Syndicate content

Thời sự ICT

Tốc độ 5G tại Việt Nam chỉ nhanh khi hạ tầng cáp quang đủ mạnh

Tóm tắt: 

Các dịch vụ mới ra đời sẽ ngày càng có tiêu chuẩn cao hơn, cùng nghĩa với việc tiêu tốn băng thông nhiều hơn. Do đó, Việt Nam phải có hạ tầng cáp quang đủ tốt mới có thể triển khai được hết các ứng dụng của 5G.

Các dịch vụ mới ra đời sẽ ngày càng có tiêu chuẩn cao hơn, cùng nghĩa với việc tiêu tốn băng thông nhiều hơn. Do đó, Việt Nam phải có hạ tầng cáp quang đủ tốt mới có thể triển khai được hết các ứng dụng của 5G.

Sáng 17/10, Hội đồng FTTH Châu Á – Thái Bình Dương (FTTH Council Asia-Pacific) và Hiệp hội Internet Việt Nam (VIA) đã tổ chức hội thảo Vietnam FIBERTalk 2019.

Đây là một hội thảo hẹp với sự tham gia chủ yếu của cộng đồng người làm viễn thông trong nước và một số đơn vị nước ngoài. Hội thảo là bước chuẩn bị cho sự kiện thường niên lần thứ 15 “FTTH Asia Pacific Conference” dự kiến được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 5/2020.  

Vietnam FIBERTalk 2019 mang đến nhiều thông tin cho ngành công nghiệp viễn thông của Việt Nam thông qua sự trao đổi, chia sẻ từ các chuyên gia trong và ngoài nước về những vấn đề nóng trong triển khai hạ tầng cáp quang và hạ tầng viễn thông.

Việt Nam phát triển cả băng rộng cố định và băng rộng di động

Việt Nam hiện có khoảng 14 triệu thuê bao băng rộng cố định, chủ yếu là các thuê bao FTTH. Mật độ băng rộng cố định hiện mới chỉ ở mức xấp xỉ 15%, do vậy nhu cầu phát triển hạ tầng băng rộng cố định tại Việt Nam hiện còn rất lớn. 

Với việc tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam thường duy trì ở mức 6-7%/năm, nhu cầu kinh doanh của các hộ gia đình, các công ty, doanh nghiệp cũng tỷ lệ thuận theo đó. Cùng với nhu cầu kinh doanh ngày một lớn hơn, hạ tầng kết nối cáp quang và băng rộng cố định cũng sẽ phát triển. 

Ông Phan Thảo Nguyên, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế (Bộ TT&TT). Ảnh: Trọng Đạt

Theo đánh giá của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), nếu mật độ băng rộng cố định vượt ngưỡng 20%, GDP nền kinh tế của một quốc gia sẽ tăng thêm 0,38% nếu tốc độ phát triển mật độ thuê bao tăng rộng tăng 10%.

Hiện nay, Bộ TT&TT đã cấp giấy phép cho các nhà mạng tại Việt Nam để bắt đầu thử nghiệm công nghệ 5G tại một số thành phố lớn. Việt Nam xác định sẽ không đi chậm so với các nước trong quá trình phát triển 5G.

Theo ông Phan Thảo Nguyên, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế (Bộ TT&TT), Bộ nhìn cả góc độ phát triển băng rộng cố định cũng như băng rộng di động trên cơ sở chính sách đồng nhất và song song nhau. 

Bộ TT&TT cũng xác định sẽ phát triển hạ tầng cố định băng rộng trên cơ sở cáp quang. Đây là yếu tố hạ tầng rất quan trọng để phát triển toàn bộ hạ tầng CNTT của Việt Nam trong tương lai. Đặc biệt là khi, Việt Nam đang thực hiện một loại các đề án, dự án liên quan đến tiến trình chuyển đổi số quốc gia, trong đó có việc triển khai đô thị thông minh và chính phủ điện tử. 

5G thành hay bại phụ thuộc vào hạ tầng cáp quang

Việt Nam đang có những bước đi mạnh mẽ nhằm tiến tới việc theo mại hóa 5G vào năm 2020. Ở thời điểm hiện tại, Viettel là nhà mạng duy nhất đã triển khai phát sóng thử nghiệm mạng 5G. Trong khi đó, MobiFone dự kiến sẽ phát sóng thử nghiệm 5G trong tháng 10/2019 và với VNPT là tháng 11/2019.

Việc thử nghiệm 5G đang được các nhà mạng Việt Nam gấp rút triển khai với mục tiêu thương mại hóa 5G vào năm 2020.

Tháng 4/2017 Huawei thông báo đã tiến hành thử nghiệm thành công 5G với tốc độ lên đến 70 Gbit/s trong môi trường phòng thí nghiệm có kiểm soát ở Na Uy. Trong khi đó tại Việt Nam, tốc độ kết nối trong các bài thử nghiệm mạng 5G đầu tiên dao động từ 1 - 1.3Gbps. Trước thông tin này, nhiều nhà cung cấp dịch vụ cáp quang có cảm giác quan ngại trong trường hợp 5G được triển khai rộng rãi.

Theo ông Lương Phạm Nam Hoàng - Phó Trưởng phòng Cấp phép và Thị trường (Cục Viễn thông - Bộ TT&TT): “Hệ thống cáp quang cũng giống như mạch máu trong cơ thể. Trong khi đó 5G là các mao mạch nhỏ hơn giúp lấy máu từ mạch chính để truyền đi các bộ phận”.

“Nói nôm na, so với 4G, 5G là một phương mới, sử dụng các công nghệ mới để truyền tải toàn bộ năng lực của mạng truyền dẫn đến người dùng di động. 5G hướng đến việc thu phí rất ít nhưng thu với khối lượng rất lớn, bắt nguồn từ nhu cầu kết nối của hệ thống các thiết bị IoT ở tất cả mọi nơi”, ông Hoàng cho biết.

Với quan điểm như vậy, năng lực của mạng cáp quang là một trong những yêu cầu cơ bản nhất để hiện thực hóa được việc triển khai các dịch vụ 5G.

Theo ông Lương Phạm Nam Hoàng - Phó Trưởng phòng Cấp phép và Thị trường (Cục Viễn thông), chất lượng mạng cáp quang sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc ứng dụng và triển khai mạng 5G. Ảnh: Trọng Đạt

Theo vị Phó Trưởng phòng Cấp phép và Thị trường (Cục Viễn thông), tương lai của mạng cáp quang đầy hứa hẹn. Mạng cáp quang vẫn sẽ phát triển và cần phải được đầu tư rất nhiều, nhất là khi Chính phủ Việt Nam và nhiều quốc gia khác đang hướng tới các chương trình chuyển đổi số quốc gia. Bên cạnh đó, khi 5G được thương mại hóa thì vai trò của hệ thống cáp quang lại ngày càng quan trọng.

Dư địa phát triển của cáp quang còn rất lớn. Các nhà mạng có thể bắt tay cùng nhà nước để chia sẻ trách nhiệm trong việc thúc đẩy sự phát triển hạ tầng cáp quang. Ví dụ như hệ thống cống, bể cáp,... tại các địa phương. Các doanh nghiệp cũng nên chủ động phát triển hạ tầng thay vì đi thuê lại của các nhà mạng khác, ông Hoàng cho biết.

Trọng Đạt/vietnamnet.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

An toàn thông tin, an ninh mạng là yếu tố sống còn để chuyển đổi số quốc gia

Tóm tắt: 

An toàn, an ninh mạng là điều kiện cơ bản, là yếu tố sống còn để thực hiện thành công chuyển đổi số quốc gia.

An toàn, an ninh mạng là điều kiện cơ bản, là yếu tố sống còn để thực hiện thành công chuyển đổi số quốc gia. Tạo ra môi trường an toàn là điều kiện tiên quyết trong quá trình chuyển đổi số cũng như Chính phủ điện tử.

Đây là một trong những nội dung quan trọng được đề cập tại Hội nghị "Bảo đảm an toàn thông tin trong Chuyển đổi số quốc gia và Chính phủ điện tử" do Cục An toàn thông tin (Bộ TT&TT) tổ chức tại Bà Rịa - Vũng Tàu sáng 17/10.

Hội nghị có sự tham gia của 26 Sở các tỉnh phía Nam, các bộ, ngành liên quan, các tổng công ty, tập đoàn có đại diện tại khu vực.

Chủ đề của Hội nghị tập trung vào an toàn thông tin, điều kiện cơ bản để thực hiện Chuyển đổi số quốc gia và Chính phủ điện tử.

Ông Nguyễn Khắc Lịch, Phó Cục trưởng Cục ATTT (Bộ TT&TT) trình bày tham luận tại hội nghị.

Với sự xuất hiện của một số công nghệ mới mang tính đột phá, như AI, Big Data, IoT, cuộc cách mạng số đang gia tăng tốc độ, xuất hiện cơ hội để hình thành xã hội thông minh. Để tận dụng cơ hội của công nghệ số, các quốc gia phải thực hiện chuyển đổi số. Năm 2019 này, Việt Nam sẽ xây dựng đề án chuyển đổi số quốc gia, để xây dựng nền kinh tế số, xã hội số.

An toàn, an ninh mạng là điều kiện cơ bản, là yếu tố sống còn để thực hiện thành công chuyển đổi số quốc gia. Tạo ra môi trường an toàn để chính phủ, doanh nghiệp và người dân sử dụng công nghệ số là điều kiện tiên quyết trong quá trình chuyển đổi số cũng như Chính phủ điện tử. Việt Nam mong muốn và phải tạo ra một không gian an toàn để thực hiện các giao dịch số.

Hiện nay, Internet cũng như các công nghệ trong cuộc cách mạng số đang ngày càng đi sâu vào mọi mặt cuộc sống, tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội, nhưng đồng thời tiềm ẩn nhiều nguy cơ, rủi ro về mất an toàn, an ninh mạng.

 

Do đó, giải pháp bắt đầu từ vấn đề nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi người dân trong môi trường mạng là vô cùng quan trọng. Từ nhận thức đúng sẽ có hành động đúng và từ hành động đúng sẽ có thói quen an toàn, lành mạnh trên không gian mạng. Điều này cần sự chung tay của toàn xã hội, mỗi cá nhân trong cộng đồng này nhằm duy trì, phát triển an toàn thông tin (ATTT) mạng, bảo đảm an toàn thông tin mạng là bảo vệ chính chúng ta nhằm góp phần xây dựng không gian mạng an toàn, lành mạnh.

