi tiết, bao quát được các vấn đề liên quan đến công nghệ, tạo hành lang pháp lý nhằm tăng cường quản lý nhà nước về tần số VTĐ, đáp ứng yêu cầu hội nhập và tình hình phát triển đất nước. Phần 3 này giới thiệu Chương 5 đến Chương 8 của Luật Tần số VTĐ.

Ảnh minh họa: Internet

V. Chương 5. Kiểm tra, kiểm soát tần số VTĐ

Chương này gồm 7 điều (từ Điều 34 đến Điều 40) quy định đối tượng và trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát tần số VTĐ; các hình thức kiểm tra; các biện pháp hạn chế nhiễu có hại, nguyên tắc, thủ tục xử lý nhiễu có hại; quy định về hành lang an toàn kỹ thuật của đài VTĐ.

Để có thể kiểm soát thường xuyên các sóng VTĐ đang được sử dụng của Việt Nam cũng như của nước ngoài phát đến Việt Nam cần có hệ thống trang thiết bị chuyên dụng, hiện đại, công nghệ cao (bao gồm các trạm kiểm soát cố định, trạm kiểm soát lưu động, trạm kiểm soát điều khiển từ xa, các xe thiết bị chuyên dùng, máy định vị, máy đo với độ chính xác cao…) mà hiện nay Việt Nam vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài với chi phí đầu tư mua sắm khá lớn.

Nhờ có hệ thống kiểm soát hiện đại, từ năm 1993 đến nay, có khoảng 860 vụ can nhiễu đã được giải quyết, trong đó có nhiều vụ xác định nguồn nhiễu hết sức khó khăn phức tạp như nhiễu cho hệ thống điều hành bay hàng không, nhiễu cho các mạng thông tin di động; đã phát hiện và xử lý là gần 9000 vụ vi phạm quy chế sử dụng tần số và thiết bị phát sóng VTĐ; ngăn chặn kịp thời các vụ vi phạm, các vụ lợi dụng tần số VTĐ để phá hoại sản xuất, kinh doanh viễn thông trái pháp luạt (sử dụng lậu các trạm thông tin vệ tinh VSAT để cung cấp dịch vụ viễn thông, các hãng taxi phá sóng của nhau, v.v…).

1. Đối tượng chịu sự kiểm tra, kiểm soát tần số VTĐ

Tất cả tổ chức, cá nhân sử dụng tần số và thiết bị VTĐ trên lãnh thổ Việt Nam, kể cả tổ chức, cá nhân nước ngoài đều phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát về tần số VTĐ.

2. Trách nhiệm về kiểm tra, kiểm soát tần số VTĐ

Luật này phân định rõ trách nhiệm của các Bộ về kiểm tra, kiểm soát tần số VTĐ trong cả 3 lĩnh vực dân sự - an ninh – quốc phòng.

Bộ TT&TT chịu trách nhiệm về kiểm tra, kiểm soát chung trên phạm vi cả nước; được phép thành lập đoàn kiểm tra và quy định các nội dung kiểm tra cũng như thủ tục kiểm tra, trách nhiệm của đối tượng chịu sự kiểm tra.

Bộ Công An và Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm về kiểm tra, kiểm soát tần số dành riêng cho mục đích quốc phòng và an ninh.

Điểm mới trong điều luật này là quy định kết quả kiểm tra, kiểm soát, thu, đo tham số kỹ thuật của cơ quan nhà nước là bằng chứng để xác định và xử lý hành vi vi phạm pháp luật cũng như xử lý nhiễu có hại.

3. Các hình thức kiểm tra

Gồm có 2 hình thức: định kỳ và đột xuất.

Kiểm tra định kỳ là kiểm tra theo chương trình đã lên kế hoạch trước. Kiểm tra đột xuất chỉ thực hiện khi giải quyết nhiễu có hại hoặc khi có dấu hiệu vi phạm.

4. Biện pháp hạn chế nhiễu có hại

- Chỉ phát trong phạm vi sai lệch tần số cho phép.

- Giảm mức phát xạ không mong muốn xuống mức nhỏ nhất.

- Sử dụng phương thức phát có độ rộng băng tần chiếm dụng nhỏ nhất tương ứng với công nghệ sử dụng.

- Hạn chế thu, phát ở những hướng không cần thiết.

