“Giấc mơ Việt Nam tôi”: cuốn sách tâm huyết cho giáo dục, khoa học Việt Nam
Dù là sách bút ký, nhưng tác phẩm “Giấc mơ Việt Nam tôi” như một cuộc phiêu lưu thích thú giữa những tình cảm sôi sục khôn nguôi của tác giả nhưng luôn toát lên tinh thần phục vụ, xây dựng, tạo sự tiến bộ không ngừng để phát triển nền khoa giáo Việt Nam.
Tấm gương mẫu mực cho hàng ngàn sinh viên Việt Nam
Tác giả cuốn sách “Giấc mơ Việt Nam tôi” là GS. Nguyễn Đăng Hưng, là một trong những người tiên phong hợp tác học thuật Bỉ - Việt. Sớm sang Bỉ từ tháng 12/1960, ông đã đạt thành quả rất tốt khi theo học ngành kỹ sư vật lý, rồi cấp bậc tiến sĩ tại Đại học (ĐH) Liège.
Ông thực thi sự nghiệp giáo dục ĐH từ năm 1966 cho đến năm 2006 qua nhiều chức vị: nghiên cứu sinh, trợ lý, phó giáo sư rồi trở thành giáo sư thực thụ về ngành Cơ học Chất rắn. Ông cũng là một chuyên gia nổi tiếng quốc tế về ngành khoa học mũi nhọn này.
Vì những thành quả đó, Giáo sư đã nhiều lần được vinh danh, nhiều lần được tặng thưởng từ hai phía, Bỉ cũng như Việt Nam. Ông còn được các cơ quan ngôn luận Bỉ đề cao là một trong những công dân Bỉ gốc nước ngoài đã có cống hiến cho việc làm thay đổi nước Bỉ. Đặc biệt, ông cũng là người đề xướng và điều phối các chương trình Cao học Bỉ - Việt EMMC và MCMC.
Với nỗ lực vượt bậc, nhưng trên đất người, Giáo sư chưa từng nguôi ngoai về Giấc mơ Việt Nam. Ông luôn mong mỏi góp sức cho sự nghiệp giáo dục, khoa học Việt Nam. Cuốn sách “Giấc mơ Việt Nam tôi” của ông là cả một hành trình dài từ những ngày nung nấu giấc mơ ấy đến những bước đi nhỏ trên con đường đầy gập ghềnh, khó khăn cho đến những thành quả được cả hai chính phủ Bỉ và Việt Nam công nhận.
Trong “Tập 1: Đi xa về gần”, tác giả đã tập hợp những bài viết, bài phỏng vấn của mình trong suốt một thời gian rất dài. Ông chia sẻ những kinh nghiệm, những kỷ niệm về việc hợp tác ĐH giữa Bỉ và Việt Nam. Đặc biệt, nhấn mạnh đến chương trình đào tạo cao học giữa các trường đại học Bỉ và các trường đại học bách khoa Việt Nam. Đây là những chương trình do Giáo sư Hưng điều phối, đã đạt được nhiều thành tựu to lớn từ năm 1995 đến năm 2006. Dự án tuyệt vời đó là một đuốc sáng của hợp tác song phương, được tài trợ luân phiên từ Chính phủ Liên bang Bỉ, Cộng đồng nói tiếng Pháp ở Bỉ và quốc tế rồi Liên hiệp châu Âu.
GS Nguyễn Đăng Hưng đã chế ra hệ thống “du học tại chỗ” (Trong Phần 1: Trái đắng và Quả ngọt - Học ở Việt Nam vẫn lấy được bằng thạc sĩ châu Âu), vừa là một công cuộc đào tạo rộng rãi và cũng vừa là cách để tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước. Để làm việc quá mới mẻ này, ông đã không ngần ngại chiến đấu can trường trong nhiều năm với nhiều nền giáo dục, đẩy lui những định kiến và vượt qua những thái độ bảo thủ. Những nhận xét sâu sắc và những kiến nghị vô cùng tích cực của Giáo sư trong cuốn sách chắc chắn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo quý giá như những ai đang mong muốn phát triển nền giáo dục nước nhà.
Sự nghiệp của Giáo sư Hưng đã và đang là tấm gương mẫu mực cho hàng ngàn sinh viên Việt Nam sang Bỉ học tập và tu nghiệp. Nhiều học trò của ông giờ đây là các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ… đang lan tỏa những điều tốt đẹp đóng góp cho đất nước. Qua từng bài viết trong tập sách này của ông, bạn đọc sẽ không khỏi khâm phục, xúc động, và kính nể con người nhiệt huyết ấy…
Những trích đoạn cảm động trong “Giấc mơ Việt Nam tôi”
Cuốn sách đã ghi lại những dòng thương nhớ của tác giả: “Tôi sinh ra ở Điện Bàn, Quảng Nam. Ba tôi là trí thức miền Trung. Trong một lần gặp gỡ Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại tư dinh của Đại tướng, cùng với một phóng viên Báo Tiền Phong, tôi có nói tên ba mình và được ông cho biết, ba tôi khi xưa là bạn học thân thiết của ông. Câu chuyện cũng được vài tờ báo đăng tường thuật. Năm 1949, ba tôi mang tôi đi theo kháng chiến, làm việc cho UBND tỉnh Quảng Nam đóng ở vùng núi Tiên Phước, Tam Kỳ, lúc đó gọi là Liên khu 5. Không thể mang con theo khi làm việc nên ông giao tôi cho một gia đình nông dân. 12 tuổi, tôi vẫn là cậu bé học hành chỉ đủ biết đọc, biết viết.