Bảo đảm an toàn thông tin cho chuyển đổi số và chính phủ điện tử không đơn thuần là ứng dụng các giải pháp đắt tiền mà quên đi yếu tố con người. Thực tiễn đã chứng minh cán bộ, công chức, viên chức, người lao động luôn là những mắt xích yếu nhất về an toàn thông tin. Một sự cố về mất an toàn thông tin của cơ quan, tổ chức có thể phát sinh từ những tình huống đơn giản nhất như chia sẻ mật khẩu hay sử dụng email không đúng cách...

Do vậy, việc bồi dưỡng kiến thức, nâng cao nhận thức về ATTT cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động cần phải được chú trọng và thực hiện thường xuyên hơn nữa.

Tại Hội nghị sáng nay, các bài trình bày được đưa ra để nâng cao nhận thức về an toàn thông tin bao gồm: Công tác bảo đảm an toàn thông tin trên không gian mạng; Tổng quan Chỉ thị số 14/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao năng lực phòng, chống phần mềm độc hại (năm 2018) và Chỉ thị số 14/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường bảo đảm an toàn thông tin nhằm cải thiện chỉ số xếp hạng của Việt Nam; Triển khai công tác bảo đảm an toàn thông tin tại Bà Rịa - Vũng Tàu; Bảo vệ thông tin cá nhân trong chuyển đổi số; Mạng lưới ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng quốc gia.

Bộ TT&TT mong muốn sau mỗi hội thảo, hội nghị, nhận thức về ATTT của cộng đồng và xã hội ngày càng được cải thiện và khi áp dụng thường xuyên, hình thành những kỹ năng để mỗi người tự bảo vệ bản thân, bảo vệ gia đình từ đó tiến tới bảo vệ cơ quan, tổ chức và quốc gia trên không gian mạng.

H.P/vietnamnet.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Sử dụng chữ ký số để đảm bảo an toàn, bảo mật cao cho giao dịch điện tử

Tóm tắt: 

“Chữ ký số (CKS) là một trong những loại hình kỹ thuật, công nghệ đảm bảo sự an toàn, bảo mật cao cho giao dịch điện tử”.

Ngày 11/10/2019, tại Hà Nội, Bộ TTTT phối hợp với Ban Cơ yếu Chính phủ tổ chức Hội nghị “Tuyên truyền, đẩy mạnh sử dụng chữ ký số trong các hoạt động của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp (DN), xã hội năm 2019”.

Tham dự Hội nghị có Thứ trưởng Bộ TTTT Nguyễn Thành Hưng; Thiếu tướng Nguyễn Đăng Đào, Trưởng Ban Cơ yếu Chính phủ; đại diện Lãnh đạo Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ; đại diện Lãnh đạo Tỉnh/Thành ủy, UBND, Sở TTTT các tỉnh, thành phố khu vực miền Bắc.

Thứ trưởng Bộ TTTT Nguyễn Thành Hưng phát biểu

Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ TTTT Nguyễn Thành Hưng nhấn mạnh: “Ngày nay, giao dịch điện tử trong những hoạt động của các DN, cơ quan nhà nước và xã hội có vai trò hết sức quan trọng và là một hoạt động thúc đẩy phát triển kinh tế số trong thời gian tới. Chữ ký số (CKS) là một trong những loại hình kỹ thuật, công nghệ đảm bảo sự an toàn, bảo mật cao cho giao dịch điện tử”.

Thời gian vừa qua, Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực giao dịch điện tử như: Nghị định 130 ngày 27/9/2018 quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử; Nghị định 119 quy định về hóa đơn điện tử; Nghị định 165 quy định về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính; Quyết định 28 của Thủ tướng Chính phủ quy định việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước.

“Các văn bản này quy định rõ về giá trị pháp lý của CKS, giá trị pháp lý của văn bản điện tử, hóa đơn điện tử, chứng từ điện tử có ký số có giá trị như bản giấy”, Thứ trưởng nhấn mạnh.

Trong năm 2019, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 17 về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử (CPĐT) giai đoạn 2019 – 2020, định hướng đến năm 2025. Bộ TTTT theo tinh thần của Nghị quyết 17 cũng được giao nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như Nghị định về định danh và xác thực điện tử; Nghị định về quản lý, kết nối, chia sẻ dư liệu; Triển khai dịch vụ chứng thực CKS trên thiết bị di động để thuận tiện sử dụng cho người dân, DN; Triển khai các giải pháp liên thông giữa hệ thống chứng thực CKS công cộng và hệ thống chứng thực CKS chuyên dùng Chính phủ.

Trong Nghị quyết 17, Bộ TTTT được giao nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất phương án đẩy mạnh việc cấp chứng thư số cho người dân, DN theo hướng giảm chi phí cấp và duy hoạt động chứng thư số để khuyến khích sử dụng trong các giao dịch điện tử. Chính phủ có mong muốn làm thế nào CKS được sử dụng rộng rãi trong giao dịch điện tử, cũng muốn giá thành chứng thư số phải giảm.

Theo đó, Thứ trưởng nhấn mạnh: “Một trong những việc quan trọng để giảm được giá thành là phải làm thế nào để thúc đẩy việc sử dụng CKS rộng rãi. Nhiều người sử dụng thì giá thành sẽ giảm”.

Bên cạnh đó, theo Thứ trưởng, xây dựng CPĐT không phải là chúng ta chỉ cần ứng dụng công nghệ vào, mà chúng ta còn phải làm thế nào để các quy trình thực hiện thủ tục hành chính của chúng ta phải đơn giản, phải gắn kết chặt chẽ với cải cách hành chính (CCHC).

Thứ trưởng lấy ví dụ là thời gian vừa qua, Bộ TTTT phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Chính phủ để triển khai hệ thống văn bản điện tử. Trong quá trình triển khai, có rất nhiều vướng mắc, trong đó có việc chúng ta áp dụng văn bản điện tử nhưng quy trình hành trình hành chính vẫn không thay đổi, như quy trình thực hiện văn bản giấy. Như vậy, có lẽ chúng ta sẽ khó thành công.

Theo Thứ trưởng, đây là một thực tiễn, nhiều khi chúng ta nghĩ quá nhiều về công nghệ, nghĩ quá nhiều các vấn đề về ứng dụng CNTT nhưng cái gốc của vấn đề là làm thế nào gắn kết được 2 vấn đề để cải cách hành chính tạo thuận lợi cho ứng dụng CNTT thành công, và ứng dụng CNTT thành công cũng là tạo điều kiện để chúng ta CCHC.

Thiếu tướng Nguyễn Đăng Đào, Phó Trưởng Ban Cơ yếu Chính phủ

Thiếu tướng Nguyễn Đăng Đào, Phó Trưởng Ban Ban Cơ yếu Chính phủ cho biết: Tính đến tháng 9/2019, Ban Cơ yếu Chính phủ đã đáp ứng kịp thời gần 220.000 chứng thư số phục vụ các cơ quan Đảng, Nhà nước các cấp.

Các bộ, ngành, địa phương đã chủ động, tích cực phối hợp với Bộ TTTT, Ban Cơ yếu Chính phủ triển khai CKS chuyên dùng Chính phủ trong công tác quản lý, điều hành, trao đổi văn bản điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến và đã đạt được những kết quả quan trọng, đảm bảo an toàn các giao dịch điện tử, tạo môi trường làm việc hiện đại, tiết kiệm thời gian và chi phí; Nâng cao hiệu quả công việc, tăng tính công khai, minh bạch trong quản lý, điều hành; Góp phần tích cực trong việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT, CCHC và phát triển CPĐT.

Bổ sung quy định sử dụng giấy tờ, tài liệu áp dụng CKS của cá nhân, DN trong thủ tục hành chính

Cũng tại Hội nghị, ông Phạm Quốc Hoàn, Phó Giám đốc Trung tâm Chứng thực điện tử quốc gia (NEAC) cho biết: CKS có giá trị pháp lý, được coi là chứng cứ ký số vào thông điệp dữ liệu (văn bản điện tử, chứng từ điện tử, hoá đơn điện tử…). “CKS đảm bảo xác định được người ký số, tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu và người ký không chối bỏ được”.

Ông Phạm Quốc Hoàn, Phó Giám đốc NEAC

Theo ông Hoàn, chứng thư số sử dụng để ký số được cấp phát bởi CA hợp lệ, trong đó quy định thuật toán ký số, lược đồ ký số, hàm băm sử dụng do pháp luật quy định.

Bộ TTTT đang xây dựng Nghị định về định danh và xác thực điện tử - đang lấy ý kiến các Bộ, Ngành, tỉnh, thành phố; Thông tư quy định về sử dụng CKS trong giao dịch điện tử - Đang xin ý kiến các Bộ, Ngành, địa phương, Sở TTTT, DN, hiệp hội; Thông tư về Mobile PKI về ký số từ xa (remote singing) – đã gửi xin ý kiến các Bộ, Ngành, địa phương.

Ông Hoàn kiến nghị các Bộ, cơ quan Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố xây dựng cổng dịch vụ công trực tuyến:

- Rà soát, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật: Bổ sung các quy định sử dụng các giấy tờ, tài liệu điện tử có áp dụng CKS của các cá nhân, DN trong thủ tục hành chính (dịch vụ công trực tuyến).

- Xây dựng các hệ thống thông tin, cổng dịch vụ công trực tuyến đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về CKS để chấp nhận CKS trên tài liệu, hồ sơ điện tử của người dân, DN để đảm bảo tính pháp lý.

- Xây dựng và phát triển các hệ thống quản lý văn bản điều hành để trao đổi văn bản điện tử với các cơ quan khác (Quyết định 28/2018/QĐ-TTg và NQ 17/NQ-CP) cần lưu ý việc đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về CKS, liên thông hệ thống CA đối với văn bản điện tử để đảm bảo tính pháp lý.

Toàn cảnh Hội nghị

Đối với các tổ chức, DN, ông Hoàn yêu cầu khi triển khai các hệ thống thông tin liên quan đến việc ký số, kiểm tra CKS (chấp nhận CKS) của người dân, DN và cơ quan nhà nước cần tuân thủ các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về CKS, kiểm tra CKS, quy định liên thông để đảm bảo tính pháp lý.

Những kết quả đáng khích lệ về ứng dụng CKS

Theo số liệu thống kê của NEAC, tính đến 30/6/2019, các CA công cộng đã cấp 2.699.668 chứng thư số. Số lượng chứng thư số đang hoạt động là 1.166.896.