- Sử dụng mức công suất nhỏ nhất đủ để bảo đảm chất lượng thông tin.

5. Nguyên tắc xử lý nhiễu có hại

- Ưu tiên xử lý cho tần số phát trong độ rộng băng tần cho phép.

- Ưu tiên cho các nghiệp vụ chính trước. Trường hợp cần phải thay đổi tần số hoặc các tham số kỹ thuật để xử lý nhiễu có hại thì các nghiệp vụ chính được ưu tiên giữ nguyên tần số, nghiệp vụ phải đổi tần số hoặc điều chỉnh các tham số kỹ thuật.

- Tổ chức, cá nhân sử dụng đài gây nhiễu được yêu cầu áp dụng các biện pháp khắc phục như thay đổi tần số, hạn chế công suất phát, thay đổi chiều cao, hướng tính, phân chia lại thời gian làm việc…

- Yêu cầu tổ chức, cá nhân sử dụng thiết bị điện, điện tử, thiết bị ứng dụng sóng VTĐ gây nhiễu phải thực hiện các biện pháp loại bỏ nhiễu hoặc ngừng sử dụng nếu gây nhiễu cho dẫn đường, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh cho đến khi khắc phục xong nhiễu.

- Khi không sử dụng đúng quy định của giấy phép mà gây nhiễu thì phải chịu chi phí cho việc chuyển đổi tần số, thiết bị và phải bồi thường nếu gây thiệt hại.

- Khi gây nhiễu phải khắc phục nhiễu và bị xử lý theo quy định của pháp luật.

6. Thủ tục xử lý nhiễu có hại

- Thông báo cho cơ quan quản lý về nhiễu theo mẫu quy định để cung cấp các thông tin liên quan đến nhiễu.

- Thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan quản lý chuyên ngành tần số VTĐ để xác định nguồn nhiễu, nguyên nhân và biện pháp xử lý nhiễu theo hướng dẫn.

7. Hành lang an toàn kỹ thuật của đài VTĐ

Hành lang an toàn kỹ thuật của đài VTĐ nhằm đảm bảo các đài VTĐ (đặc biệt là đài định hướng sóng VTĐ, đài thông tin vệ tinh…) không bị che chắn sóng bởi các cấu trúc, công trình xung quanh, làm ảnh hưởng đến tính năng hoạt động của đài.

Luật quy định xây dựng Thông tư liên tịch giữa Bộ Xây dựng, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Bộ TT&TT để quy định chi tiết các điều kiện về kỹ thuật, khoảng không gian cần thiết cũng như công bố Danh sách đài VTĐ có hành lang an toàn kỹ thuật phải được đảm bảo kèm theo địa chỉ, địa điểm lắp đặt.

VI. Chương 6. Đăng ký, phối hợp quốc tế về tần số VTĐ, quỹ đạo vệ tinh

Chương này gồm 4 điều (từ Điều 41 đến Điều 44) trong đó xác định đối tượng cần đăng ký, phối hợp quốc tế về tần số VTĐ và quỹ đạo vệ tinh; trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước và của các tổ chức, cá nhân trong việc đăng ký, phối hợp quốc tế về tần số VTĐ cho hệ thống vệ tinh, hệ thống mặt đất và trong cả việc phối hợp trực tiếp với tổ chức sử dụng tần số VTĐ, quỹ đạo vệ tinh của nước ngoài.

Hợp tác quốc tế về tần số VTĐ bao gồm đăng ký tần số và quỹ đạo vệ tinh, phối hợp tần số quốc tế. Hoạt động này được quy định trong Luật phù hợp với các chính sách chung về hợp tác quốc tế, như nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền bình đẳng cùng có lợi của các quốc gia nhưng cũng có một số điểm khác biệt.

Điều 41 của Luật quy định về 5 trường hợp phải đăng ký, phối hợp quốc tế. Điều 42, 43 của Luật này quy định rõ trách nhiễm của cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này và quy định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc tham gia đàm phán, ký kết để tạo thêm nguồn lực, tăng cường khả năng phối hợp quốc tế, bảo vệ các quyền lợi quốc gia trong lĩnh vực này. Điều 44 cho phép các tổ chức, doanh nghiệp sử dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh trong nước phối hợp trực tiếp với tổ chức sử dụng tần số, quỹ đạo vệ tinh của nước ngoài nhưng kết quả của việc phối hợp này chỉ có hiệu lực khi được Bộ TT&TT phê duyệt trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia và phù hợp với quy định của Liên minh Viễn thông quốc tế.