Khi hòa bình lập lại, ba con tôi trở về quê nhà mới hay má tôi và cô tôi đã bị Pháp sát hại trong một trận càn. Thương các con cù bơ cù bất nên ông không đi tập kết mà đưa tôi vào Sài Gòn. Tôi bắt đầu con đường học vấn chính quy. Tôi phải lấy được bằng tiểu học thật sớm. Đây là bằng tôi quý nhất trong cuộc đời mình. Phải có bằng này tôi mới tiếp tục học lên được. Để có nó, từ một cậu bé thất học, tôi đã học rất cật lực để đạt được bằng tiểu học chỉ trong một năm.
[…] Thương ba mình “gà trống nuôi con”, tôi chỉ có cách vươn lên bằng con đường học tập, không chỉ phải đậu tú tài trước 18 tuổi để khỏi đi lính mà còn phải cố lấy cho được suất học bổng đi du học. Sau khi có bằng tiểu học, tôi thi và đậu vào trường Pétrus Trương Vĩnh Ký. Tôi lên
kế hoạch học nhảy cóc. Sáng tôi đi học trường Pétrus Ký nhưng tối đi học tư để thi lấy các bằng đệ ngũ, đệ tứ, đệ tam và thi tú tài. Tôi thuộc năm người đứng đầu kỳ thi Tú tài 2 khi vừa 18 tuổi, đủ tiêu chuẩn được du học. […]
“Tôi đi du học năm 1960, năm 1966 ra trường, là kỹ sư tốt nghiệp tại châu Âu, nếu về nước ngay có lẽ sẽ làm to. Nhưng chúng tôi nhất quyết không về vì lý do dễ hiểu là nước nhà đang có chiến tranh. Mãi cho tới năm 1976, sau hòa bình, chúng tôi mới về, lòng hân hoan phấn khởi lắm vì tiếng súng đã ngưng tại quê nhà. Lần đầu tiên về nước Việt Nam thống nhất, cái mà tôi thiết tha nhất là hòa bình đã đến với dân tộc”.
Daniel Dufresne, Giáo sư ĐH, nguyên Phó Viện trưởng Viện ĐH Marseille, Pháp chia sẻ: “…GS Nguyễn Đăng Hưng không chỉ là một nhà khoa học tiếng tăm qua những thành quả khoa học đã xuất bản mà còn là một nhà hùng biện, một nghệ sĩ văn học và âm nhạc! Hơn nữa, ông Hưng là một người bạn trung thành và tận tụy. Tôi có thể nói GS Nguyễn Đăng Hưng là một con người đáng được ngưỡng mộ và bản thân tôi cảm thấy rất tự hào vì đã gặp được ông trong đời!”
Còn theo Giulio Maier, Giáo sư Danh dự thực thụ Đại học công nghệ Milano, nguyên Chủ tịch Hội Cơ học Ý, nguyên Viện trưởng Viện Cơ học Quốc tế Udine, “… Cách đây một phần tư thế kỷ, tôi đã thích thú về cách tiếp cận đa dạng của GS Nguyễn Đăng Hưng trong nghiên cứu khoa học. Ngày nay, qua cuốn sách này tôi lại bị cuốn hút về sự phong phú của các tư liệu tập hợp được. Đây là chứng cớ của một tài năng hiếm có, có khả năng khỏa lấp những cách biệt giữa “hai nền văn hóa”, giữa những phân ly của khoa học và nhân văn…”
Giáo sư - Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp Bùi Huy Đường chia sẻ: “… Tôi thật ấn tượng bởi thành quả của GS Nguyễn Đăng Hưng, không những trong lĩnh vực khoa học mà còn trong nỗ lực tìm ra tài trợ giúp đỡ học viên và nghiên cứu sinh từ các tổ chức quốc tế… Từ đó, tôi thấu hiểu được lý do tại sao ông đã nhận lãnh được nhiều huân chương, bằng khen từ cả hai phía Bỉ và Việt Nam…”.
GS Nguyễn Đăng Hưng sinh ngày 1/1/1941 tại làng Bồ Mưng, xã Thanh Quýt (nay là xã Điện Thắng Bắc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Ông là cựu học sinh trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký và Chu Văn An (Sài Gòn); Giáo sư thực thụ, Tiến sĩ Khoa học đặc biệt (docteur spécial) Đại học Liège; Người sáng lập Văn phòng đào tạo Cao học Bỉ – Việt EMMC (European Master in Mechanics of Construction) tại Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh. Ồng nhận Huy chương của Hàn lâm Viện Khoa học, Văn học và Nghệ thuật Hoàng gia Bỉ năm 1984; Huy chương Lao động hạng Nhất của Chính phủ Bỉ năm 1996; Huân chương “Đại sĩ quan của Vua Léopold II”, Vương quốc Bỉ năm 1999; Huân chương “Đại sĩ quan của Hoàng gia, Vương quốc Bỉ”. (2006) Ông được vinh danh là một trong 12 người nước ngoài làm đổi thay nước Bỉ. (Tuần báo VIF-EXPRESS, 16.7.1999)./. |
ND