Các chứng thư số được cấp chủ yếu cho các DN, cá nhân thực hiện giao dịch trong các lĩnh vực chính như Thuế điện tử, Hải quan điện tử và Bảo hiểm xã hội điện tử, ngoài ra, còn sử dụng trong các loại giao dịch khác trong tài chính điện tử (chứng từ điện tử, hóa đơn điện tử), giao dịch ngân hàng điện tử, chứng khoán điện tử,  giao dịch thương mại điện tử, hợp đồng điện tử…

Điển hình là lĩnh vực thuế, sau 10 năm triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến ứng dụng CKS tại Tổng cục Thuế, hiện nay tần suất sử dụng ngày càng tăng cao.

Hệ thống khai thuế điện tử đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố và 100% Chi cục Thuế trực thuộc. Số lượng DN sử dụng dịch vụ khai thuế điện tử tính đến 31/3/2019 là 711.604 DN hoạt động;

Về nộp thuế qua mạng, số lượng DN đã đăng ký tham gia sử dụng dịch vụ với cơ quan thuế tính đến 31/3/2019 là 703.753 DN đang hoạt động, đạt tỷ lệ 98,87%;

Về hóa đơn điện tử, số lượng DN xuất hóa đơn điện tử trên hệ thống tính đến ngày 31/3/2019 đạt 255 DN.

Trong khi đó, tính đến hết quý I/2019, Tổng cục Hải quan đang cung cấp 181 dịch vụ công trực tuyến áp dụng CKS để xác thực và 170 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 áp dụng CKS để xác thực.

Số lượng DN sử dụng CKS để giao dịch dịch vụ công trực tuyến tính đến thời điểm 31/3/2019 tại các hệ thống: Hệ thống thông quan hàng hóa tự động (VNACCS/VCIS): 203.967 DN tham gia; Hệ thống Cổng thông tin một cửa quốc gia: 28.464 DN tham gia và 173 thủ tục đã triển khai.

Bảo hiểm xã hội sau hơn 04 năm triển khai, các dịch vụ công trực tuyến áp dụng CKS phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Tính đến 31/3/2019, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã cung cấp 28 dịch vụ công trực tuyến dành cho DN với 323.481 DN ứng dụng dịch vụ.

Lan Phương/ictvietnam.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 của Việt Nam qua từng chỉ số

Tóm tắt: 

Trụ cột Ứng dụng CNTT tăng điểm và tăng hạng nhiều nhất (tăng 25,7 điểm và 54 bậc, từ 43,3 điểm lên 69,0 điểm và theo đó thứ hạng từ vị trí 95 lên vị trí 41).

Năng lực cạnh tranh 4.0 (GCI 4.0) được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) giới thiệu chính thức năm 2018, cung cấp một đánh giá chi tiết về các yếu tố và thuộc tính thúc đẩy năng suất, tăng trưởng và phát triển con người trong kỷ nguyên của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Năm 2019, Việt Nam được WEF đánh giá là nền kinh tế có mức độ cải thiện điểm số và tăng hạng tốt nhất toàn cầu.

Trụ cột Năng lực đổi mới sáng tạo tăng 6 bậc (từ thứ hạng 82 lên thứ hạng 76). - Ảnh minh họa

Năm 2019, WEF xếp hạng 141 nền kinh tế (chiếm 99% GDP thế giới) qua 103 chỉ số được nhóm thành 12 trụ cột (GCI 2018 bao gồm 98 chỉ số). Các trụ cột bao quát các yếu tố kinh tế - xã hội như thể chế, cơ sở hạ tầng, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), ổn định kinh tế vĩ mô, y tế, kỹ năng, thị trường sản phẩm, thị trường lao động, hệ thống tài chính, quy mô thị trường, mức độ năng động trong kinh doanh và năng lực đổi mới sáng tạo.

Bảng xếp hạng này cho thấy, năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 của Việt Nam đã cải thiện vượt trội, song vẫn còn nhiều thách thức. Năm 2019, Việt Nam tăng 3,5 điểm (từ 58 điểm lên 61,5 điểm) cao hơn điểm trung bình toàn cầu (60,7 điểm) và tăng 10 bậc (từ vị trí 77 lên vị trí 67). Kết quả này đạt được là do 8/12 trụ cột tăng điểm và tăng nhiều bậc. Cụ thể là:

- Trụ cột Ứng dụng CNTT tăng điểm và tăng hạng nhiều nhất (tăng 25,7 điểm và 54 bậc, từ 43,3 điểm lên 69,0 điểm và theo đó thứ hạng từ vị trí 95 lên vị trí 41). Tất cả các chỉ số thành phần trong trụ cột này đều tăng điểm, tăng hạng (như Thuê bao internet cáp quang, Thuê bao di động, Thuê bao di động băng thông rộng, Số người sử dụng internet, Thuê bao Internet băng thông rộng cố định).

- Tiếp đến là Trụ cột Thị trường sản phẩm tăng 23 bậc (từ vị trí 102 lên thứ 79), với các chỉ số về cạnh tranh trong nước đều tăng điểm và tăng hạng, độ mở thương mại được ghi nhận tích cực với việc giảm bớt các rào cản phi thuế.

- Mức độ năng động trong kinh doanh tăng 12 bậc (từ vị trí 101 lên vị trí 89), với những cải thiện mạnh mẽ trên hầu hết các chỉ số thành phần (ngoại trừ phá sản doanh nghiệp), nhất là những chỉ số thể hiện tăng trưởng các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp có ý tưởng đột phá.

- Trụ cột Thị trường lao động tăng 2,6 điểm và 7 bậc (từ thứ 90 lên thứ hạng 83), với sự cải thiện về Di cư lao động trong nước (tăng 27 bậc); Mức độ dễ dàng trong tuyển dụng lao động nước ngoài (tăng 22 bậc); Mức độ linh hoạt của tiền lương (tăng 15 bậc); Quan hệ giữa người lao động- người sử dụng lao động và Thực tiễn tuyển dụng và sa thải lao động (đều tăng 10 bậc). Tuy nhiên, Quyền của người lao động chưa được đảm bảo, giảm 4 điểm và giảm 11 bậc (từ vị trí 82 xuống vị trí 93).

- Trụ cột Năng lực đổi mới sáng tạo tăng 6 bậc (từ thứ hạng 82 lên thứ hạng 76). Trong đó, Mức độ tinh thông của người mua tăng 46 bậc; Mức độ phát triển các cụm ngành tăng 33 bậc; Hợp tác đa bên tăng 17 bậc; Tính đa dạng của lực lượng lao động tăng 16 bậc; Chi phí R&D tăng 6 bậc.

- Trụ cột Thể chế tăng 0,3 điểm và 5 bậc (từ vị trí 94 lên vị trí 89). Trong đó, đáng kể nhất là nhóm các chỉ số thể hiện Mức độ định hướng tương lai của Chính phủ tăng mạnh. Nhóm chỉ số này trong GCI 2019 được phát triển và thể hiện cụ thể hơn so với đánh giá trong GCI 2018, do đó thứ hạng của Việt Nam ở chỉ số này được ghi nhận cải thiện tích cực (vị trí 40 năm 2019 so với thứ hạng 75 năm 2018). Tuy vậy, chỉ số về Quy định pháp lý thích ứng linh hoạt với mô hình kinh doanh số còn thấp điểm và thấp hạng (43,1 điểm và ở vị trí 71); chỉ số Ổn định chính sách chỉ đạt 50,3 điểm và thứ hạng 67.

- Trụ cột Kỹ năng tăng 2,7 điểm và 4 bậc (từ thứ 97 lên thứ hạng 93), với sự ghi nhận cải thiện tích cực trên tất cả các chỉ số thành phần. Đáng chú ý là: Chất lượng đào tạo nghề (tăng 13 bậc); Kỹ năng của học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp (tăng 12 bậc); Mức độ đào tạo nhân viên và Mức độ dễ dàng tìm kiếm lao động lành nghề (cùng tăng 8 bậc); Tư duy phản biện trong giảng dạy (tăng 7 bậc);…

- Trụ cột Quy mô thị trường tăng 0,9 điểm và 3 bậc (từ vị trí 29 lên vị trí 26).

Mặc dù Việt Nam có những cải thiện đáng kể về điểm số và thứ hạng của hầu hết các chỉ số thành phần trong 8/12 trụ cột nêu trên, song vẫn còn 3 trụ cột tụt hạng và 1 trụ cột giữ vị trí không đổi. Cụ thể là:

- Trụ cột Ổn định kinh tế vĩ mô không thay đổi điểm số và thứ hạng (giữ ở mức 75 điểm và thứ hạng 64).

- Trụ cột Hệ thống tài chính tăng 1,6 điểm, nhưng giảm 1 bậc; trụ cột Cơ sở hạ tầng tăng 0,5 điểm, nhưng giảm 2 bậc.

- Trụ cột Y tế giảm điểm nhẹ (0,5 điểm, từ 81 điểm xuống 80,5 điểm) và do đó tụt 3 hạng (từ vị trí 68 xuống vị trí 71).

Mặt khác, có đến 8/12 chỉ số trụ cột hiện ở thứ hạng thấp hoặc rất thấp. Các trụ cột có thứ hạng dưới thứ hạng chung về năng lực cạnh tranh (thứ 67) gồm Thể chế (89); Cơ sở hạ tầng (77); Y tế (71); Kỹ năng (93); Thị trường sản phẩm (79); Thị trường lao động (83); Mức độ năng động trong kinh doanh (89); và Năng lực đổi mới sáng tạo (76).

Ở cấp độ các chỉ số thành phần, một số chỉ số có sự suy giảm mạnh như:

- Mức độ minh bạch về ngân sách giảm 50,4 điểm (từ 65,4 xuống 15 điểm), dẫn tới thứ hạng tụt 42 bậc (từ vị trí 42 xuống vị trí 84);

- Mức độ Tiếp xúc với nước uống không an toàn có dấu hiệu tăng, hiện ở thứ hạng thấp (thứ 95), giảm 13 bậc so với năm 2018 (thứ 82);

- Hiệu quả dịch vụ cảng biển tuy không giảm điểm, nhưng tụt 5 bậc (đứng thứ 83). Điều này thể hiện Việt Nam chưa quan tâm chú trọng tới dịch vụ cảng biển so với các nền kinh tế khác.