VII. Chương 7. Quản lý và sử dụng tần số VTĐ phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh

Chương này gồm 3 điều (từ Điều 45 đến Điều 47) quy định việc phân bổ băng tần phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh; quản lý sử dụng các băng tần được phân bổ phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh; quản lý và sử dụng thiết bị gây nhiễu dùng cho mục đích quốc phòng, an ninh.

1. Phân bổ tần số VTĐ phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh

Đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tần số, không những đảm bảo quyền sử dụng tài nguyên tần số quốc gia cho an ninh, quốc phòng mà còn làm giảm khả năng can nhiễu có hại giữa các hệ thống thông tin phục vụ nhiệm vụ kinh tế xã hội với các mạng thông tin phục vụ an ninh, quốc phòng.

Bên cạnh các quy hoạch phổ tần số quốc gia, quy hoạch băng tần, quy hoạch phân kênh, Bộ TT&TT còn được giao chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, An ninh trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mục đích của việc này là phân chia một số đoạn băng tần để sử dụng: dùng riêng cho mục đích quốc phòng, mục đích an ninh, mục đích kinh tế - xã hội; hay để sử dụng chung.

Ở một số nước, việc phân chia này được quy định luôn trong quy hoạch phổ tần quốc gia, nhưng với Việt Nam việc phân chia được quy định trong một văn bản riêng. Theo từng thời kỳ, trên cơ sở Quy hoạch tần số VTĐ quốc gia, Bộ TT&TT chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đề xuất việc phân bổ băng tần phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh theo tỷ lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định phân bổ băng tần giữa quốc phòng, an ninh, kinh tế xã hội từ 9kHz đến 470 MHz (Quyết định số 257/2006/QĐ-TTg).

2. Quản lý, sử dụng tần số VTĐ phục vụ mục đích quốc phòng, aninh

Việc phân bổ băng tần phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh thể hiện sự phân cấp quản lý của nhà nước đối với Bộ Quốc phòng và Bộ Công an trong lĩnh vực tần số VTĐ. Bộ Quốc phòng và Bộ Công an có trách nhiệm tổ chức quản lý, sử dụng đúng mục đích các băng tần số được phân bổ. Việc làm này nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tần số, không những đảm bảo quyền sử dụng tài nguyên tần số quốc gia cho an ninh, quốc phòng, đồng thời còn làm giảm khả năng gây nhiễu có hại giữa các hệ thống thông tin phục vụ các mục đích kinh tế xã hội với an ninh và quốc phòng.

3. Quản lý và sử dụng thiết bị gây nhiễu

Lần đầu tiên, vấn đề quản lý và sử dụng thiết bị gay nhiễu đã được đưa vào trong Luật. Theo đó, việc sử dụng thiết bị gây nhiễu chỉ được cho phép đối với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an để giúp hoàn thành nhiệm vụ được giao. Các cơ quan, tổ chức không thuộc 2 Bộ này, muốn sử dụng phải được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ.

VIII. Chương 8. Điều khoản thi hành

Chương này gồm 1 điều (Điều 49) quy định thời gian có hiệu lực thi hành của Luật bắt đầu từ 1/7/2010, bãi bỏ Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông số 43/PL-UBTVQH10 kể từ ngày 1/7/2010.

Kết luận

Về cơ bản các nội dung của dự thảo Luật đã phù hợp và thống nhất với hệ thống pháp luật Việt Nam, cụ thể hóa các chủ trương, chính sách, của Đảng và Nhà nước.

Kết cấu Luật gồm 8 chương, 49 điều đã được soạn thảo công phu, khá chi tiết, bao quát được các vấn đề liên quan đến công nghệ, tạo hành lang pháp lý nhằm tăng cường quản lý nhà nước về tần số VTĐ, đáp ứng yêu cầu hội nhập và tình hình phát triển đất nước, những quy định của Luật đã giải quyết phần lớn các vấn đề bất cập của pháp luật nước ta trong lĩnh vực tần số VTĐ và phù hợp với các điều ước quốc tế về tần số VTĐ mà Việt Nam đã tham gia ký kết và là thành viên./.