- Đáng chú ý là trong trụ cột Hệ thống tài chính, nguồn vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) giảm 0,8 điểm và 12 bậc, đứng ở thứ hạng 97 (năm 2018 có thứ hạng 85). Kết quả này cho thấy tiếp cận tín dụng vẫn là trở ngại lớn đối với các DNVVN. Bên cạnh đó, Mức độ sẵn có về vốn đầu tư mạo hiểm tuy có sự cải thiện, nhưng chậm hơn so với nhiều nền kinh tế, dẫn tới thứ hạng giảm 10 bậc (từ vị trí 51 xuống vị trí 61). Điều này phần nào phản ánh môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam chưa thực sự ổn định và thuận lợi, khiến các quỹ đầu tư thận trọng hơn khi đầu tư cho doanh nghiệp ở Việt Nam.

- Hiệu quả giải quyết phá sản doanh nghiệp tiếp tục là rào cản lớn đối với hoạt động kinh doanh ở Việt Nam, đứng cuối bảng xếp hạng (trong đó, mức độ phục hồi sản xuất kinh doanh đứng thứ 112, khuôn khổ pháp lý về giải quyết phá sản thứ 98; giảm tương ứng 3 và 5 bậc so với năm 2018).

Năm 2019, ngoại trừ Singapore và Việt Nam, các nước còn lại trong khu vực ASEAN đều giảm điểm hoặc giảm bậc. Trong đó, Malaysia, Thái Lan tăng điểm, nhưng giảm bậc (mỗi nước giảm 2 bậc); Indonesia và Philippines giảm điểm và giảm bậc (Indonesia giảm 5 bậc; Philippines giảm 8 bậc); 2 nước Lào và Campuchia vẫn ở cuối bảng xếp hạng. Tuy có sự cải thiện nhanh, nhưng năng lực cạnh tranh 4.0 của Việt Nam vẫn chỉ đứng thứ 6 trong ASEAN, sau Singapore (thứ 1), Malaysia (thứ 27), Thái Lan (thứ 40), Indonesia (thứ 50) và Philippines (thứ 64).

Kết quả cải thiện năng lực cạnh tranh của Việt Nam phần nào phản ánh nỗ lực liên tục trong những năm gần đây của Chính phủ vể cải cách môi trường kinh doanh, về thúc đẩy đổi mới sáng tạo để thích ứng và nhảy vọt trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 và hội nhập sâu rộng hơn. Những nỗ lực cải cách nổi bật như cắt giảm, đơn giản hoá ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh; thay đổi phương thức quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý, kiểm tra chuyên ngành (áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, chuyển mạnh sang hậu kiểm,…); chú trọng cải thiện các quy định, thủ tục nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi; đẩy mạnh Chính phủ điện tử và giao dịch không dùng tiền mặt; cải cách thanh, kiểm tra doanh nghiệp; giảm chi phí doanh nghiệp; từng bước tạo lập thể chế chính sách vượt trội nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo;… đã đóng góp có ý nghĩa vào kết quả năng lực cạnh tranh 4.0 năm 2019 của nước ta.

Tuy vậy, phía trước vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất là vấn đề về thể chế, kỹ năng, môi trường kinh doanh và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Bởi vậy, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực cải cách mạnh mẽ, thực chất và toàn diện hơn nữa để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế một cách bền vững và mang lại sự thịnh vượng. Điều này đòi hỏi không chỉ nỗ lực từ Chính phủ mà cần sự chung tay của các bên liên quan, nhất là cộng đồng doanh nghiệp và người dân.

Nguyễn Minh Thảo
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

Nguồn: chinhphu.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Việt Nam đã có “kim chỉ nam” định hướng chuyển đổi số quốc gia

Tóm tắt: 

Trong tiến trình chuyển đổi số, Việt Nam đặt mục tiêu lĩnh vực kinh tế số sẽ chiếm tới 30% GDP vào năm 2030.

Trong tiến trình chuyển đổi số, Việt Nam đặt mục tiêu lĩnh vực kinh tế số sẽ chiếm tới 30% GDP vào năm 2030.

Sáng 3/10, tại Hà Nội đã diễn ra phiên toàn thể của Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 2019 (Industry 4.0 2019). Diễn đàn do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì tổ chức với mục tiêu nhằm đánh giá tình hình tham gia cuộc CMCN 4.0 của nước ta thời gian qua. Bên cạnh đó, Diễn đàn là nơi phổ biến, quán triệt chính sách của Đảng và Nhà nước về việc chủ động tham gia CMCN 4.0 thời gian tới.

Cách mạng thể chế là lợi thế của Việt Nam

Một trong những chủ đề quan trọng được đề cập tại Diễn đàn lần này là tiến trình chuyển đổi số quốc gia, với mục tiêu hướng tới nền kinh tế số và xã hội số.

Theo Bộ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông (TT&TT) Nguyễn Mạnh Hùng, chuyển đổi số đã diễn ra nhiều năm qua, nhưng chỉ khi xuất hiện các công nghệ của CMCN 4.0 thì chuyển đổi số mới thực sự tăng tốc.

Phiên toàn thể của Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 2019 (Industry 4.0 2019).

Nói đến chuyển đổi số là nói đến một môi trường mới trong cuộc sống của nhân loại - môi trường số, hay còn gọi là môi trường không gian mạng. Đây là lần đầu tiên loài người bước vào một thế giới khác. Từ đây, sẽ xuất hiện kinh tế số và xã hội số.

“Chỉ lúc này, các công nghệ số mới phát huy hết sức mạnh của nó. Cả sức mạnh xây dựng và sức mạnh huỷ diệt. Chuyển đổi số sẽ hình thành các mối quan hệ mới. Đây là thách thức lớn nhất của chuyển đổi số, nhưng cũng chính những mối quan hệ mới, những mô hình kinh tế mới sẽ phát huy hiệu quả của chuyển đổi số”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Chia sẻ tại Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 năm 2019, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, việc chuyển đổi số sẽ phụ thuộc phần lớn vào nhận thức của con người. Đây là lợi thế của các nước đi sau vì nhận thức không bị phụ thuộc vào cơ sở vật chất mà các nước đang sở hữu. Do vậy, nếu có chính sách phù hợp thì Việt Nam sẽ tận dụng được cơ hội này để vượt lên thành nước phát triển.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, chuyển đổi số là một cuộc cách mạng về chính sách và thể chế nhiều hơn là một cuộc cách mạng về công nghệ.

“Đây là lợi thế của Việt Nam khi chúng ta có Đảng lãnh đạo, có thể ra được những quyết sách lớn một cách nhanh và tập trung. Nghị quyết 52 là một thí dụ như vậy. Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị đã định hướng cho chuyển đổi số Việt Nam, với mục tiêu kinh tế số chiếm tới 30% GDP vào năm 2030.”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Nền tảng số mạnh sẽ giúp chuyển đổi số thành công

Chia sẻ quan điểm của mình, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng chyển đổi số sẽ mở ra một cơ hội rất lớn cho Việt Nam. Với khả năng linh hoạt của người Việt Nam, nước ta có thể tận dụng được cơ hội này. Tuy vậy, Việt Nam muốn thay đổi thứ hạng trên thế giới thì phải đi nhanh và đi đầu để có lợi thế cạnh tranh.

Các doanh nghiệp công nghệ sẽ là hạt nhân của quá trình chuyển đổi số. Chuyển đổi số sẽ thúc đẩy 

Nói đến chuyển đổi số là nói đến một môi trường mới trong cuộc sống của nhân loại - môi trường số, hay còn gọi là môi trường không gian mạng. Đây là lần đầu tiên loài người bước vào một thế giới khác. Từ đây, sẽ xuất hiện kinh tế số và xã hội số.

“Chỉ lúc này, các công nghệ số mới phát huy hết sức mạnh của nó. Cả sức mạnh xây dựng và sức mạnh huỷ diệt. Chuyển đổi số sẽ hình thành các mối quan hệ mới. Đây là thách thức lớn nhất của chuyển đổi số, nhưng cũng chính những mối quan hệ mới, những mô hình kinh tế mới sẽ phát huy hiệu quả của chuyển đổi số”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Chia sẻ tại Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 năm 2019, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, việc chuyển đổi số sẽ phụ thuộc phần lớn vào nhận thức của con người. Đây là lợi thế của các nước đi sau vì nhận thức không bị phụ thuộc vào cơ sở vật chất mà các nước đang sở hữu. Do vậy, nếu có chính sách phù hợp thì Việt Nam sẽ tận dụng được cơ hội này để vượt lên thành nước phát triển.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, chuyển đổi số là một cuộc cách mạng về chính sách và thể chế nhiều hơn là một cuộc cách mạng về công nghệ.

“Đây là lợi thế của Việt Nam khi chúng ta có Đảng lãnh đạo, có thể ra được những quyết sách lớn một cách nhanh và tập trung. Nghị quyết 52 là một thí dụ như vậy. Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị đã định hướng cho chuyển đổi số Việt Nam, với mục tiêu kinh tế số chiếm tới 30% GDP vào năm 2030.”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Nền tảng số mạnh sẽ giúp chuyển đổi số thành công

 

Chia sẻ quan điểm của mình, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng chyển đổi số sẽ mở ra một cơ hội rất lớn cho Việt Nam. Với khả năng linh hoạt của người Việt Nam, nước ta có thể tận dụng được cơ hội này. Tuy vậy, Việt Nam muốn thay đổi thứ hạng trên thế giới thì phải đi nhanh và đi đầu để có lợi thế cạnh tranh.

Các doanh nghiệp công nghệ sẽ là hạt nhân của quá trình chuyển đổi số. Chuyển đổi số sẽ thúc đẩy

Nói đến chuyển đổi số là nói đến một môi trường mới trong cuộc sống của nhân loại - môi trường số, hay còn gọi là môi trường không gian mạng. Đây là lần đầu tiên loài người bước vào một thế giới khác. Từ đây, sẽ xuất hiện kinh tế số và xã hội số.

“Chỉ lúc này, các công nghệ số mới phát huy hết sức mạnh của nó. Cả sức mạnh xây dựng và sức mạnh huỷ diệt. Chuyển đổi số sẽ hình thành các mối quan hệ mới. Đây là thách thức lớn nhất của chuyển đổi số, nhưng cũng chính những mối quan hệ mới, những mô hình kinh tế mới sẽ phát huy hiệu quả của chuyển đổi số”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Chia sẻ tại Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 năm 2019, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, việc chuyển đổi số sẽ phụ thuộc phần lớn vào nhận thức của con người. Đây là lợi thế của các nước đi sau vì nhận thức không bị phụ thuộc vào cơ sở vật chất mà các nước đang sở hữu. Do vậy, nếu có chính sách phù hợp thì Việt Nam sẽ tận dụng được cơ hội này để vượt lên thành nước phát triển.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, chuyển đổi số là một cuộc cách mạng về chính sách và thể chế nhiều hơn là một cuộc cách mạng về công nghệ.

“Đây là lợi thế của Việt Nam khi chúng ta có Đảng lãnh đạo, có thể ra được những quyết sách lớn một cách nhanh và tập trung. Nghị quyết 52 là một thí dụ như vậy. Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị đã định hướng cho chuyển đổi số Việt Nam, với mục tiêu kinh tế số chiếm tới 30% GDP vào năm 2030.”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Nền tảng số mạnh sẽ giúp chuyển đổi số thành công

Chia sẻ quan điểm của mình, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng chyển đổi số sẽ mở ra một cơ hội rất lớn cho Việt Nam. Với khả năng linh hoạt của người Việt Nam, nước ta có thể tận dụng được cơ hội này. Tuy vậy, Việt Nam muốn thay đổi thứ hạng trên thế giới thì phải đi nhanh và đi đầu để có lợi thế cạnh tranh.

Các doanh nghiệp công nghệ sẽ là hạt nhân của quá trình chuyển đổi số. Chuyển đổi số sẽ thúc đẩy Make In Vietnam và hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, và từ đây đi ra toàn cầu.

Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tham luận về tiến trình chuyển đổi số quốc gia tại Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 2019.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, Việt Nam phải có một cách tiếp cận mới và đột phá về chyển đổi số. Đó chính là các Platform số (nền tảng số) để các cơ quan, doanh nghiệp, hộ gia đình và người dân sử dụng. Việc sử dụng các Platform số tức là lên môi trường số, tức là hoạt động trong môi trường số.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định, trong tuyên bố chiến lược về chuyển đổi số quốc gia, các yếu tố nền tảng sẽ được nhấn mạnh, sẽ được đầu tư trước, sẽ đi trước, và phải có thứ hạng cao trên thế giới. Năm yếu tố nền tảng của Việt Nam trong chuyển đổi số sẽ là Thể chế, Hạ tầng, An ninh mạng, Platform và Đào tạo.

Chuyển đổi số quốc gia bao gồm chuyển đổi số chính phủ, chuyển đổi số doanh nghiệp và chuyển đổi số xã hội. Để chuyển đổi số, Việt Nam có thể chọn chiến lược 3 bước. 

Bước một là đẩy nhanh việc số hoá và ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực. Bước hai, sẽ sử dụng chuyển số như một lợi thế cạnh tranh trong từng lĩnh vực. Với bước ba, chúng ta sẽ tiến tới nền kinh tế số toàn diện, hình thành các ngành công nghiệp số thế hệ mới, các ngành công nghiệp mới này sẽ là động lực tăng trưởng cho nền kinh tế.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cũng nhấn mạnh vai trò của lĩnh vực An toàn thông tin: "Nếu chúng ta coi mục tiêu của chuyển đổi số là phát triển quốc gia hùng cường, động lực của chuyển đổi số là thể chế, là công nghệ và đổi mới sáng tạo thì tiền đề của chuyển đổi số chính là an toàn, an ninh không gian mạng. Việt Nam muốn dựa vào chuyển đổi số để phát triển thành quốc gia hùng cường thì Việt Nam phải là cường quốc về an ninh mạng để đảm bảo an toàn cho quá trình này, tạo niềm tin số cho mọi người."

Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị đã yêu cầu Chính phủ phải đi tiên phong trong chuyển đổi số. Với tinh thần và quyết tâm của Nghị quyết 52 là "Đảng đi trước làng nước theo sau", Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng tin tưởng công cuộc chuyển đổi số quốc gia sẽ giúp Việt Nam vượt lên và trở thành một nước phát triển.

Trọng Đạt/vietnamnet.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Cần linh hoạt trước yếu tố khó lường của CMCN 4.0

Tóm tắt: 

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có những yếu tố khó lường, đòi hỏi con người phải sẵn sàng tận dụng thời cơ, tránh được rủi ro, có các giải pháp linh hoạt, thích ứng với những thay đổi mà ngày hôm nay chưa dự báo được.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có những yếu tố khó lường, đòi hỏi con người phải sẵn sàng tận dụng thời cơ, tránh được rủi ro, có các giải pháp linh hoạt, thích ứng với những thay đổi mà ngày hôm nay chưa dự báo được.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại Diễn đàn cấp cao về công nghiệp 4.0 - Industry 4.0 Summit 2019. Ảnh: VGP/Đình Nam

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đưa ra nhận xét này tại phiên toàn thể Diễn đàn cấp cao về công nghiệp 4.0 - Industry 4.0 Summit 2019 với chủ đề “Chủ trương và chương trình hành động của Việt Nam chủ động tham gia cách mạng công nghiệp 4.0”, sáng 3/10. 

Phiên họp tập trung giới thiệu về quá trình xây dựng và những nội dung cơ bản của Nghị quyết của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” và các báo cáo chính xoay quanh các vấn đề về chiến lược quốc gia cách mạng công nghiệp 4.0 của Việt Nam, về chuyển đổi số quốc gia hướng tới nền kinh tế số và xã hội số. 

Phó Thủ tướng cho rằng các ý kiến trao đổi tại phiên họp rất toàn diện, tập trung vào những kế hoạch, hành động cụ thể để tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0. 

Theo Phó Thủ tướng, mặc dù Bộ Chính trị mới ban hành nghị quyết về chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhưng nhận thức cũng như hành động để tận dụng cơ hội của cuộc cách mạng này đã bắt đầu từ trước đó.

 Tại Diễn đàn Công nghiệp 4.0 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh yêu cầu tập trung đồng bộ nhiều giải pháp từ thể chế, hạ tầng đến nhân lực, khoa học, công nghệ để phát triển nền kinh tế số, nền sản xuất thông minh với tầm nhìn chiến lược nhưng hành động cụ thể, rất khẩn trương. Trong cuộc CMCN 4.0 vai trò chủ đạo và tiên phong là của doanh nghiệp.  Chúng ta cần chủ động ứng phó với những mặt tiêu cực của cuộc CMCN 4.0, trong đó lưu ý cơ chế quản lý rủi ro.

Phó Thủ tướng điểm lại “từ Diễn đàn năm ngoái đến năm nay, chúng ta đã có hành động, đi đúng hướng và đạt được những kết quả tích cực. Một số chỉ số liên quan trực tiếp đến chủ đề Diễn đàn năm nay như chỉ số đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam tăng 3 bậc, từ 45 lên 42. Chỉ số cung cấp dịch vụ công trực tuyến năm vừa qua tăng 15 bậc lên thứ 59. Thanh toán điện tử tăng 19,6% số lượng giao dịch, 26,6% giá trị, đặc biệt thanh toán qua di động tăng 104% số giao dịch và 155% giá trị. 

Chỉ số an toàn an ninh thông tin của Việt Nam tăng 50 bậc từ 100 lên 50. Giáo dục phổ thông xếp thứ 38. Việt Nam có 2 trường đại học vào tốp 1000 trường đại học hàng đầu thế giới. Nhiều trường đại học quy mô lớn, do tư nhân đầu tư phi lợi nhuận, các viện nghiên cứu tư nhân được thành lập. Nhiều địa phương đã có những bước tiến lớn trong xây dựng đô thị thông minh”.

Ảnh: VGP/Đình Nam

Trong thời gian tới, Phó Thủ tướng khẳng định phải tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh theo Nghị quyết 02 của Chính phủ. Nghị quyết 02 tích hợp các tiêu chí đánh giá, bảng xếp hạng của các tổ chức quốc tế, rất phù hợp với yêu cầu của cuộc CMCN 4.0. Các bộ ngành, địa phương, cần tiếp tục thực hiện quyết liệt hơn, thiết thực hơn. 

Đề cập đến yếu tố khó lường của cuộc CMCN 4.0, Phó Thủ tướng nhấn mạnh vai trò quan trọng của con người để sẵn sàng tận dụng thời cơ, tránh được rủi ro, có các giải pháp linh hoạt thích ứng với những thay đổi mà ngày hôm nay chưa dự báo được. 

Ngay trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo chuẩn bị cho CMCN 4.0, chúng ta không chỉ đưa các môn học liên quan nhiều đến khoa học, công nghệ mà cần bắt đầu từ những điểm căn bản nhất, thậm chí tưởng rằng không liên quan đến CMCN 4.0, đó là giáo dục cho người dân ở khu vực miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số.

“Nếu chúng ta không quyết liệt thì tỷ lệ tái mù chữ, trẻ em bỏ học, người lớn không được đào tạo căn bản về nghề nghiệp ở khu vực miền núi sẽ ngày càng tăng. Đây là điểm phải được nhận diện và giải quyết. Bản chất của cuộc CMCN 4.0 là không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng lưu ý phải tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tự chủ đại học nhằm xây dựng môi trường nghiên cứu, học thuật, sáng tạo để đại học không chỉ là nơi truyền thụ kiến thức, mà còn là nơi sáng tạo ra tri thức mới. Qua đó, đóng góp mạnh mẽ, hiệu quả vào hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

“Một đặc trưng của cuộc CMCN 4.0 là kết nối, hợp tác. Vì vậy phải tăng cường hợp tác giữa các cơ quan Chính phủ với nhau; giữa Chính phủ với doanh nghiệp, người dân; giữa người dân với nhau; giữa trong nước với ngoài nước. Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc cách mạng này. Chúng ta không chỉ giải quyết những ‘bài toán’ của riêng mình mà còn có trách nhiệm trước những vấn đề chung của thế giới”, Phó Thủ tướng nói.

Nguồn: Đình Nam/chinhphu.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Xây dựng đô thị thông minh tránh làm theo phong trào

Tóm tắt: 

“Các địa phương cần có nhận thức đúng về đô thị thông minh, các điều kiện cần và đủ để từng bước xây dựng thành công ĐTTM tại địa phương, hết sức tránh đầu tư dàn trải, làm theo phong trào”.

Trong khuôn khổ Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 năm 2019, chiều 2/10, đã diễn ra Hội thảo “Xây dựng ĐTTM trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia”.

Thứ trưởng Bộ TTTT Nguyễn Thành Hưng

Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ TTTT Nguyễn Thành Hưng nhấn mạnh: Xây dựng đô thị là yêu cầu tất yếu hiện nay để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ môi trường sống tiện ích, thân thiện và an toàn của người dân trong bối cảnh phát triển bùng nổ của đô thị.

Thực tế đến nay trên cả nước đã có khoảng 30 địa phương phê duyệt và triển khai các đề án dự án về phát triển đô thị thông minh.

Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ TTTT, việc phát triển ĐTTM hiện nay còn nhiều bất cập và lúng túng. Các Bộ ngành vẫn đang tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện việc xây dựng và ban hành các quy định hướng dẫn về tiêu chuẩn quy chuẩn, các cơ chế, chính sách về ĐTTM và các địa phương cũng mới bước đầu triển khai một số ứng dụng dịch vụ cơ bản cho ĐTTM.

Về xây dựng ĐTTM tại Việt Nam, theo Thứ trưởng, các địa phương cần có nhận thức đúng về ĐTTM, các điều kiện cần và đủ để từng bước xây dựng thành công ĐTTM tại địa phương, hết sức tránh đầu tư dàn trải, làm theo phong trào.

Thứ hai, trong triển khai cần quán triệt nguyên tắc xây dựng hạ tầng nền tảng dùng chung, dữ liệu được chia sẻ tập trung, và giám sát điều hành tập trung để bảo đảm hiệu quả đầu tư (Thí dụ về đầu tư camera giám sát ai làm, Công an hay giao thông…. Hay tập trung đầu tư bởi thành phố rồi các ngành dùng chung).

Thứ ba, phải gắn kết, không được tách rời việc xây dựng ĐTTM với phát triển chính quyền điện tử. Cần coi trọng chính quyền điện tử làm nòng cốt để xây dựng ĐTTM, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp khi giao tiếp với cơ quan chính quyền. Người dân phải được cung cấp các ứng dụng để giao tiếp với chính quyền và mọi ý kiến phản ánh của người dân phải được giải đáp nhanh và thoả đáng.

Thứ tư là căn cứ vào điều kiện và yêu cầu cụ thể của từng địa phương, lựa chọn những lĩnh vực thiết yếu cần ưu tiên triển khai khi xây dựng ĐTTM, tránh rập khuôn, đầu tư tràn lan (thí dụ có địa phương thì ứng dụng ĐTTM cho văn hoá du lịch, có địa phương thì cho giao thông…).

Thứ năm là cần hết sức quan tâm đến công tá đảm bảo an toàn, an ninh mạng ngay từ giai đoạn đầu của việc thiết kế xây dựng, triển khai ĐTTM.

Thứ sáu là cần có công cụ để đo lường, đánh giá được kết quả thực hiện.

Thứ bảy là nên lựa chọn các DN công nghệ có đủ năng lực để tổ chức triển khai.

Cuối cùng, Thứ trưởng nhấn mạnh: “Xây dựng ĐTTM không thể thiếu là quan tâm phát triển nguồn nhân lực phù hợp. Một ĐTTM không thể thông minh nếu thiếu người lãnh đạo có tầm nhìn, nếu thiếu nguồn nhân lực có đủ trình độ để hoạch định, xây dựng, quản lý và vận hành đô thị đó”.

Hình thành ít nhất 3 ĐTTM

Cũng tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh cho biết: Trong bối cảnh chung của tiến trình chuyển đổi số, chủ đề xây dựng ĐTTM đã và đang trở thành một chủ đề nóng trên các chương trình nghị sự của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là khu vực châu Á năng động, trong đó có Việt Nam.

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh

Phát triển đô thị là động lực cơ bản cho phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và các vùng miền trên cả nước. Đến nay cả nước đã có trên 830 đô thị với tỷ lệ đô thị toàn quốc đạt 38,6%. Tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị đạt trung bình từ 12 – 15%, cao gấp 1,5 – 2 lần so với mặt bằng chung của các nước.

Các trung tâm đô thị đang và đang là những trung tâm của các hoạt động kinh tế - xã hội, đồng thời cũng là trung tâm của hoạt động đổi mới, sáng tạo, giáo dục, nghiên cứu khoa học công nghệ, sản xuất, thương mại và hội nhập quốc tế.

Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm chỉ đạo khai thác ứng dụng tiến bộ KHCN để phục vụ phát triển đất nước. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng lần thứ 4; yêu cầu tận dụng có hiệu quả của các cơ hội do cuộc CMCN lần thứ 4 đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phát chiến lược và hiện đại hoá đất nước.

Đối với lĩnh vực đô thị, Thứ trưởng Nguyễn Văn Sinh cho biết: mục tiêu đề ra đến năm 2025 có ít nhất 3 ĐTTM tại ba vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung. Đến năm 2030, hình thành một số chuỗi ĐTTM tại các khu vực kinh tế trọng địa phía Bắc, phía Nam và miền Trung, từng bước kết nối mạng ĐTTM trong khu vực và thế giới.

Ngày 1/8/2018, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Đề án phát triển ĐTTM bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 – 2025 và định hướng đến năm 2030 với các quan điểm: phù hợp với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các định hướng chiến lược, quy hoạch, kế hoach, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, phát triển đô thị của quốc gia và địa phương, phù hợp với đặc thù của từng địa phương.

Kinh nghiệm xây dựng ĐTTM của Hàn Quốc

Chia sẻ kinh nghiệm triển khai ĐTTM của Hàn Quốc, ông Kabsung Kim, Đại diện Uỷ ban Cố vấn về ĐTTM của Tổng thống Hàn Quốc cho biết: Hàn Quốc đã thành lập một uỷ ban về CMCN 4.0 từ năm 2017. Đây cũng là cơ quan phụ trách việc phát triển các ĐTTM. ĐTTM đầu tiên tại Hàn Quốc đã xuất hiện từ 15 năm trước.

 
Toàn cảnh Hội thảo
 Theo vị chuyên gia này, Hàn Quốc đã có chiến lược và tầm nhìn về ĐTTM. Theo đó, Hàn Quốc có kế hoạch cho sự ra đời của rất nhiều các ĐTTM trong tương lai. So với thành phố đầu tiên, các ĐTTM hiện nay đã được thay đổi rất nhiều, để có thể phù hợp với nhu cầu sống mới của người dân Hàn Quốc.

Hàn Quốc hiện cũng có một vài thành phố thông minh thí điểm. Đây là nơi thử nghiệm các công nghệ và giải pháp mới về thông tin và truyền thông.

Con người chính là trái tim của các đô thị. Chính phủ Hàn Quốc đã đầu tư rất nhiều để tạo ra môi trường sống thông minh nhưng phải phù hợp với cuộc sống của các cư dân. Tầm nhìn của Hàn Quốc là tạo ra nhiều ĐTTM có khả năng kết nối với nhau trong tương lai, trở thành một chuỗi các ĐTTM. Nơi sẽ trở thành mô hình tham chiếu cho các đô thị khác trong khu vực cũng như trên thế giới”, ông Kabsung Kim nhấn mạnh.

Cũng theo ông Kabsung Kim, Việt Nam cần thiết kế một hệ sinh thái thông minh, trong đó khuyến khích sự tham gia của người dân và doanh nghiệp. Các ĐTTM đầu tiên sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các ĐTTM tiếp theo như thế nào trong tương lai trung và dài hạn.

Hàn Quốc đã đề ra chính sách khuyến khích doanh nghiệp cung cấp các giải pháp thông minh, tăng cường kết nối chia sẻ. Đó sẽ là nơi tích luỹ thông tin và những phản hồi của người dân để thành phố có thể cải thiện không ngừng về mặt công nghệ và giải pháp, góp phần cải thiện chất lượng sống của người dân trong tương lai.

Hàn Quốc mới đây cũng đã triển khai phủ sóng 5G. Đây là công nghệ di động tiên tiến nhất ở thời điểm hiện tại. Vị chuyên gia đến từ Hàn Quốc hy vọng có thể chia sẻ công nghệ này với các đô thị thông minh khác tại Việt Nam như Hà Nội và TP.HCM.

Yếu tố con người vẫn là trung tâm trong việc phát triển đô thị. Các giải pháp dựa trên con người, lấy con người làm trung tâm chính là ưu tiên của  chính phủ Hàn Quốc”, ông Kabsung Kim nói. 

Vị chuyên gia này cũng khẳng định: “Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để phát triển ĐTTM”. 

Lan Phương/ictvietnam.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Nghị quyết của Bộ Chính trị về chủ động tham gia cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tóm tắt: 

Thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vừa ký ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vừa ký ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Cổng Thông tin điện tử Chính phủ xin trân trọng giới thiệu toàn văn Nghị quyết.

I- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị về nâng cao năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành và địa phương đã xây dựng và triển khai thực hiện một số chính sách nhằm thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông. Cơ sở hạ tầng viễn thông được xây dựng khá đồng bộ. Kinh tế số được hình thành, phát triển nhanh, ngày càng trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế; công nghệ số được áp dụng trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; xuất hiện ngày càng nhiều hình thức kinh doanh, dịch vụ mới, xuyên quốc gia, dựa trên nền tảng công nghệ số và Internet đang tạo nhiều cơ hội việc làm, thu nhập, tiện ích, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Việc xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số được triển khai quyết liệt, bước đầu đạt được nhiều kết quả tích cực.

Tuy vậy, mức độ chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư của nước ta còn thấp. Thể chế, chính sách còn nhiều hạn chế và bất cập. Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu. Khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự là động lực phát triển kinh tế - xã hội; hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia mới được hình thành, chưa đồng bộ và hiệu quả. Quá trình chuyển đổi số quốc gia còn chậm, thiếu chủ động do hạ tầng phục vụ quá trình chuyển đổi số còn nhiều hạn chế; nhiều doanh nghiệp còn bị động, năng lực tiếp cận, ứng dụng, phát triển công nghệ hiện đại còn thấp. Kinh tế số có quy mô còn nhỏ. Việc đấu tranh với tội phạm, bảo đảm an ninh mạng còn nhiều thách thức.

Những hạn chế nêu trên có những nguyên nhân chủ quan và khách quan; trong đó, nguyên nhân chủ quan là chính. Nhận thức về cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong hệ thống chính trị và toàn xã hội còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa thống nhất. Khả năng phân tích, dự báo chiến lược về xu thế phát triển khoa học, công nghệ tác động đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước còn hạn chế. Tư duy trong xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế phù hợp với yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chậm được đổi mới, sức ỳ còn lớn. Quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, chưa theo kịp diễn biến thực tế. Sự phối hợp giữa các ban, bộ, ngành, giữa Trung ương với các địa phương chưa chặt chẽ; nhiều khó khăn, vướng mắc chậm được tháo gỡ.

II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ MỤC TIÊU

1. Quan điểm chỉ đạo

- Chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; đồng thời nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nội hàm, bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi đó là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trình phù hợp là cơ hội để Việt Nam bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội.

- Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại cả cơ hội và thách thức. Phải nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội thông qua nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu tiên tiến của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, nhất là một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới. Chủ động phòng ngừa, ứng phó để hạn chế các tác động tiêu cực, bảo đảm quốc phòng, an ninh, an toàn, công bằng xã hội và tính bền vững của quá trình phát triển đất nước.

- Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư yêu cầu phải đổi mới tư duy về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng, hoàn thiện thể chế cho phù hợp. Cần có cách tiếp cận mở, sáng tạo, cho thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra, tạo mọi thuận lợi cho đổi mới sáng tạo. Tránh mọi biểu hiện bàng quan, thiếu tự tin, thụ động, nhưng không chủ quan, nóng vội, duy ý chí.

- Phát huy tối đa các nguồn lực, bảo đảm đủ nguồn lực cho việc chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xác định nguồn lực bên trong là quyết định, chiến lược, cơ bản lâu dài; nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của toàn xã hội.

2. Mục tiêu

Mục tiêu tổng quát: Tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hoá đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái.

Một số mục tiêu cụ thể đến năm 2025: Duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc 3 nước dẫn đầu ASEAN. Xây dựng được hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN; Internet băng thông rộng phủ 100% các xã. Kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP; năng suất lao động tăng bình quân trên 7%/năm. Cơ bản hoàn thành chuyển đổi số trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc. Có ít nhất 3 đô thị thông minh tại 3 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung.

Một số mục tiêu cụ thể đến năm 2030: Duy trì xếp hạng về chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu thế giới. Mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc; mọi người dân được truy cập Internet băng thông rộng với chi phí thấp. Kinh tế số chiếm trên 30% GDP; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 7,5%/năm. Hoàn thành xây dựng Chính phủ số. Hình thành một số chuỗi đô thị thông minh tại các khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung; từng bước kết nối với mạng lưới đô thị thông minh trong khu vực và thế giới.

3. Tầm nhìn đến năm 2045: Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn đầu khu vực Châu Á; có năng suất lao động cao, có đủ năng lực làm chủ và áp dụng công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh.

III- MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CHỦ ĐỘNG THAM GIA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ

1. Đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội

- Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền về sự cấp thiết phải chủ động tham gia tích cực và có hiệu quả cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các cấp, các ngành.

- Xác định nội dung cốt lõi của chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư của nước ta là thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên tất cả các ngành, lĩnh vực và thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, trọng tâm là phát triển kinh tế số, xây dựng đô thị thông minh, chính quyền điện tử, tiến tới chính quyền số.

- Nhà nước ưu tiên chuyển giao và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ mới trong các ngành, lĩnh vực; có trách nhiệm thúc đẩy nghiên cứu khoa học, công nghệ, tạo môi trường thuận lợi và hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm để người dân và doanh nghiệp là các chủ thể quyết định tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

- Phát huy sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các đối tượng chịu tác động của chính sách vào quá trình hoạch định và giám sát thực thi các chính sách có liên quan đến cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng cơ chế hợp tác giữa Nhà nước và các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp trong xây dựng và thực thi các chính sách.

2. Hoàn thiện thể chế tạo thuận lợi cho chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số quốc gia

- Hoàn thiện pháp luật, trước hết là pháp luật về doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới dựa trên nền tảng công nghệ số, Internet và không gian mạng; đồng thời ngăn chặn kịp thời các tác động tiêu cực cả về kinh tế và xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng. Bổ sung một số ngành nghề kinh doanh mới được ưu đãi đầu tư để thúc đẩy tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Có cơ chế cho doanh nghiệp nhà nước thực hiện đầu tư nghiên cứu phát triển công nghệ, đầu tư mạo hiểm, đầu tư vào khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

- Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo. Sớm ban hành khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát đối với các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới hình thành từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Quy định rõ phạm vi không gian và thời gian thử nghiệm. Nghiên cứu, xây dựng các khu thử nghiệm dành cho doanh nghiệp công nghệ theo mô hình tiên tiến của thế giới. Thực hiện định danh, công nhận, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn đối với các sản phẩm, công nghệ, mô hình kinh doanh mới.

- Chủ động tham gia vào các khuôn khổ pháp lý khu vực và toàn cầu để phát triển kinh tế số. Hoàn thiện pháp luật, chính sách về dữ liệu, quản trị dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc tạo dựng, kết nối, chia sẻ và khai thác dữ liệu bảo đảm an toàn, an ninh mạng trong nước, tiến tới kết nối với khu vực ASEAN và quốc tế. Xây dựng hành lang pháp lý cho định danh số và xác thực điện tử quốc gia; thiết lập khung danh tính số quốc gia.

- Hoàn thiện các chính sách tài chính nhằm khuyến khích, huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo. Sửa đổi các quy định về đầu tư theo hướng tạo thuận lợi cho các hoạt động thu hút vốn, mua cổ phần, mua bán sáp nhập doanh nghiệp công nghệ; các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

- Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, bảo hộ và khai thác hiệu quả, hợp lý các tài sản trí tuệ do Việt Nam tạo ra; khuyến khích thương mại hoá và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là đối với các sáng chế tại Việt Nam trên cơ sở tuân thủ pháp luật trong nước và bảo đảm lợi ích an ninh quốc gia. Khuyến khích các công ty đa quốc gia đặt các cơ sở nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam.

- Hoàn thiện pháp luật, chính sách về tài chính - tiền tệ, thanh toán điện tử, quản lý thuế và các dịch vụ xuyên biên giới phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế số. Hoàn thiện chính sách đặt hàng sản xuất và mua sắm công đối với các sản phẩm công nghệ số do Việt Nam sản xuất.

- Ban hành các chính sách hạn chế các tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tạo lập hành lang pháp lý cho việc triển khai các mô hình lao động, việc làm mới trên nền tảng công nghệ số và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xử lý kịp thời các thách thức đặt ra đối với phát triển xã hội. Thúc đẩy việc tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

- Xây dựng và triển khai Chiến lược quốc gia về phát triển các doanh nghiệp công nghệ, ưu tiên phát triển các doanh nghiệp công nghệ số, doanh nghiệp công nghệ cao thực hiện thiết kế, sáng tạo và sản xuất tại Việt Nam.

- Xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý về phát triển đô thị thông minh bền vững; hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia; hệ thống hạ tầng dữ liệu, hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của đô thị thông minh. Xác định rõ lộ trình thí điểm và lựa chọn các đô thị thí điểm đô thị thông minh; cho phép thực hiện thí điểm một số cơ chế đặc thù trong quá trình triển khai thí điểm phát triển đô thị thông minh bảo đảm tính hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tế.

3. Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu

- Triển khai băng thông rộng chất lượng cao trên phạm vi toàn quốc. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân có đủ năng lực tham gia xây dựng hạ tầng viễn thông và các hạ tầng khác cho chuyển đổi số quốc gia.

- Xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia. Hình thành hệ thống trung tâm dữ liệu quốc gia, các trung tâm dữ liệu vùng và địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất. Hình thành các hệ thống dữ liệu tin cậy, ổn định của Nhà nước và doanh nghiệp. Đầu tư trang bị các hệ thống thiết bị thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ dữ liệu công.

- Quy hoạch xây dựng hạ tầng thanh toán số quốc gia theo hướng đồng bộ, thống nhất, dùng chung, tận dụng và khai thác có hiệu quả hạ tầng mạng lưới viễn thông để triển khai các dịch vụ thanh toán cho người dân với chi phí thấp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy mạnh mẽ thanh toán không dùng tiền mặt. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam xây dựng các hệ thống thanh toán số. Quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hình thức thanh toán trực tuyến qua biên giới.

- Đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Xây dựng và triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 25/7/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược an ninh mạng quốc gia.

- Nâng cấp hạ tầng các ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu áp dụng công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trước hết là hạ tầng năng lượng và giao thông. Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia.

4. Chính sách phát triển và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia

- Cơ cấu lại toàn diện hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ công lập. Xây dựng và phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, tập trung vào các công nghệ cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nâng cao hiệu quả đầu tư công cho hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ trên cơ sở áp dụng mô hình quản trị mới theo thông lệ tốt của thế giới.

- Áp dụng các cơ chế, chính sách đặc biệt, có tính đột phá đối với các trung tâm đổi mới sáng tạo. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, trường đại học và viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu mạnh. Khuyến khích các trường đại học, doanh nghiệp, tổ chức trong nước và nước ngoài thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.

- Ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia làm nền tảng cho việc ứng dụng và phát triển các công nghệ cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sản xuất và đời sống. Tạo lập đồng bộ và kịp thời khung pháp lý và hệ thống các chính sách để triển khai và phát triển các công nghệ mới. Xây dựng và triển khai các chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, thực hiện chuyển đổi số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

- Hoàn thiện mô hình và cơ chế, chính sách để tạo sự phát triển đột phá đối với các khu công nghệ cao. Trên cơ sở các khu công nghệ cao Hoà Lạc (Hà Nội), Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh, phát triển các khu đô thị sáng tạo đạt đẳng cấp quốc tế. Thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, đẩy nhanh thành lập các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo quốc gia, trước mắt tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Chính sách phát triển nguồn nhân lực

- Rà soát tổng thể, thực hiện đổi mới nội dung và chương trình giáo dục, đào tạo theo hướng phát triển năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển; đưa vào chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu. Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số; lấy đánh giá của doanh nghiệp làm thước đo cho chất lượng đào tạo của các trường đại học trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số.

- Có cơ chế khuyến khích và ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp công nghệ tham gia trực tiếp vào quá trình giáo dục và đào tạo, tạo ra sản phẩm phục vụ cho nền kinh tế số. Xây dựng một số trung tâm giáo dục, đào tạo xuất sắc về công nghệ theo hình thức hợp tác công - tư. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút, sử dụng nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao. 

- Phát triển mạnh đào tạo nghề và hỗ trợ đào tạo kỹ năng cho chuyển đổi công việc. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho người lao động khi tham gia đào tạo lại, đào tạo nâng cao chuyên môn và kỹ năng để chuyển đổi công việc.

- Hình thành mạng học tập mở của người Việt Nam. Thực hiện theo lộ trình phổ cập kỹ năng số, kỹ năng bảo đảm an toàn, an ninh mạng đạt trình độ cơ bản cho người dân. Đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, xây dựng văn hoá số trong cộng đồng.

6. Chính sách phát triển các ngành và công nghệ ưu tiên

- Tập trung phát triển các ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng cao như: Công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông; an toàn, an ninh mạng; công nghiệp chế tạo thông minh; tài chính - ngân hàng; thương mại điện tử; nông nghiệp số; du lịch số; công nghiệp văn hoá số; y tế; giáo dục và đào tạo.

- Ưu tiên nguồn lực cho triển khai một số chương trình nghiên cứu trọng điểm quốc gia về các công nghệ ưu tiên, trọng tâm là: Công nghệ thông tin và truyền thông, cơ điện tử, công nghệ mới trong lĩnh vực năng lượng, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, điện tử y sinh.

- Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ các ngành và công nghệ ưu tiên chủ yếu thông qua đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi; hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực; phát triển khoa học và công nghệ; đặt hàng mua sắm công.

7. Chính sách hội nhập quốc tế

- Mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác về khoa học, công nghệ với các đối tác, đặc biệt là các nước đối tác chiến lược có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, đang đi đầu trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chủ động tham gia mạng lưới đổi mới sáng tạo toàn cầu.

- Đẩy mạnh thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực từ nước ngoài và các đối tác quốc tế cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo, chuyển giao công nghệ.

- Hoàn thiện luật pháp, chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng nâng cao tiêu chuẩn công nghệ, khuyến khích hình thức liên doanh và tăng cường liên kết, chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài; quản lý chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp dựa trên nền tảng cung cấp dịch vụ xuyên quốc gia để bảo đảm môi trường kinh doanh bình đẳng trong nước. Hoàn thiện các quy định pháp luật về đầu tư mạo hiểm có vốn nước ngoài.

8. Chính sách thúc đẩy chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội

- Tiên phong thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ trong các cơ quan đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm thống nhất, kết nối liên thông và đồng bộ.

- Xây dựng cơ sở dữ liệu số của Chính phủ và các cấp chính quyền, tạo điều kiện để mọi công dân có thể cập nhật thông tin cần thiết về hoạt động của bộ máy nhà nước. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thu thập, quản lý dữ liệu và giao dịch trên nền tảng Internet ở các cơ quan nhà nước.

- Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; chuẩn hoá và tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước các cấp. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện chuyển đổi số. Hoàn thiện các quy trình, thủ tục hành chính phù hợp với hoạt động của chính quyền số, cắt giảm tối đa giao dịch trực tiếp.

IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Các tỉnh uỷ, thành uỷ, ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết tới cán bộ, đảng viên; xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết.

2. Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật để tạo thuận lợi cho tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư theo tinh thần của Nghị quyết; ban hành một số cơ chế thử nghiệm có kiểm soát để khuyến khích phát triển các sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới của nền kinh tế số.

3. Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo xây dựng và triển khai Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; ban hành, triển khai Đề án chuyển đổi số quốc gia và các đề án, chương trình, kế hoạch tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; chỉ đạo xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành cơ chế, chính sách thử nghiệm có kiểm soát đối với các sản phẩm, mô hình, kinh doanh mới. Ưu tiên bố trí đủ nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết.

4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát việc thực hiện Nghị quyết.

5. Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương và các cơ quan liên quan hướng dẫn việc quán triệt thực hiện Nghị quyết.

6. Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc triển khai thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Nguồn: chinhphu.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Facebook dừng hàng chục ngàn ứng dụng của khoảng 400 nhà phát triển

Tóm tắt: 

Facebook vừa cho biết đã dừng hàng chục ngàn ứng dụng trên nền tảng mạng xã hội này, như một phần của việc điều tra nhà phát triển ứng dụng.

Facebook vừa cho biết đã dừng hàng chục ngàn ứng dụng trên nền tảng mạng xã hội này, như một phần của việc điều tra nhà phát triển ứng dụng diễn ra vào tháng 3/2018 để ứng phó với các ứng dụng sau vụ bê bối Cambridge Analytica.

Các ứng dụng bị dừng có liên quan đến khoảng 400 nhà phát triển, Facebook cho biết thêm việc dừng ứng dụng không nhất thiết là một dấu hiệu cho thấy các ứng dụng này đang gây ra mối đe dọa cho người dùng.

Đầu năm nay, Facebook đã đồng ý nộp khoản tiền phạt kỷ lục 5 tỷ USD cho Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (FTC) để giải quyết một cuộc điều tra của chính phủ về các thực tiễn bảo mật.

Cuộc thăm dò quyền riêng tư của FTC đã được khởi động vào năm ngoái bởi các cáo buộc rằng Facebook đã vi phạm quy định đồng ý năm 2012 và chia sẻ thông tin không phù hợp của 87 triệu người dùng với công ty tư vấn chính trị Cambridge Analytica, Anh.

Kể từ đó, Facebook đã đồng ý tăng cường bảo vệ dữ liệu người dùng và đã kiềm chế lượng thông tin mà các nhà phát triển bên thứ ba có thể yêu cầu từ người dùng nền tảng.

“Chúng tôi đang nỗ lực. Chúng tôi không thể thực hiện được mọi thứ, và một số trong những gì chúng tôi nắm bắt được sẽ nhờ sự giúp đỡ của những người khác ngoài Facebook”, công ty cho biết trong một đăng tải blog.

QM (Theo Reuters)

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Meme “Đột kích Khu vực 51” được trẻ em tìm kiếm nhiều nhất hè 2019

Tóm tắt: 

Theo báo cáo hè 2019 về an toàn trực tuyến của trẻ, trẻ đang dành sự hứng thú đặc biệt cho “Khu vực 51” (“Area 51”).

Trẻ em đang dành sự hứng thú đặc biệt cho “Khu vực 51” (“Area 51”), theo đó cha mẹ cần chú ý bảo vệ con bạn khỏi các trang web, nội dung độc hại. 

Theo báo cáo hè 2019 về an toàn trực tuyến của trẻ (Kaspersky’s annual summer report into kids’ online safety), trẻ đang dành sự hứng thú đặc biệt cho “Khu vực 51” (“Area 51”).

Theo đó, “Khu vực 51” được cho là một cơ sở nghiên cứu nơi Chính phủ Mỹ nghiên cứu các sinh vật ngoài hành tinh. Không nằm ngoài nỗ lực tận mắt nhìn thấy người ngoài trái đất, người lớn thậm chí còn tạo ra một sự kiện trên Facebook. “Tất cả chúng ta sẽ gặp nhau tại Trung tâm nghiên cứu người ngoài hành tinh Khu vực 51 để thực hiện cuộc đột kích”, theo mô tả sự kiện.

Một trong những sự kiện đáng chú ý nhất của hè 2019 là kế hoạch tấn công vào căn cứ quân sự Khu vực 51 đóng tại Nevada, Mỹ. Trong nhiều năm qua, người ta cho rằng đây là trung tâm nghiên cứu vật thể bay không xác định (Unidentified Flying Object - UFO), được Không quân Mỹ điều hành vào những năm 1940, 1950 và 1960.

Khu vực 51 đã từng xuất hiện trong nhiều bộ phim, như “Independence Day và Paul” (Ngày độc lập và Paul). Hiện tượng này cũng đã truyền cảm hứng cho nhiều tập phim truyền hình, chẳng hạn như “The Twilight Zone” (Miền ảo ảnh) và “The X-Files” (Hồ sơ tuyệt mật).

Mùa hè này, hơn 1,5 triệu người đã đăng ký tham gia sự kiện “Đột kích Khu vực 51” (“Storm Area 51”) trên Facebook. Mục đích của sự kiện được cho là để đột nhập vào một địa điểm bí mật tại căn cứ để xem người ngoài hành tinh có thật sự được giữ trong “Khu vực 51 hay không. Ngoài ra, một bữa tiệc trước sự kiện thậm chí đã được sắp xếp.

Điều thú vị hơn là trẻ em cũng thể hiện sự say mê qua những cuộc trao đổi trên Internet. Sự kiện này phổ biến đến mức đã có rất nhiều meme về nó, và không ít trẻ em lên mạng để tìm kiếm những meme này. Meme là khái niệm này giống với những tấm hình hài hước được chia sẻ trên các mạng xã hội, những website hài hước.

Theo báo cáo từ Kaspersky, khoảng 12% yêu cầu tìm kiếm meme  trong mùa hè này có liên quan đến Khu vực 51, khiến nó trở thành chủ đề phổ biến và được thảo luận nhiều ở trẻ em.

Theo đó, 1 trên 10 trẻ thích thú với các meme liên quan đến Khu vực 51. Trẻ cũng tìm kiếm những từ khóa liên quan như “tọa độ Khu vực 51”, “UFO tại Khu vực 51”, “đột kích Khu vực 51”, “đăng ký sự kiện Đột kích Khu vực 51”, “người ngoài hành tinh ở Khu vực 51”. Một số meme phổ biến khác trong mùa hè này là “grumpy cat” và “Ricardo milos” với tỷ lệ tìm kiếm lần lượt là 4% và 3%.

Thông tin về các meme phổ biến nhất trong mùa hè này ở trẻ được dựa trên số liệu thống kê ẩn từ các sản phẩm của Kaspersky với chức năng “parental control” cho phép phụ huynh kiểm soát hoạt động trực tuyến ở con trẻ. Điều này giúp bảo vệ trẻ khỏi nội dung độc hại trên internet và giúp cha mẹ nhận biết tốt hơn về những điều con họ gặp phải khi trực tuyến.

Anna Larkina, chuyên gia phân tích nội dung web tại Kaspersky cho biết: “Meme hiện nay đã trở thành một phần phổ biến trên Internet. Chúng ta đã thấy trẻ em rất thích những meme và sự kiện như “Đột kích Khu vực 51”, và vẫn tiếp tục hứng thú với nhiều thứ mới. Tìm hiểu về các xu hướng meme là cách hay để cha mẹ hiểu những gì con họ đang quan tâm trên internet. Việc này giúp tránh các tình huống xấu khi trẻ xem phải nội dung không phù hợp.”

Để giúp con bạn an toàn khi lướt web nhưng vẫn xem được các meme yêu thích, cần chú ý đến sở thích của con và cố gắng tìm hiểu các xu hướng Internet hiện tại.

Nếu biết con bạn đang cần tìm kiếm điều gì, hãy hỗ trợ chúng, nhưng cần cẩn thận trong quá trình sử dụng thông tin

Cha mẹ cũng cần sử dụng chức năng “parental control” trong các giải pháp bảo mật tin cậy như Kaspersky Security Cloud, Kaspersky Total Security hoặc sử dụng phần mềm chuyên dụng như Kaspersky Safe Kids, giúp cha mẹ bảo vệ con cái họ khỏi các trang web và nội dung độc hại, giúp trẻ có những trải nghiệm vui vẻ khi trực tuyến.

QA

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT