
Nghề báo
Giải báo chí toàn quốc về dân số - kế hoạch hóa gia đình năm 2011
Submitted by nlphuong on Mon, 22/08/2011 - 15:41(ICTPress) - Nhân dịp kỷ niệm 50 năm truyền thống công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) (1996 – 2011) và ghi nhận, động viên, khen thưởng những cán bộ, phóng viên, cộng tác viên, thông tin viên các cơ quan báo chí Trung ương và địa phương có tác phẩm báo chí chất lượng tốt tuyên truyền về DS-KHHGĐ, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Bộ Y tế, phối hợp với Hội nhà báo Việt Nam tổ chức Giải báo chí toàn quốc về Dân số - KHHGĐ năm 2011.
![]() |
Ảnh minh họa: baodientuchinhphu |
Các tác phẩm dự thi cần phản ánh chính xác, kịp thời, hiệu quả các nội dung sau:
- Việc phổ biến, tuyên truyền, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, luật pháp và chính sách của Nhà nước về công tác DS-KHHGĐ của các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương và của các địa phương, cơ sở trong cả nước (cụ thể là Kết luận 44-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ; Pháp lệnh Dân số, Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 Pháp lệnh DS và các Nghị định hướng dẫn thực hiện; Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 18/8/2010 -của Chính phủ ban hành kế hoạch hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận 44-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị, Quyết định của Chính phủ về Tháng hành động quốc gia về Dân số, Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, Chương trình mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ giai đoạn 2011 - 2015).
- Những thành tựu, kết quả của công tác DS-KHHGĐ trong 50 năm qua (1996 - 2011), đặc biệt là những thành tựu, kết quả đạt được trong giai đoạn 2001 – 2010 và năm 2010 của cả nước, của các địa phương, cơ sở (cụ thể là Mức sinh giảm mạnh và đã được duy trì ở mức thay thế; tốc độ gia tăng dân số nhanh đã được kiềm chế)… Giới thiệu, tuyên truyền các tập thể, cá nhân trong cả nước và quốc tế có thành tích xuất sắc đối với công tác DS-KHHGĐ thời gian qua.
- Những khó khăn, thách thức và định hướng của công tác DS-KHHGĐ giai đoạn 2011 – 2020 của các nước, của các địa phương, cơ sở (cụ thể là Mức sinh biến động khó lường và rất khác biệt giữa các tỉnh; nhu cầu cung cấp phương tiện, dịch vụ KHHGĐ cho khách hàng ngày càng lớn…).
- Tiến độ, giải pháp và kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch năm 2011 như: giảm tỷ lệ sinh, tỷ số giới tính khi sinh, tỷ lệ sáng lọc trước sinh, tỷ lệ sàng lọc sơ sinh, số người sử dụng mới các biện pháp tránh thai hiện đại của các địa phương. Đặc biệt là phát hiện, giới thiệu những điển hình tiêu biểu, những kinh nghiệm hay, những cách làm có hiệu quả của các địa phương, cơ sở trong quá trình tổ chức thực hiện kế hoạch năm.
- Những khó khăn, bất cập trong quá trình tổ chức triển khai công tác DS-KHHGĐ của các địa phương và cơ sở…
Các loại hình báo chí tham dự Giải là: báo in, báo điện tử, báo nói (phát thanh) và báo hình (truyền hình).
Tác phẩm báo chí được xét thưởng bao gồm các thể loại: bài phản ánh, phỏng vấn, ghi chép, bình luận, chuyên luận, phóng sự, điều tra, bút ký báo chí… được các cơ quan thông tấn báo chí trong cả nước sử dụng kể từ ngày 11/7/2010 (ngày Dân số thế giới) đến hết ngày 15/10/2011.
Mỗi tác giả, nhóm tác giả được gửi tối đa 03 tác phẩm tham dự.
Thời gian nhận tác phẩm từ ngày 1/4/2011 đến hết ngày 15/10/2011 (tính theo dấu Bưu điện) được gửi về: Ban Thư ký Giải báo chí toàn quốc về công tác DS-KHHGĐ, Hội Nhà báo Việt Nam, 59 Lý Thái Tổ, Hà Nội.
ĐL
Viết về sự nghiệp Ðại đoàn kết toàn dân tộc
Submitted by nlphuong on Sun, 21/08/2011 - 15:17Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vừa công bố thể lệ Giải báo chí “Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc” lần thứ 9 năm 2011.
Theo đó, các tác phẩm dự giải cần có tính phát hiện, phản ánh chính xác, kịp thời các nội dung: Triển khai các phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động; Việc triển khai thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ về tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; Tình hình và kết quả thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân; Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; Phản ánh những tình cảm, nguyện vọng và việc làm tốt đẹp của các nhân sĩ, trí thức, các chức sắc tôn giáo, người tiêu biểu trong các dân tộc, kiều bào ta ở nước ngoài…
Đối tượng tham gia dự giải là các nhà báo chuyên và không chuyên, các cộng tác viên, thông tin viên của các cơ quan thông tấn báo chí trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài. Mỗi tác giả được gửi tối đa 5 tác phẩm ở các thể loại: báo viết, báo phát thanh, báo hình, báo điện tử và ảnh báo chí.
Các tác phẩm dự giải báo chí “Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc” lần thứ 9 phải là các tác phẩm được các cơ quan thông tấn báo chí trong cả nước sử dụng từ ngày 1/10/2010 đến ngày 30/9/2011.
Ban Tổ chức sẽ trao giải thưởng cho các loại hình báo chí với các mức thưởng: Giải A mỗi giải 15 triệu đồng; giải B mỗi giải 10 triệu đồng; giải C mỗi giải 5 triệu đồng và giải khuyến khích mỗi giải 3 triệu đồng.
Các tác phẩm dự giải gửi về địa chỉ: Thường trực Hội đồng Giải báo chí “Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc”, số 46, Tràng Thi, Hà Nội. Hạn cuối nhận tác phẩm dự thi đến hết ngày 30/9/2011.
NL
Một góc báo chí “rất Hà Nội”
Submitted by nlphuong on Wed, 10/08/2011 - 20:52Hà Nội không có những “con đường báo chí” như Sài Gòn. Hà Nội cũng chưa có nhiều người quen mua và đọc báo mỗi sáng như ở Sài Gòn. Mua một tờ báo ở Hà Nội khó hơn mua mấy tờ báo giữa Sài Gòn. Vậy nhưng mỗi khi nhắc tới một không gian báo chí ở Hà Nội, tôi vẫn không thể quên được hình ảnh những người đàn ông tay cầm ghi đông xe đạp, đầu đội mũ cối, mũ lưỡi chai, nghiêng nghiêng đứng hàng giờ trước những trạm thông tin phường.
Hồi trước những nơi ấy còn được làm bằng bảng đen, sau đó được bảo vệ bằng những tấm lưới mắt cáo chứ chưa phải trong khung nhôm cửa kính như bây giờ. Ngoài việc viết, dán thông báo tin tức của phường còn có thêm báo chí vì thế việc đọc báo tại những điểm công cộng như thế vẫn thường thấy phổ biến. Bây giờ, những hình ảnh ấy vẫn có thể bắt gặp, một khi bạn đi qua phố Phan Đình Phùng, đoạn vỉa hè gần báo Quân đội nhân dân, hay đoạn phố Quang Trung cắt Trần Quốc Toản, hay trên phố Lý Quốc Sư... Vài tháng gần đây, báo Hà Nội mới mỗi ngày cũng dán báo trước cổng tòa soạn, nên nhiều cụ ông vẫn tranh thủ những lúc trời râm mát đảo qua đó theo dõi những thông tin thời sự của đất nước.
Tôi có thể không thích những chiếc loa phường bởi sự xuất hiện không đúng lúc hay vị trí không hợp lý của nó, nhưng với những trạm thông tin thế này, mỗi khi thấy đám đông, mà thường chủ yếu các cụ già chúi vào đọc trong tôi lại xôn xao những hình ảnh về một thành phố an bình, chậm rãi.
Địa điểm đọc báo lãng mạn bậc nhất ở Hà Nội thường được các cụ già chăm chú đọc, đó là trên các ghế đá quanh hồ Hoàn Kiếm. Nếu Bờ Hồ phía bên Bưu Điện thường xuyên đông đúc người lạ mặt, là nơi các đôi uyên ương thường chọn để thực hiện những bộ ảnh cưới thì phía đối diện, đoạn từ nhà Khai trí Tiến Đức tới góc đường Hàng Khay luôn luôn là điểm hẹn của nhiều cụ già. Đó là khoảng không gian không chỉ đọc báo, mà rất nhiều câu chuyện báo chí của Hà Nội, của cả nước và của cả thể giới được đưa ra bàn luận sôi nổi dưới các góc nhìn.
![]() |
Một góc báo chí rất riêng của người Hà Nội
Đó là “không gian của độc giả”, còn với những người làm báo, mỗi góc phố, mỗi con đường có một tòa soạn nào “đóng đô” cũng đều có một quán cà phê hay quán trà chén là “điểm hẹn” của cánh phóng viên nhà báo. Trước cổng báo Đại Đoàn Kết, đúng dốc Hàng Kèn nổi tiếng, hơn một năm trở lại đây có quán trà chén của vợ chồng một chàng trai trẻ tên Đức. Ban đầu chỉ là một quầy bán báo nhỏ, với một số đầu báo hạn chế. Nhưng bán báo không thôi có lẽ sẽ khiến người Hà Nội không mấy quan tâm. Thế là vợ chồng Đức bày thêm mấy chiếc ghế nhựa, mấy chục chiếc cốc chén và cái ấm bán nước trà. Bây giờ, góc phố này luôn tấp nập các nhà báo, để từ đây, nhiều cuộc hẹn được thực hiện, nhiều đề tài được nảy sinh.
Nhưng ngồi ở đó nhiều lần, nhất là vào các buổi sáng, có một hình ảnh khiến cho tôi nhớ nhất, đó là vóc dáng của một cụ già dáng cao, gầy, bước đi nhanh nhẹn, thường ăn vận rất chỉnh tề, chân đi giày, đầu đội mũ. Một hình ảnh đặc trưng của trí thức Hà Nội thuở xưa. Cụ thường tới một cách lặng lẽ, ghé qua sạp báo và mượn một tờ rồi ra lấy một chiếc ghế nhựa màu xanh tựa lưng vào tường ngồi đọc mải miết. Bất kể ngày nắng hay mưa, bất kể đầu tuần hay ngày thứ bảy, miễn rằng cứ thấy vợ chồng “chủ sạp báo kiêm quán nước” dọn dẹp bày biện là ông tới. Cụ đọc xong một tờ báo, lại ra đổi tờ khác, rồi tờ khác. Lần lượt mỗi buổi, cụ đọc khoảng chục tờ báo, từ trang 1 cho tới trang cuối, gần như không sót mục nào. Vị khách ấy đã trở nên quen thuộc, và góp thêm vào “không gian” một điều gì đó… rất Hà Nội.
Trước đây ở số 62 phố Trần Quốc Toản, nằm trong khuôn viên của Hội Nhà báo Hà Nội, có một quán mang tên “cà phê Báo” vì nơi này khách chủ yếu là nhà báo. Người coi sóc quán này cũng là một người trong nghề: nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến (báo Hà Nội mới). Vì thế cách bày biện bài trí đồ vật trong quán cũng rất… báo chí. Ở đây còn trưng bày bộ sưu tập những vật dụng thời bao cấp mà nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến kỳ công sưu tập trong nhiều năm. Tiếc là bây giờ, không gian ấy đã không còn, và nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến đành mang theo cái thương hiệu “cà phê Báo” mà chưa biết… đặt ở đâu.
![]() |
Quán cà phê cũng là nơi "hút" cánh nhà báo, phóng viên
Còn không gian có phần phóng khoáng và đa dạng thậm chí khá ồn ào nữa ở Hà Nội, đó là trước cửa Nhà thờ Lớn và góc phố Hàng Hành. Nếu góc phố Hàng Hành trước đây được nhiều người làm báo chọn vì sự thuận tiện, thì nay điểm lý tưởng và “hút” nhất là quanh Nhà thờ Lớn. Mấy quán cà phê ở đây là điểm tập kết của các phóng viên ở nhiều cơ quan thông tấn khác nhau. Nhất là các nghệ sĩ nhiếp ảnh hay ngồi “chém gió”. Cánh nhà báo trẻ cũng thường gọi điện hoặc nhắn tin một câu rất nhanh gọn: "Nhà thờ nhé". Thế là biết ngay một cuộc hẹn đã được ấn định, chỉ việc phóng xe đến. Và những câu chuyện đường gần đường xa, những câu chuyện buồn vui của nghề lại được chia sẻ.
Theo Hoàng Thu Phố
Người Hà Nội
Kiểu “Tây” hay “ta”
Submitted by nlphuong on Sat, 06/08/2011 - 10:28Có lẽ ai bước vào nghề báo cũng đều nghe nói và có lần thử thực hành lối viết tin theo dạng “kim tự tháp ngược” và cũng chú ý đến những yếu tố thường nghe nhắc đến: ai, cái gì, ở đâu, khi nào, tại sao và như thế nào. Điều này càng đúng với những phóng viên trẻ vừa mới tham dự các khóa tập huấn do nhà báo nước ngoài phụ trách.
![]() |
Ảnh minh họa: hibicc |
Thế nhưng sự đời không đơn giản như sách giáo khoa nghề báo. Thực tế ít khi phóng viên mới vào nghề áp dụng hình thức viết ngược này vì nhiều lý do. Trước hết, tâm lý người Việt chúng ta thích cái gì cũng có đầu có đũa. Từ nhỏ chúng ta từng nghe người lớn la rầy, yêu cầu kể chuyện gì cũng phải từ đầu mà nói. Vì vậy, không lạ gì chúng ta thường đọc một bản tin dài, bắt đầu bằng lai lịch một công ty liên doanh, sau đó là quá trình hoạt động qua nhiều thời gian và cuối cùng mới nói chuyện chính: bên nước ngoài mua lại phần góp vốn của bên Việt Nam và biến liên doanh thành công ty 100% vốn nước ngoài. Đây là một quán tính không dễ gì sửa đổi dù người viết, sau khi đọc tin đã đăng, mới sực tỉnh mình viết sai “nguyên tắc” rồi.
Thứ hai, việc áp dụng hình thức tháp ngược một cách cứng nhắc lại không được người đọc chấp nhận, và chính người viết cũng cảm thấy có gì đó không ổn, lai “Tây”. Lấy một tin giả định như sau:
Một quan chức Ngân hàng Nhà nước hôm qua cho biết sẽ cấp thêm hai giấy phép thành lập công ty chứng khoán cho hai ngân hàng nữa.
Ông Lê Đức Thúy, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nói với phóng viên trong một cuộc họp báo thường kỳ tại Hà Nội rằng Ngân hàng Nhà nước tuần tới sẽ cấp cho Ngân hàng XXX và Ngân hàng YYY giấy phép thành lập các công ty chứng khoán trực thuộc các ngân hàng này.
“Chúng tôi đã xem xét hồ sơ và sẽ chính thức trao giấy phép vào thứ Hai tuần tới,” ông Thúy cho biết.
Sau khi thấy điều không ổn nói trên, biết tin mình vừa viết trông dài dòng không tự nhiên và chấp nhận lối viết thông thường, phóng viên chữa lại:
“Trong buổi họp báo thường kỳ vào ngày 12-3, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Đức Thúy cho biết thứ Hai tuần tới sẽ trao hai giấy phép thành lập công ty chứng khoán cho hai ngân hàng gồm XXX và YYY, nâng số công ty chứng khoán đã được cấp phép lên bốn công ty.”
Phải nói ngay trường hợp này là cách làm đúng chứ không phải lúc nào phóng viên cũng buộc phải theo cấu trình hình tháp ngược một cách cứng nhắc như bản thảo đầu tiên. Vấn đề ở chỗ hiểu cấu trúc này như thế nào và áp dụng vào việc viết báo cho người dân Việt Nam ra sao.
Khác với người dân phương Tây, thường phải liếc qua hàng chục trang báo mỗi sáng để nắm thông tin bao quát và đọc kỹ những tin nào mình thích, dân Việt Nam còn thời giờ để đọc chậm, đọc hết cả tin. Cấu trúc câu của tiếng Việt khác với cấu trúc câu tiếng Anh cho nên không thể cứng nhắc đưa yếu tố thời gian ra sau: ông XYZ nói vào hôm qua… Diện tích trang tin của báo Việt Nam còn ít, không thể hào phóng viết theo dạng vòng tròn đồng tâm, câu sau mở rộng thêm một chút như báo chí nước ngoài.
Cho nên, theo ý kiến riêng của người viết bài này, phóng viên trẻ hãy làm một phép thử: nếu mình kể tin đó cho bạn bè, người thân nghe, mình sẽ bắt đầu như thế nào thì khi viết tin cũng nên bắt đầu như thế đó. Nếu làm được điều này một cách nhuần nhuyễn, không gượng ép, thì chính là bạn đang viết theo hình thức tháp ngược, là đang đưa mọi yếu tố who, what, when, where, why, how vào tin mà không còn ngại đang viết theo lối “Tây” hay “ta”. Nói cách khác, biết mình muốn nói gì và nói nó ra - đó là câu mở.
Ví dụ, dự một hội nghị, chúng ta có thể thấy mất thì giờ một cách vô ích vì diễn tiến hoàn toàn như trong chương trình in và phát trước: cũng đọc diễn văn khai mạc, cũng phát biểu ý kiến và đọc tham luận, xong rồi phát biểu kết thúc hội nghị. Tất cả đã được in và phát trước. Bây giờ mở đầu tin như thế nào đây?
Nếu hôm đó về nhà, bạn không có hứng thú kể lại cho ai nghe về hội nghị thì chỉ nên viết một tin ngắn và đưa vào mục tin vắn. Nhưng nếu bạn về và hào hứng kể lại, trong hội nghị hôm nay, ông gì đó có cho biết sẽ ký kết một dự án lớn mà trước đây nhiều báo săn tin chưa được…, bạn hãy bắt đầu tin của bạn với thông tin này và khi đó bản thân hội nghị chỉ là thông tin nền cho biết bối cảnh nguồn tin phát ra tin trên.
Nhìn một cách khác, bạn hãy hình dung trang báo chật, tin nhiều, nhiệm vụ của bạn là kể làm sao cho người đứng trang nghe lọt lỗ tai và chừa cho bạn mấy cột báo. Kể với mục đích thuyết phục như vậy, bạn sẽ phải nhớ lại chi tiết gì hay nhất, hấp dẫn nhất, thời sự nhất để tung ra ngay từ đầu. Sau đó, bạn phải dùng những chi tiết đắt nhất, minh họa rõ nhất, và củng cố tính chính xác để tiếp tục thuyết phục người đứng trang. Một cách khác nữa là tưởng tượng bạn đang phải viết một bức điện tín gởi đi nước ngoài, mỗi chữ tốn mất cả chục ngàn. Chỉ với suy nghĩ này thôi, bạn sẽ phải tiết kiệm lời, sao cho nói càng ít mà kể được hết điều muốn nói là tốt nhất.
Quá trình này cũng là quá trình sắp xếp viết tin từ lúc mở cho đến lúc kết. Phần đông các bạn ít chú ý đến cái kết của tin bài. Thật ra, đây chính là phần sẽ còn đọng lại trong tâm trí người đọc. Nên gia công làm sao để chính bạn hài lòng với cái kết bài như từng trăn trở làm sao mở bài cho hay; như vậy chắc chắn các bạn sẽ để lại một ấn tượng tốt ở người đọc.
Theo Nguyễn Vạn Phú
“Nhà báo viết về nghề báo” – Nhà Xuất bản trẻ, Thời báo Kinh tế Sài Gòn
Những cách viết mào đầu hấp dẫn
Submitted by nlphuong on Fri, 05/08/2011 - 23:06Khởi đầu một cái gì đó đều khó, huống hồ muốn có sự khởi đầu hấp dẫn. Dưới đây là những ví dụ về cách viết mào đầu hấp dẫn cho một tác phẩm báo chí, hãy cùng tham khảo.
![]() |
Mào đầu dẫn dắt
Hãy tránh xa cách vào đề theo kiểu sách giáo khoa và hãy thử một mào đầu có tính chất giai thoại, với lỗi dẫn dắt có đôi chút hư cấu. Loại này ứng dụng rất tuyệt với với những chủ đề vốn khô khan hoặc các vấn đề khoa học có tính lý thuyết cao. Đây là đoạn mở đầu bài báo nói về những tiến bộ trong ngành khám chữa bệnh thính giác:
“ Một vài năm trước đây, một người bạn ngoài 40 tuổi kể với tôi rằng chị bị điếc từ năm lên sáu. Sau một ca phẫu thuật, thính giác của chị trở lại hoạt động bình thường. Xúc động nhất, chị kể, là khi tỉnh thuốc mê, thấy cô y tá mở vòi nước trong phòng tắm, chị có thể nghe được tiếng nước đang chảy.” Đó là một giai điệu tuyệt với”, chị nói.
Nếu tác giả dùng mào đầu bài viết để kể về lịch sử của ngành Y tế khám chữa bệnh thính giác hoặc tập hợp những thống kê, số liệu khoa học về việc hiện có bao nhiêu người đang bị các bệnh về thính giác… phóng viên có thể sẽ đánh mất độc giả của mình ngay lập tức.
Mào đầu bằng một nhân vật
Chuẩn bị viét một bài báo mà trong tay không có số liệu hoặc chưa đủ các tư liệu cần thiết, bạn hãy liều mình mào đầu bằng một nhân vật có liên quan đến chủ đề. Thực ra, bản thân nhân vật, khi được coi là điển hình, cũng đã là một dạng tư liệu hấp dẫ và đầy sức sống. Sau đây là mào đầu trong một bài viết về trào lưu sống thử trong thanh niên, sinh viên xa nhà hiện nay:
“D, sinh viên trường Nông lâm và Q, sinh viên Ngoại ngữ mới quen được một tuần, đến ngày thứ 8 đã kéo nhau về sống thử vợ chồng. Từ ăn mặc, chợ búa, mua sắm đến cả việc học hành lẫn “XX” đều không thể không chung”.
Tương tự như thế, sau hai đoạn tiếp theo, tác giả lại tiếp tục vẽ ra một bức tranh khác với nhân vật là cặp “vợ chồng sống thử” làm công nhân tại một khu công nghiệp. Cuối cùng trong đoạn kết, tác giả đưa ra quan điểm của những người ngoài cuộc về vấn đề này. Bài viết hoàn toàn không cung cấp số liệu, chỉ minh chứng bằng nhân vật và đưa ra một số ý kiến do tác giả thu thập được song vẫn khiến người đọc thấy hấp dẫn và tin cậy.
Mào đầu dựng cảnh
Một nhà báo kể lại: Sau khi tiếp xúc với hai người phụ nữ chuyên làm nhiệm vụ giúp việc chăm sóc người cao tuổi, tôi đã quyết định viết về họ. Tôi đã cố gắng thử đi thử lại tới năm, sáu lần viết mào đầu nhưng không thành. Nhân vật, công việc và sự tất bật của họ cứ hiện lên trước mắt mà tôi không biết túm vào đâu để bắt đầu bài viết. Một ý tưởng chợt loé lên, tôi “bê” nguyên sự bận rộn và nhiệt tình của họ vào mào đầu để chính nó tự nói lên tất cả. Đó là lý do tôi chọn một mào đầu dựng cảnh để có thể diễn đạt được ý tưởng của mình:
“Chuông điện thoại réo vang; Mẹ tôi đang cần đi chụp Xquang. Việc này phải mất tới vài ngày mà tôi đang bận đi công tác, không thể đưa bà đi được không?”
“Chuông điện thoại tiếp tục réo: Ông nội tôi…”
Sau đó tác giả liệt kê tiếp hai cuộc gọi nữa, cũng vẫn giữ nguyên hình thức thể hiện và tiếp đó nhà báo viết: “Mỗi lần nhấc điện thoại là một lần họ nói câu đồng ý. Họ luôn vui vẻ và sẵn sàng giúp đỡ. Họ chính là những người giúp việc gia đình tại thung lũng Lehigh, ở Guthsville, PA”.
Mào đầu gây sốc
Chẳng có gì hấp dẫn độc giả bằng một mào đầu gây sốc. Bạn có thể bắt đầu bài báo bằng một lời phát biểu, một hình ảnh sốc. Mào đầu này đặc biệt hiệu quả với những bài viết mang tính cảnh báo.
“Scott chết khi em mới được năm tuổi rưỡi. Em sinh ngày 29 tháng 12 năm 1969. Lúc mới sinh, Scott trông rất kháu khỉnh với mái tóc xoăn vàng nhạt và đôi mắt xanh to. Đặc biệt, em khỏe mạnh, háu ăn và hiếu động.
Nhưng rồi, Scott đã bị nhiễm bệnh Tay-sachs…”
Đây là mào đầu trong bài viết cảnh báo về nguy cơ mắc bệnh Tay-sachs, một loại bệnh di truyền lặn với nhiễm sắc thể thân gây ngu đần và mù ở trẻ em. Căn bệnh này đang gia tăng trong khi nhiều cặp vợ chồng còn thờ ơ và thiếu hiểu biết về nó.
Đôi khi, muốn gây sốc cho độc giả, bạn có thể dùng đại từ nhân xưng để trực tiếp gọi và trò chuyện với độc giả ngay trong mào đầu.
“Những người cao tuổi nên thận trọng với những lời đường mật của một số tên dược sĩ dởm khi chúng nói rằng đang gửi đến cho các ông bà những thiết bị y tế được tài trợ bởi Chương trình của chính phủ Mỹ về chăm sóc người già trên 65 tuổi”.
Đưa ra câu hỏi
Một cách viết mào đầu khá quen thuộc là sử dụng câu trích dẫn của một nhân vật có thế lực kèm theo giới thiệu tên, xuất xứ, chuyên môn của người đó hoặc bối cảnh phát ngôn.
“ Ngày 2/10, phát biểu trên truyền hình. Cảnh sát trưởng Iran Blair của thành phố London (Anh) đã xin từ chức với lý do “vì đặt lợi ích của người dân và Sở Cảnh sát London lên trên hết”.
Dùng đoạn hội thoại
Hội thoại là một trong những nguyên liệu quan trọng mà phóng viên có thể sử dụng để viết mào đầu. Đối với một bài báo mà chủ đề có vẻ mang chút kịch tính thì mào đầu hội thoại rất hiệu quả. Đây là đoạn mở đầu trong một bài viết về tôn giáo:
“Mẹ, thế là mẹ đồng ý rồi phải không. Con phải từ bỏ mọi thứ con yêu vì Đức cha Moon và niềm tin của người”, Athur, cậu con trai 22 tuổi của tôi đang nói qua điện thoại, “Âm nhạc của con, chiếc trống của con, căn hộ và cả bạn gái của con nữa”.
Trong đoạn mở đầu hiện lên hình ảnh hai mẹ con và những tâm tư của họ. Câu mở đầu tạo kịch tính và những cảm xúc khác nhau cho người đọc.
Mào đầu thể hiện quan điểm . Cuối cùng, nếu bạn không thể sử dụng được mào đầu nào trong số trên, bạn hãy nghĩ đến việc bắt đầu bài báo bằng việc đưa ra một lời tuyên bố, thể hiện một quan điểm. Mào đầu này đọc có vẻ hơi “thật thà” nhưng bù lại để tạo niềm tin với độc giả. Chú ý dùng những câu giản dị, rõ ràng và thẳng thắn. Đây là mào đầu của bài viết “Liệu luật pháp có đối xử sai với phụ nữ”:
“Công việc của tôi là bào chữa cho những phụ nữ mang tội giết chết những người đàn ông đã lạm dụng tình dục họ. Tôi gặp khách hàng của mình trong nhà tù”.
Mào đầu tiên không chỉ là một minh chứng cho tính xác thực của bài báo, bộc lộ quan điểm của tác giả mà còn là một lời mời độc giả bước vào… nhà tù cùng tác giả.
Dù bài viết của bạn đề cập vấn đề gì đi nữa thì điều bạn muốn nói phải được nhận ra ngay trong đoạn mào đầu, thậm chí, nếu có thể, nằm ngay trên tít.
Khi bạn đang viết về một tộc người nào đó, cần phải chắc chắn độc giả của bạn có thể biết tộc người đó là ai ngay từ những câu đầu tiên.
Hãy viết một mào đầu hấp dẫn nhưng không được phép gây chú ý quá mức so với toàn bộ bài báo vì sẽ khiến độc giả hiểu lầm, đánh giá bài viết là “đầu voi đuôi chuột”, mào đầu hay nhưng càng đọc càng chán.
Không sử dụng đoạn mô tả dài dòng ngay trong phần mở đầu Hãy dùng những câu ngắn và những đoạn văn ngắn
Theo Duy Hoàng
Tạp chí Người làm báo Thanh Hóa/Nghề báo
Từ ngữ và nỗi đau
Submitted by nlphuong on Tue, 02/08/2011 - 15:57Hai bà cùng xóm ngồi chuyện vãn. Một bà hỏi: “Lúc này con Bảy nhà chị đi đâu mà thấy vắng?”. Bà kia trả lời: “Nó đi giúp việc nhà cho người ta ở trên phố”. Bà kia vọt miệng: “Đi ở đợ thì nói đi ở đợ cho rồi; còn bày đặt nói “đi giúp việc nhà”! Người mẹ có đứa con đi “ở đợ” bỗng nghẹn lời.
![]() |
Minh họa: Khều
Nói “giúp việc nhà” (gần đây có từ “ôsin” cũng hàm nghĩa tương tự) thay vì nói “ở đợ”, hoặc “làm đầy tớ”, “con đòi”, “con sen” thì có gì sai? Không hề, mà ngược lại nó còn tế nhị và thể hiện một cái nhìn thân thiện với những người nghèo khổ đi làm công việc cực nhọc mà hữu ích này. Cái cách nói trắng, nói huỵch toẹt như vậy trong trường hợp này chỉ bộc lộ một thái độ coi thường, khinh miệt thường thấy trong những xã hội phong kiến, thực dân trước đây hoặc nơi những người ăn nói khinh suất, thiếu cân nhắc, thậm chí có khi là hợm hĩnh.
Cũng vậy, khi người ta gọi những người làm nghề quét rác cho sạch đường phố là “công nhân vệ sinh” thì cái cách nhìn đối với người quét rác đã không còn vẻ coi thường, khinh rẻ, không như khi ta gọi họ là “phu quét đường”, “người quét rác”.
Thực ra, có rất nhiều ví dụ tương tự trong ngôn ngữ xứ mình. Và những cách gọi như thế không phải là một cách tránh né, che giấu cái hèn kém (có nghề nào là hèn kém đâu!) hoặc làm giảm đi nét nghĩa tiêu cực như kiểu nói “điều chỉnh giá xăng dầu, điện nước” nhưng đúng ra phải nói là “tăng giá...”, nói “bệnh tiêu chảy cấp” thay vì “dịch tả”,... mà chính là cách nói tế nhị, thân thiện mà vẫn đúng về mặt ngữ nghĩa. Nó mở ra cho người sử dụng ngôn ngữ những khả năng chọn lựa thích hợp và điều đó cho thấy sự phong phú của tiếng Việt. Ông bà ta chẳng từng dạy: “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói...”, “Học ăn, học nói, học gói, học mở” đó sao?
Nên cảm ơn những ai đã nghĩ ra những từ ngữ tế nhị và thân thiện như thế. Và cũng nên phát triển những cách gọi như thế.
Tiếc là nhiều năm trở lại đây đã xuất hiện xu hướng dùng từ cộc lốc, thô nặng. Dường như với nhiều người, sự tế nhị và mềm mại của tiếng Việt là không cần thiết; và khi nói năng, giao tiếp bình thường họ cứ việc giản lược, vật chất hóa thô bạo, ẩu tả, chẳng mảy may nghĩ rằng cách nói và lời lẽ của mình có thể tạo nên nỗi bực dọc, phiền muộn nơi người nghe hay đối tượng được gọi tên. Chẳng hạn, các cụm từ như “xuất khẩu lao động”, “chợ lao động”, “chợ cơ bắp”, “chợ người”... mà giờ đây đã được dùng rất nhiều trong lời ăn tiếng nói hàng ngày và cả trong văn bản.
Trước nay, với từ “xuất khẩu”, ta thường dùng gắn với các loại hàng hóa, vật dụng, nông sản..., chẳng hạn: xuất khẩu lúa gạo, xuất khẩu cao su, xuất khẩu tôm cá, hạt tiêu, hạt điều... Đến khi mở cửa giao thương với thế giới, tổ chức đưa người đi lao động ở các nước, thì sẵn tiện ghép luôn (không rõ ai đã có công sáng chế!) từ “lao động” vào “xuất khẩu”, thành ra cụm từ “xuất khẩu lao động”. Cách gọi như vậy khác nào vô tình đánh đồng người lao động với lúa gạo, cá tôm, cao su, tiêu điều...?
Chính cái cách định danh sai về mặt cấu tạo từ ngữ và cả trong nhận thức, quan niệm này đã dễ dàng dẫn đến những lối nói xấc xược, gây sốc vẫn thường nghe như “đám lao động xuất khẩu”, “bọn lao động xuất khẩu”! Xin nhắc rằng, việc đi lao động nước ngoài để mưu sinh là chuyện bình thường mà hầu như nước nào cũng có và hoạt động đưa người đi lao động nước ngoài đem về nhiều lợi ích cho đất nước.
Người lao động trong nước hoặc ở nước ngoài đều đáng trọng như nhau, trừ phi họ vi phạm pháp luật. Sao không gọi một cách đáng hoàng, tử tế và đúng đắn là “người đi lao động nước ngoài” hoặc “đưa người đi lao động nước ngoài”... Vẫn biết rằng ngôn ngữ vốn có quy luật tiết kiệm (nói tắt, nói gọn), thế nhưng sử dụng ngôn ngữ cần phải có văn hóa, không thể bảo rằng để nói gọn mà ta có thể nói năng thiếu cân nhắc, có thể gây tổn thương người khác. Vả lại, như đã nói, trong nhiều trường hợp cần sự tế nhị, ngôn ngữ sẽ cho ta những lựa chọn thích hợp. Còn với những trường hợp “chợ người”, “chợ lao động”... thì hỡi ơi, nhưng những người lao động nghèo khổ, thất nghiệp bị xô vào cái mà có người vô cảm gọi là “chợ” ấy chính là đồng bào của ta, và biết đâu trong số đó có cả những anh em, bè bạn, bà con sa cơ thất thế của ta! Có cách gọi nào ít đau xót hơn chăng?
Ngôn ngữ gắn với cảm xúc, tư duy. Chính qua lời ăn tiếng nói mà người ta biết được cách nhìn, thái độ và cả trình độ văn hóa của một người hoặc một cộng đồng về những gì đang diễn ra chung quanh.
Theo Công Thắng
Thời báo Kinh tế Sài Gòn
"Con mắt biên tập"
Submitted by nlphuong on Sun, 10/07/2011 - 21:00LTS: Tác giả cuốn sách là những nhà báo và chuyên gia tên tuổi trong giới truyền thông Mỹ. Bà Jane T. Harrigan là giáo sư khoa báo chí ở Đại học New Hampshire kiêm cố vấn cho nhiều ấn phẩm đa dạng. Bà Jane đã có 23 năm giảng dạy nghiệp vụ biên tập. Còn Karen Brown Dunlap là giám đốc Viện Báo chí Poynter ở Florida và đã hai lần tham gia ban giám khảo giải thưởng báo chí Pulitzer.
"Con mắt biên tập" là cuốn sách nghiệp vụ báo chí đầu tiên trong tủ sách "Nghề báo" do công ty Sài Gòn truyền thông thực hiện. Nhà báo Trần Trọng Thức, người có nhiều đóng góp với các tờ Tin Sáng, Tuổi Trẻ, Lao Động, Thời báo Kinh tế Sài Gòn... và hiện nay là tờ Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần đã viết lời giới thiệu cuốn sách. Tuần Việt Nam xin trân trọng giới thiệu tới quí vị độc giả:
Bài báo đến với bạn đọc là một quá trình không đơn giản bởi phải qua rất nhiều công đoạn. Tác giả những bài viết có chất lượng cao thường được độc giả yêu mến và cảm phục, thế nhưng người làm cho bài báo ấy hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn và hấp dẫnhơn lại không được mấy ai biết đến. Đó là các biên tập viên, thường được ví von là "những nhà báo thầm lặng".
L.R.Blanchard thuộc hệ thống báo chí Gannett nổi tiếng trên thế giới, khi nói về tầm quan trọng của biên tập viên đã cho rằng, một Ban Biên Tập thật giỏi với những biên tập viên trình độ nghiệp vụ trung bình cũng chỉ có thể cho ra đời một tờ báo xoàng xĩnh. Một Ban Biên Tập tầm thường mà có những người biên tập đầy năng lực thì có thể đưa ra công chúng một tờ báo hạng khá. Một Ban Biên Tập bản lĩnh được hậu thuẫn bởi những người biên tập giỏi thì bảo đảm xã hội có được một tờ báo thật hay. Ông nói thêm: "Dù người viết nổi tiếng đến thế nào đi nữa, bài của họ chỉ có lợi hơn nếu được người khác đọc và biên tập".
Vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng cùng với quá trình phát triển của truyền thông nói chung và báo chí nói riêng. Đã từ lâu, nhiệm vụ của biên tập viên chủ yếu là sửa sai, gạn lọc và trau chuốt câu cú làm cho bài viết giản dị, dễ hiểu. Để làm công việc vừa nói một cách hoàn mỹ, người biên tập cần tra cứu, đối chiếu tài liệu và hội ý với người viết. Bài viết sau khi được sửa sẽ trở nên trong sáng, mạch lạc và ít sai sót hơn. Nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ, anh ta còn phải sống trong dòng thời sự chủ lưu, có trí phán đoán, sự uyên bác trong nhiều lĩnh vực, óc biện luận và phản biện, trí tưởng tượng, đức tính thận trọng và khiêm tốn, đồng thời cũng phải biết hoài nghi.
![]() |
Giờ đây khái niệm biên tập đã được mở rộng, biên tập viên có mặt hầu như ở các khâu quan trọng trong quá trình sản xuất của một tờ báo với nhiều chức danh khác nhau, từ biên tập nội dung đến biên tập kỹ thuật, từ biên tập tít tựa các bài viết đến hình ảnh và cả biên tập trình bày trang báo...
Với ban biên tập, họ là một bộ phận tham mưu đắc lực về nội dung tờ báo. Với phóng viên họ là người bạn đồng hành cùng làm việc, có khi tham gia từ bước đầu tư duy đề tài, trao đổi thông tin lẫn giúp hoàn chỉnh bài viết.
Khái niệm huấn luyện viên viết báo (Writing-coach) được nói đến trong cuốn sách nghiệp vụ báo chí mà bạn đọc đang cầm trên tay có thể cho chúng ta hình dung biên tập viên làm việc như một huấn luyện viên trong thể thao. Họ không dạy dỗ mà cùng làm việc và chia sẻ thông tin với phóng viên, biết phát huy thế mạnh của từng người trong đội ngũ và tôn trọng phong cách của các cây viết.
Sửa bài nhưng không được sửa ý, đó là nguyên tắc mà người biên tập nào cũng thuộc nằm lòng. Chính sự tôn trọng ý tưởng của người viết khiến báo chí phản ánh được những góc nhìn khác nhau về một vấn đề được xã hội quan tâm, mới không bị rập khuôn như cách hiểu máy móc báo chí là một công cụ.
Với cộng tác viên, biên tập viên làm vai trò trung gian giữa người làm báo và người viết báo. Vai trò ấy khiến việc sửa bài cho người bên ngoài đôi khi khó khăn và phức tạp hơn. Đã có không ít các bậc học giả, các chuyên viên mà tên tuổi đã trở thành "thương hiệu" khi thấy bài viết của mình bị sửa đôi chút đã vội phê phán tòa soạn một cách nặng nề rằng: đẻ đứa con ra không ai muốn con mình bị cắt chân, cắt tay. Thật ra người biên tập không độc ác như vậy, anh ta chỉ cắt những mẩu thịt thừa và vài dị tật của cơ thể ấy mà thôi.
Thế nhưng điều này không phải lúc nào cũng được các tác giả đồng tình. Chẳng hạn không ít cộng tác viên là chuyên viên lỗi lạc, nội dung các bài viết của họ nhiều khi được chuyển tải bằng những ngôn ngữ có tính bác học, phù hợp với phong cách nghiên cứu. Nhưng khổ nỗi, tờ báo lại có yêu cầu là làm sao để hầu hết độc giả của mình nắm bắt được những kiến thức uyên thâm ấy bằng một thứ ngôn ngữ đời thường dễ hiểu, đó là ngôn ngữ của báo chí. Cho nên tìm được một chuyên viên, một học giả, một nhà văn viết báo giỏi là điều rất quý đối với một tờ báo. Nếu không được như vậy, thì công việc của người biên tập sẽ rất nặng nề để tranh thủ được sự vừa lòng cả hai phía người viết và người đọc.
Thực tế cho thấy để bài báo hoàn chỉnh hơn thì công việc biên tập nên khởi đầu từ chính tác giả. Người viết, nếu được trau dồi kỹ năng sẽ biết những nguyên tắc căn bản về sửa bài để tránh bớt những sơ sót, cũng như để hoàn thiện cách sử dụng từ ngữ và lối hành văn. Bài viết của những nhà báo thận trọng sau khi qua tay người biên tập giỏi có khả năng sẽ tăng thêm hiệu ứng, tờ báo tạo thêm được uy tín với độc giả.
Báo chí là một sản phẩm của xã hội. Định chế xã hội dù có khác nhau nhưng đạo đức nghề nghiệp vẫn cần được chuẩn hóa trên cơ sở tôn trọng sự thật, tính trung thực và khách quan, vì sự tiến bộ mọi mặt của con người và sự phát triển của cộng đồng. Làm thế nào để góp phần làm cho xã hội ngày hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai tốt hơn hôm nay, phải chăng suy nghĩ đó đã khiến ngày càng có nhiều người thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau tham gia vào đời sống báo chí.
Trong một không gian viết báo ngày càng được mở rộng như vậy thì "Con mắt biên tập" (The Editorial Eye) của hai tác giả Jane T. Harrigan và Karen Brow Dunlap được Sài Gòn Media và báo Sài Gòn Tiếp Thị giới thiệu với người đọc vào thời điểm này rõ ràng đã đáp ứng nhu cầu của những người yêu nghề báo. Có thể xem đây là một cẩm nang nghiệp vụ đúng nghĩa với những chỉ dẫn chi tiết dành cho cả người viết lẫn người làm báo, không chỉ bổ ích cho phóng viên mới vào nghề tránh được những vấp ngã mà còn giúp những ai muốn đi xa hơn trong nghề viết hệ thống lại kỹ năng cơ bản.
Nội dung cuốn sách này còn bổ sung cho những khiếm khuyết trong giáo trình báo chí ở các trường đại học hiện nay, nơi mà những nhà báo tương lai được truyền đạt kiến thức đại cương và lý thuyết nhiều hơn các kỹ năng nghiệp vụ của báo chí thế giới đang phát triển không ngừng.
Không quá đáng khi nói rằng, "Con mắt biên tập" là một đóng góp đáng kể trong việc hoàn chỉnh phong cách viết báo hiện đại mà chúng ta đang hướng đến./.
Theo Tuần Việt Nam, VietnamNet
Khái quát về lực lượng trí thức và hoạt động truyền thông báo chí Việt ngữ của cộng đồng người Việt ở một số nước châu Âu
Submitted by nlphuong on Sat, 02/07/2011 - 00:46PGS.TS.Lê Thanh Bình
Nghiên cứu hoạt động báo chí của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nói chung và tại một số nước châu Âu là một yêu cầu bức thiết, bởi hoạt động này liên quan đến kinh tế tri thức cùng đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng; liên quan nhiều đến tầng lớp trí thức, có văn hóa cao ở các nước và góp phần làm cơ sở cho việc xây dựng các chính sách về đại đoàn kết đồng bào trong, ngoài nước của Đảng Nhà nước ta.
Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị khẳng định: “Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam... Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với những chuyên gia, trí thức có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lý, điều hành, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao cho đất nước, góp phần phát triển nền văn hoá, nghệ thuật của nước nhà”.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 3 triệu người Việt Nam sinh sống bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, đông nhất ở Mỹ (hơn 1,3 triệu), tiếp là ở Pháp (300.000), Úc (250.000); cộng đồng người Việt ở các nước châu Âu trừ Nga và Đức có số lượng hơn 100.000, Anh (40.000), Czech (gần 40.000), Ba Lan (hơn 20.000) số còn lại cư trú không đông ở khắp 5 châu và chỉ có 3 người sống tại Algeria (nước có ít người Việt định cư nhất). Sinh sống ở nước ngoài, người Việt làm nhiều nghề và dù sống ở đâu thì ai cũng cần thông tin, nhất là thông tin qua báo chí. Hoạt động truyền thông báo chí là hoạt động đặc thù, ai cũng có thể làm báo, nhưng những người viết chủ yếu thường có học vấn, hiểu và say với nghề báo mới đảm báo cho tờ báo hấp dẫn, có độc giả, sống lâu với thời gian. Đầu tư cho Đài Phát thanh, Truyền hình cần vốn lớn, báo mạng cần điều kiện đặc thù của nó, nên báo viết vẫn tồn tại. Tuy nhiên, mấy năm gần đây có xu hướng báo mạng với các Website được chú trọng hơn cùng với nhiều hoạt động truyền thông khác bắt đầu phát triển trong các cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Trước hết, xin phân tích khái niệm người trí thức, vì đó vẫn là lực lượng làm báo nòng cốt trong làng báo ở nước ngoài nói chung và châu Âu nói riêng.
1. Trí thức - lực lượng nòng cốt làm báo ở nước ngoài (kể cả Đông Âu):
Xét về nghĩa chung, người ta không đặt nội hàm trí thức vào không gian lãnh thổ hay khuôn định nào đó, theo chúng tôi, quan niệm phổ biến về người trí thức chân chính như sau: Đó là người có học vấn, có văn hóa, có nhân cách; chủ yếu lao động trí óc (sáng tạo, tự do, hướng thiện…); hướng theo các tư tưởng tiến bộ để tìm tòi, suy nghĩ, phản biện, tìm giải pháp, phát minh… nhằm bảo vệ niềm tin, chính kiến vì xã hội, cộng đồng (quốc gia, dân tộc, nhân loại). Họ là những người dũng cảm, trung thực, khiêm tốn, kiên định trong thiên chức, sứ mệnh của mình, không ngại các áp lực; phấn đấu vì niềm tin ở chân lý, hạnh phúc con người, sự hài hòa giữa con người với tự nhiên.
Ngày nay, cho dù quan niệm về trí thức có thể thay đổi do sự vận động của các điều kiện lịch sử xã hội, thì trong xã hội thời nào cũng vậy, tầng lớp trí thức đều có các vai trò chủ yếu sau đối với quốc gia, dân tộc nói chung, đồng thời tác động lớn lao đối với việc xây dựng và phát triển văn hóa nói riêng (kể cả cho văn hóa cộng đồng người Việt ở nước ngoài) là:
- Tiếp thu và truyền bá tri thức qua nhiều kênh trong đó có kênh các phương tiện thông tin đại chúng;
- Sáng tạo các giá trị mới của tri thức;
- Đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương, chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề của xã hội;
- Dự báo phát triển và định hướng dư luận xã hội;
- Tham gia gián tiếp và trực tiếp vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất, sản phẩm văn hóa tinh thần cho xã hội.
- Những tri thức kiệt xuất là tầng lớp mũi nhọn, đầu tàu trong việc xây dựng, phát triển văn hóa, có tác dụng nêu gương, mở đường cho công chúng noi theo.
Cùng với những vai trò quan trọng kể trên, tầng lớp trí thức còn là bộ phận người rất nhạy cảm, có uy tín lớn cũng như tầm ảnh hưởng rộng trong xã hội. Những đặc điểm này của trí thức là do những điều kiện khách quan và vị trí của tầng lớp trí thức trong xã hội. Trước hết, đây là bộ phận người có trình độ học vấn cao nhất của xã hội. Họ cũng là những người có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp nhận sớm nhất, nhiều nhất, nhanh nhất những thông tin xã hội. Những lời nói, hành vi của một cá nhân trí thức, đôi khi có thể ảnh hưởng lớn đến dư luận xã hội, thậm chí có thể tạo nên những phản ứng phức tạp liên quan đến an ninh trật tự của một địa phương hoặc cả nước.
Hoạt động của tầng lớp trí thức ngày nay ngày càng gắn bó với thị trường. Kết quả lao động của trí thức, dưới những hình thức khác nhau đều trở thành hàng hóa. Ngay cả chất xám của trí thức cũng dần dần bị chi phối, tác động bởi những quy luật thị trường. Đến lượt nó, sự nảy nở của ý thức thị trường lại kích thích hoạt động sáng tạo của trí thức, góp phần cho sự phát triển của xã hội và giúp cải thiện đời sống của họ.
Người trí thức Việt Nam ở nước ngoài có nghĩa vụ với nước sở tại, nhưng vẫn có thể bám chắc vào nguồn mạch trí tuệ, tinh thần là nền văn hóa Việt để thăng tiến ngoài quốc gia và tiếp tục đóng góp cho đồng bào mình, gắn bó với nhân dân mình. Trên quan điểm quyền lợi quốc gia, dân tộc, chúng ta càng thấy rõ hơn một xã hội muốn phát triển nhanh, vững chắc phải dựa nhiều vào nền kinh tế mạnh mẽ với những doanh nghiệp (DN) - trí thức có tầm vóc lớn, mà suy cho cùng kinh tế, DN mạnh đều phải lấy điểm tựa văn hóa, trí thức để vươn xa.
Trên thực tế, doanh nhân muốn thành danh, thành đạt thì phải có nhiều phẩm chất trí thức, nhất là ở thời đại kinh tế tri thức ngày nay. Ngược lại, người trí thức muốn đưa được tri thức của mình vào đời sống thực tiễn; muốn hiểu rõ, đúng nhu cầu đời sống; muốn cảnh báo sự lệch pha giữa con người với thiên nhiên, môi trường cần phải hiểu văn hóa DN, doanh nhân, đơn đặt hàng của doanh nhân trong nghiên cứu - phát minh để từ đó doanh nhân có thể hợp đồng, tài trợ trí thức. Như vậy, trí thức, doanh nhân cần phải liên hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau, nâng cánh cho nhau thì dễ đạt được mục tiêu chính đáng của mình và có vị thế nhất định trong xã hội, nhất là ngày nay cả doanh nhân, trí thức đều gắn với xã hội thông tin- truyền thông phát triển ngày càng mạnh mẽ, đa dạng, thâm nhập vào các ngóc ngách đời sống đem lại nhiều lợi nhuận và cũng đòi hỏi khả năng chuyên sâu (kể cả tri thức về quản lý, kinh doanh, công nghệ thông tin, quan hệ công chúng, quảng cáo báo chí..); đòi hỏi cả tính trách nhiệm, lương tri từ phía doanh nhân - trí thức.
Những phân tích vừa nêu cũng đúng cho cả trí thức người Việt hiện sinh sống ở nước ngoài vẫn phù hợp vì rằng hơn ai hết họ hiểu sức mạnh của báo chí Việt ngữ đối với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội của cộng đồng người Việt tại các nước sở tại. Người trí thức vừa có điều kiện văn hóa, uy tín nhất định, năng lực biểu đạt tri thức, thông tin, lại thấy thiên chức truyền bá thông tin, văn hóa của mình trong nghiệp báo. Có những trí thức hành nghề khác để sống và tham gia viết báo cho cộng đồng, nhưng cũng có những trí thức coi làm báo là nghề kiếm sống vì báo tiếng Việt ở nước ngoài vừa có ý nghĩa văn hóa nhưng cũng là sản phẩm hàng hóa gắn chặt với kinh tế thị trường, có thể giúp nhà báo sinh nhai hay hoạt động như trí thức - DN. Do sống xa Tổ quốc, không gắn chặt với đời sống báo chí trong nước và nhiều lý do khác, nên báo chí Việt ngữ và trí thức cầm bút làm báo ở nước ngoài có những quan điểm có khi còn khác đối với báo chí trong nước, thậm chí có nhà báo chống đối với đường lối nhà nước ta mà chúng tôi không phân tích ở đây. Dù sao từ góc độ chuyên môn, xét những tiêu chí về sự liên tục cầm bút, trực tiếp làm cho một tờ báo, tạp chí, hay cộng tác đắc lực với báo giới thì có thể kể tên nhiều nhà báo khá chuyên nghiệp được cộng đồng nhắc đến như: Tại Mỹ là ThS. Phạm Phú Thiện Giao, TS. Ngô Như Bình, TS. Tạ Văn Tài, BS. Lê Vũ, võ sư Nguyễn Văn Thọ, tại Pháp là võ sư Trần Nguyên Đạo, học giả Đặng Tiến, tại Đức có CN. Trương Hồng Quang, tại Nga có Nguyễn Đình Chiến (nguyên là nhà thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội), Nguyễn Thanh Sơn (cử nhân trường Thép Matxcova), Hoàng Thị Hồng Hoa (cử nhân trường Quan hệ quốc tế Matxcova), dịch giả Châu Hồng Thủy (tốt nghiệp khóa viết văn trường Gorky), TS. Nguyễn Huy Hoàng; tại Ba Lan có nhà báo Lê Xuân Lâm, nhà văn Lâm Quang Mỹ, họa sĩ Lợi Hồng Diệp, CN. Thái Hà An, tại Czech có CN. Nguyễn Hoài Vũ, CN. Thiều Văn Quang, CN. Lê Anh, TS. Vũ Hữu Nam v.v...
2. Khảo sát hoạt động báo chí tại Nga, Czech, Ba Lan:
2.1. Sơ lược về sự hình thành các cộng đồng người Việt ở nước ngoài:
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam đã có 4 đợt di cư lớn của người Việt ra nước ngoài. Lần 1 (1914 - 1918) khi diễn ra chiến tranh thế giới thứ nhất, do nước ta là thuộc địa của Pháp nên thực dân Pháp đưa nhiều lính thợ, lính lê dương sang Pháp để phục vụ cuộc chiến. Nhiều người lính đó sau này ở lại Pháp lập nghiệp. Đợt 2 (1945 – 1954), nhiều con cháu từ gia đình giàu có, tư sản, địa chủ lớn người Việt được gia đình cấp tiền hoặc giành được học bổng chính phủ Pháp nên sang Pháp học hành và một số người sau khi ra trường đã xin được việc làm rồi sinh sống luôn tại Pháp. Đáng chú ý là sau khi Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ, ký Hiệp ước Giơnevơ năm 1954, có khá đông gia đình người Việt gồm mấy thế hệ đã di cư sang Pháp. Đợt 3 (1975 – 1993) xảy ra sau khi đất nước thống nhất, có những đối tượng có quan hệ mật thiết với Mỹ hay bộ máy chính quyền bù nhìn hay quân đội miền Nam Việt Nam, có những gia đình trí thức, DN, có những người dân bình thường vượt biên trái phép bằng nhiều con đường để sang Mỹ và các nước phương Tây khác.
Ngoài ra phải kể đến cuộc di cư khác xảy ra từ 1954 đến nay, đó là lực lượng lưu học sinh, lao động theo các hiệp định song phương, những người sang làm ăn buôn bán... đến các nước Liên Xố cũ và Đông Âu. Nhiều người trong đội ngũ này ở lại nước mình đến học tập, lao động, kinh doanh; nhưng cũng có một số tìm đường sang định cư ở Tây Âu và phương Tây. Đa số cộng đồng ở Nga, cộng đồng SNG, Đông Âu ở lại vì mục đích kinh tế và vẫn gắn bó với gia đình ở Việt Nam. Từ sau năm 1995, nhiều lưu học sinh được sang học không chỉ ở địa bàn các nước XHCN cũ mà còn được sang học tại nhiều nước phương Tây, các nước Đông Á (Nhật, Hàn Quốc), một số đã gắn bó với nước sở tại dựng nghiệp ở đó. Đặc biệt thập niên đầu thế kỷ XXI, xảy ra trào lưu phụ nữ Việt lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan khá đông, tạo ra gia đình hỗn chủng.
Trở lại luồng di cư sang Nga và Đông Âu, ta thấy trong số họ có nhiều người tốt nghiệp Đại học, Thạc sĩ, Tiến sĩ, do có trình độ, hiểu ngôn ngữ, phong tục tập quán nên khá nhiều người khi chuyển sang kinh doanh, buôn bán thành công.
Theo thống kê đến 2009, có khoảng hơn 300.000 chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, chiếm xấp xỉ 10 - 15% cộng đồng, bao gồm người có trình độ từ đại học trở lên và các chuyên gia có kỹ thuật, tay nghề cao, tập trung chủ yếu ở các nước thuộc khối phương Tây. Tại Mỹ hiện có hơn 150.000 trí thức người Việt, Pháp khoảng 40.000, Canada hơn 20.000 Tại các nước này có một số trí thức đi làm báo chí chuyên nghiệp. Tại các nước Đông Âu hiện còn khoảng 5.000 người, số đông đã chuyển sang hoạt động kinh doanh, ít người còn làm nghề gắn với chuyên môn được đào tạo, số trí thức gắn với hoạt động báo chí chuyên nghiệp chưa nhiều.
Báo chí Việt ngữ ở Nga và Czech, Ba Lan:
Trước thời Liên xô đổ vỡ (1991-1993), nhìn chung sách báo tiếng Việt vẫn đủ đáp ứng đối với người Việt. Bởi vì lúc đó trên đại lộ Gorky (nay mang tên Tverxkaja) hiệu sách “Hữu nghị” chứa đầy sách, truyện, tạp chí... bằng Việt ngữ; mặt khác hàng tuần, tháng, Đại sứ quán Việt Nam được gửi bằng đường hàng không sang đủ các loại báo đặt, cùng với những đoàn lưu học sinh, lao động xuất khẩu. Đại sứ quán gửi bưu điện đi khắp các nơi một số lượng báo chí, chủ yếu phân chia cho các đơn vị lao động. Năm 1992, tại thủ đô Matxcơva, nơi tập trung người Việt đông nhất toàn Liên bang chỉ có tập san “Đất nước” do sứ quán Việt Nam phụ trách phát hành. Các năm tiếp theo, người Việt tăng lên dần tới con số 100.000 và năm 1993, nước Nga và các nước Cộng hòa tách khỏi khối Liên Xô rộng lớn. Hiệu sách “Hữu nghị” không bán sách Việt nữa, giá cả cước phí hàng không đắt lên và số chuyến bay Hà Nội đi Matxcơva không tấp nập thường xuyên như trước, sứ quán Việt Nam không đủ báo chí trong nước đưa sang phục vụ cộng đồng nữa, nạn khan hiếm thông tin bắt đầu xuất hiện trong cộng đồng. Sau này có Internet nên người ta có thể truy cập để hiểu tình hình trong nước và thé giới, thì người Việt ở Nga và các nước cần báo chí với đặc thù đưa tin nhiều, đậm về chính cộng đồng, chứ không thỏa mãn với tin tức từ báo chí trong nước.
Đầu tiên là xuất hiện các Bản tin đơn giản mang tính tự phát, Ban Biên tập rất gọn nhẹ, họ dịch tin từ các báo tiếng Nga, lấy tin trên báo mạng của người Việt ở Mỹ và các nước khác, đặt tin bài từ trong nước Fax sang... rồi tự làm market trên máy tính, in trên giấy khổ A3, A4 rồi nhân bản bằng photocopy. Những Bản tin này tính báo chí thấp, người làm không có nghề lắm. Nhiều trí thức bận làm kinh doanh nên chủ yếu đóng góp tài chính hỗ trợ cho sự phát triển báo chí chứ chưa ai tâm huyết đầu tư hẳn hoi cho một tờ báo hay tạp chí đúng với nghĩa của nó. Nghề báo kiếm không được nhiều tiền, vị trí của nhà báo làm các Bản tin đó cũng không cao so với các chủ DN nên trong cộng đồng mới có kiểu báo chí đó. Cuối năm 1994, có tờ “For you” đưa rất nhiều quảng cáo lên các trang, làm thu nhập của báo tăng, thế là dần dà uy tín nghề và người làm loại báo này bắt đầu được chú ý. Từ chỗ những người làm báo kiêm luôn phát hành, bán báo các báo tăng tính chuyên nghiệp lên, tuyển nhân viên và lập hệ thống phát hành đến những nơi có nhiều người Việt sinh sống.
Những tờ được đánh giá cao là tờ do các Hội nghề nghiệp sáng lập. Hội văn học nghệ thuật Việt Nam ở Liên bang (LB) Nga có tạp chí “Người bạn đường” đăng tải nhiều tác phẩm của người Việt và dịch một số tác phẩm của người Nga. Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam tại LB Nga cho ra tờ báo “Khoa học và cộng đồng” được Ủy ban báo chí Nga cấp phép và sứ quán ủng hộ, có khá nhiều bài mang tính khoa học nghiêm túc và thường đưa tin kiểu chính thống, cẩn thận. Hội DN người Việt thì tài trợ cho “Doanh nghiệp và Thị trường”. Sứ quán Việt Nam ngoài tờ “Đất nước” còn bảo trợ cho tờ “Thông tin và Thời đại” - những tờ này tự hạch toán.
Cho đến hôm nay, tính tất cả loại kiểu bản tin, tuần san, báo, tập san... có hơn 10 ấn phẩm. Những tờ hoạt động theo giấy phép của Ủy ban Báo chí Nga, hoặc do Đại sứ quán chủ trương, bảo trợ, của một số Hội nghề nghiệp đã có nhiều cố gắng, cử ra những người biết làm báo, có phông văn hóa tốt, tâm huyết nên nội dung đã phần nào đáp ứng mong mỏi của công chúng người Việt ở Nga và SNG, góp phần phục vụ nhu cầu thông tin, văn hóa cho cộng đồng xa Tổ quốc. Nhưng có nhiều tờ đậm tính chất báo lá cải, chưa chọn lọc tin tức, đưa tin vụn vặt, kích thích thị hiếu tầm thường. Dù sao dịp Tết cổ truyền Kỷ Sửu 2009, các tờ Tuổi trẻ Việt Nam, Tin tức Thị trường, Nhật báo, Ngày mới, Thời báo Matxcơva, Tin tức, Nhân Hòa...v.v, đã xuất hiện kịp thời, khá đủ trên nhiều các quầy hàng người Việt cùng với chương trình VTV4 (chủ yếu được lắp đặt phát trên ti vi trong căn hộ gia đình) trong không khí đón xuân xa quê.
Từ sau 2005 đến nay, có nhiều Tập đoàn DN người Việt ở Nga và một số nước cộng hòa khác đã triển khai mạng Website đưa lên nhiều tin tức cập nhật, bắt đầu hình thành kiểu làm báo mạng. Điển hình là Tập đoàn Mê Kông (Tập đoàn này có dịch giả Châu Hồng Thủy đảm nhiệm chính cho Website). Ngoài ra, các báo mạng sau cũng khá nổi như: hoinguoiviet.ru (của Hội người Việt Nam tại LB Nga), nguoibanduong.net (của Hội Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại LB Nga), sinhvienmos.ru (của Hội Lưu học sinh Việt Nam tại LB Nga). Đó là chưa kể Website các trường Đại học có đông sinh viên người Việt theo học.
Khi làm doanh nhân thành công, người ta để ý nhiều hơn, bài bản hơn đến khâu truyền thông, quảng cáo, Marketing nên nhiều trí thức người Việt đã thâm nhập vào các hoạt động truyền thông mới, hiện đại. Họ không chỉ làm báo viết, báo in như xưa mà nhiều người trở thành chuyên gia trong lĩnh vực PR. Chính ở những lĩnh vực này, họ có điều kiện, môi trường rộng thoáng hơn, kinh phí nhiều hơn, phương tiện hiện đại hơn, mang tính hội nhập hơn để đóng góp cho DN đồng hương và kiếm được nhiều tiền hơn...
Báo chí người Việt tại CH Czech:
Quốc gia đẹp nhất vùng Trung Âu này có đến gần 40.000 người Việt cư ngụ và trong số những trí thức ở lại sinh sống, có một số người chọn nghề báo. Về báo in và báo mạng, tại Czech có hơn 10 tờ. Các tờ báo in đáng chú ý gồm các tờ như: Tuần tin mới, Vạn xuân, Xa xứ... và sự góp mặt của hai tờ báo lớn trong nước là An ninh Thế giới và Thanh Niên được tổ chức in và phát hành tại đây. Sự có mặt của hai “đại gia” này cũng góp phần kích thích sự thi đua, cạnh tranh làm báo, tăng tính chuyên nghiệp, cải tiến hình thức, nội dung, đăng ảnh đẹp... trên các trang báo cộng đồng vẫn còn mang tính chất bản tin. Về báo mạng có tờ Quehuong.cz do Đại sứ quan ta tại Czech chủ trương, phụ trách và các tờ như Namhai-tourism.cz (website là www.namhai.cz), vnczfriends.net ...v.v của các trí thức Việt kiều làm chủ. Tuy ở dạng bản tin nhưng các chủ nhiệm báo đều phải xin giấy phép nước sở tại. Các chuyên mục chính ở các báo là: Trang quốc tế, Trang về nước sở tại, trang về cộng đồng, trang văn hóa văn nghệ, trang dịch vụ, quảng cáo...v.v
Báo chí tại Czech nhìn chung có lập trường gần với báo chí trong nước; có quan hệ gắn bó với sứ quán Việt Nam. Ngoài tin tức dịch từ báo chí Czech, biên tập tin bài từ các báo mạng, họ cố gắng đặt bài những trí thức, Việt kiều có tên tuổi, uy tín, tay nghề, cập nhât tin tức từ giá cả hàng hóa, các dịch vụ, cách thức xin visa, tin về các chợ, trung tâm thương mại của người Việt, các sự kiện, chương trình thi người đẹp qua ảnh...v.v.
Báo chí người Việt tại CH Ba Lan: Ba Lan là nước có khá đông cộng đồng người Việt (có khoảng gần 20.000 người Việt sinh sống với hơn 20% nhập quốc tịch Ba Lan). Có xấp xỉ 10.000 người Việt (khoảng 50%) sống bằng nghề buôn bán nhỏ tại chợ mang tên “Chợ sân vận động 10 năm” ở thủ đô Vácsava và nhiều người trong số mấy trăm thạc sĩ, tiến sĩ làm ăn thành đạt thì hùn vốn đầu tư xây dựng khu trung tâm thương mại ven đô. Nhiều trí thức tham gia vào hoạt động văn hóa, báo chí. Họ mở Trung tâm văn hóa Văn Lang, nhà văn hóa Thăng Long (Trung tâm này xây dựng chùa Một Cột theo mẫu chùa cùng tên trong nước), họ còn ra báo, tổ chức dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc... Trung tâm văn hóa Thăng Long có tạp chí “Nối vòng tay lớn” và báo mạng www.nhavhthanglong.pl; Hội người Việt Nam tại Ba Lan có tờ Quê Việt; Trung tâm xúc tiến Thương mại và Đầu tư ASEANPL ra tạp chí “Người Việt ở châu Âu” in song ngữ Việt-Anh... Sứ quán ta có Website: www.vietnamembassy-poland.org bằng cả tiếng Việt và tiếng Ba Lan, ngoài ra sứ quán còn chủ trương tạp chí Quê hương phát hành hàng tháng.
Nhìn chung, hoạt động báo chí Việt ngữ ở Nga, Czech, Đông Âu vẫn thiên về mục đích thương mại thuần túy, chưa kết hợp nhuần nhuyễn, toàn diện với mục tiêu văn hóa lâu dài. Trong nhận thức họ chỉ hướng tới mục tiêu ngắn hạn phục vụ đa số người Việt hành nghề kinh doanh ở các chợ. Đội ngũ Việt kiều có vốn tài chính lớn, trí thức cao tham gia nghề báo chưa nhiều, chưa đầu tư đúng mức cho lĩnh vực báo chí, chưa sử dụng hết lợi thế của báo chí để thúc đẩy sự hội nhập của bản thân và cộng đồng. Với vị trí kép, họ vừa là khách thể để nhà nước ta truyên truyền quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt nhằm làm cho họ gắn kết, nhận thức đúng về quê hương, đất nước, có đóng góp tích cực, phù hợp, hiệu quả lại, họ lại vừa là một chủ thể đại diện cho chính thương hiệu quốc gia Việt quảng bá mọi mặt về Việt Nam...
- Kết luận và kiến nghị:
Hoạt động báo chí trong cộng đồng người Việt ở Nga, Đông Âu và các địa bàn khác đều quan trọng, bởi vì đó là diễn đàn được nhiều trí thức người Việt xa xứ trình bày, nó cũng biểu hiện tư tưởng, tình cảm, tâm huyết của nhiều người Việt, trong đó có nhiều trí thức người Việt có danh tiếng và đạt được thành tựu ở nhiều lĩnh vực. Vì vậy, chúng tôi xin kiến nghị mấy điểm sau:
+ Định kỳ thời gian (có thể 5 năm/lần) tổ chức tổng kết việc thực hiện NQ 36-NQ/TW, có hẳn phần gắn với hoạt động báo chí người Việt ở nước ngoài;
+ Cơ quan quản lý báo chí trong nước nên giao cho Hội nhà báo Việt Nam nghiên cứu việc lập các chi hội nhà báo người Việt ở nước ngoài cùng quan điểm với báo chí trong nước, thẩm định và kết nạp các nhà báo nguời Việt ở nước ngoài có chuyên môn, giỏi nghiệp vụ; tâm huyết với Tổ quốc, đồng bào, văn hóa dân tộc. Việc này sẽ nâng cao năng lực nghiệp vụ nhà báo người Việt ở ngoại quốc và phân biệt rõ các báo, nhà báo tốt, đóng góp cho sự nghiệp chung của đất nước và cộng đồng;
+ Cần gắn hoạt động báo chí cộng đồng với việc quảng bá, tôn vinh, nêu thành tựu khoa học- công nghệ, văn hóa - xã hội trí thức người Việt, để động viên đội ngũ đó tăng cường chuyển giao các thành tựu của mình về quê hương, xứ sở;
+ Cơ quan chức năng như Ủy ban Nhà nước về người Việt ở nước ngoài, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên có những phối hợp trong việc lập các Dự án duy trì tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán, truyền thống văn hóa độc đáo của dân tộc. Chú ý việc kết hợp với chuyên gia trí thức về văn hóa giáo dục người Việt ở nước ngoài và chuyên gia có tâm huyết nước sở tại và chuyên gia trong nước trong việc dạy tiếng Việt, văn hóa Việt cho cộng đồng, đặc biệt là thanh thiếu niên người Việt ở nước ngoài.
+ Báo chí gắn kết chặt với hoạt động kinh tế thương mại chặt chẽ (ở nước ngoài càng rõ nét), vì thế báo chí cộng đồng nên chủ động mở phạm vi hoạt động sang việc làm một cầu nối giới thiệu trí thức Việt kiều (tuỳ năng lực, sở trường, tài chính) với DN trong, ngoài nước;
+ Xây dựng văn hóa Việt có sức sống trong lòng văn hóa nước sở tại cũng là nhiệm vụ của trí thức Việt kiều và báo chí cộng đồng. Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản là những nước có kinh nghiệm quảng bá nhiều lĩnh vực văn hóa nghệ thuật ra nước ngoài trong đó có văn học. Chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm có hẳn chủ trương, chiến lược nghiên cứu hai mảng văn học Trung Hoa ở ngoại quốc, đó là: 1) Nghiên cứu, tập hợp, tuyển chọn các tác phẩm văn thơ viết bằng tiếng Trung ở ngoài Trung Quốc; 2) Nghiên cứu, tập hợp, tuyển chọn các tác phẩm văn thơ của người Hoa viết bằng tiếng nước sở tại. Họ có hướng xây dựng một chuyên ngành như là ngành “Hải ngoại học”. Cách làm này nhân rộng thêm sức mạnh văn hóa trong, ngoài nước; tổng hợp, đoàn kết, tranh thủ được tiềm năng trong ngoài nước, không bỏ phí thành quả nào;
+ Tại nước ngoài, Võ Việt Nam, ẩm thực - thời trang Việt là những nét văn hóa Việt được ưa chuộng, kính trọng, báo chí cộng đồng nên gắn bó với những nét văn hóa được khẳng định này để tác nghiệp có hiệu quả cao. Tại Pháp, võ sư Trần Nguyên Đạo đã dùng Website của môn phái Việt võ đạo để quảng bá cho võ Việt Nam; ở Mỹ, võ sư Nguyễn Văn Thọ mở trang Web “Đông phương hội” cũng có tác dụng trong việc tương thân, tương ái trước hết là đối với người Việt cùng môn phái, các môn sinh, người hâm mộ; Trung tâm Thương mại Sapa (Praha, Czech) cũng biết bày bán các tờ báo bên các món ăn Việt ngon lành để thu hút thực khác...v.v. Tại Cộng hoà Belarus, võ sư Ngô Xuân Bính rất thành đạt trong nghiệp võ, lại có vợ là người sở tại, những người như võ sư Bính rất có tiềm năng kết hợp với báo chí cộng đồng để làm kinh tế và phát triển văn hóa, phát triển nghiệp võ.
+ Tích cực hoạt động báo chí chính cũng là một cách xả bớt những áp lực cuộc sống xa cội nguồn mà nhiều trí thức hay mắc phải, tránh được các xung đột văn hóa nơi quê người đối với bản thân và qua báo chí người trí thức Việt kiều có thể chia sẻ với các trí thức khác, đồng bào mình, tư vấn cho cộng đồng về những trải nghiệm trong quá trình giao thao, hội nhập văn hóa mình trải qua...
+ Các sứ quán ở Nga, Đông Âu và nhiều sứ quán đều có ấn phẩm hay mạng Website, theo tôi cần đầu tư tính chuyên nghiệp cho các sản phẩm này hơn nữa. Một mặt sứ quán tăng tính trách nhiệm trong quản lý nội dung bài vở, mặt khác có thể xã hội hóa về tài chính, phương thức hoạt động để sao cho các đơn vị báo chí - văn hóa của sứ quán trở thành trung tâm thu hút các trí thức ở các nước sở tại, vừa làm tốt nhiệm vụ chính trị, kinh tế- văn hóa của cơ quan đại diện ở nước ngoài, vừa là cầu nối gắn kết với lực lượng trí thức tiến bộ và kiều bào nước ngoài, đi vào thực tiễn cuộc sống. Thực hiện được những vai trò này sẽ tránh được sự lãng phí không đáng có nếu không phát huy được sức mạnh của loại hình báo chí khi mà sứ quán có thể đẩy mạnh trong bối cảnh hiện nay và sắp tới. Hiện nay trong nước có những tạp chí chuyên ngành về đối ngoại như Tạp chí Thông tin Đối ngoại, Đối ngoại, Chính trị- Kinh tế quốc tế, Nghiên cứu châu Âu, Nghiên cứu châu Mỹ... là những ấn phẩm mà theo tôi các ấn phẩm do sứ quán phụ trách nên tham khảo, để từng bước có thể nâng cao chất lượng bài có tính nghiên cứu khoa học, dự báo tốt, có tầm nhìn xa, hợp với sở trường trí thức Việt kiều, đúng định hướng Đảng Nhà nước. Những tin tức mang tính tác nghiệp, sốt dẻo, phục vụ đa số Việt kiều làm ăn buôn bán nhỏ... nên để cho các tờ bản tin, báo nhỏ của cộng đồng đảm đương sẽ tương thích hơn với đời sống thường nhật ở xa xứ.
Tài liệu tham khảo
[1]. EU mở rộng cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tạp chí Người Việt ở châu Âu, No 1, tháng 6/2004;
[2]. Website của UBNN về người Việt Nam ở nước ngoài năm 2008- 2009: www.quehuong.org.vn;
[3]. Website của Bộ Ngoại giao 2009: www.mofa.gov.vn;
[4]. Website: mekongnet.ru; hoinguoiviet.ru năm 2009;
[5]. www.vnczfriends.net năm 2009;
[6] www.namhai.cz năm 2009
[8]. Lê Thanh Bình, Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội, NXB Chính trị quốc gia, 2008
Nghề báo đòi hỏi sự dấn thân
Submitted by nlphuong on Thu, 23/06/2011 - 11:08Cách đây 10 năm, tôi cầm trong tay tấm bằng cử nhân báo chí, hiên ngang bước vào đời, tự tin, trong sáng. Tôi tin cuộc đời mỗi người là một chuỗi những ước mơ và ai cũng phải nỗ lực hết mình để biến những ước mơ ấy thành hiện thực.
Những ngày thơ dại và bồng bột đó, tôi đã dành cho nghề báo một tình yêu mê đắm; những khát vọng khi ấy thật cháy bỏng, tôi sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách và cả những nguy hiểm đang chực chờ chỉ để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Rồi những va vấp, bon chen, những cạnh tranh không “lành mạnh” của cuộc đời đôi lúc làm tôi mệt mỏi. Trái tim của người phụ nữ vốn mong manh, yêu đời nhưng làm sao tránh được những nỗi buồn khi bị cuộc đời đối xử một cách bất công như thế. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy chán nản, những ngày ấy cách nay cũng gần 10 năm. Nhưng tình yêu sẽ vượt qua tất cả! Tôi yêu nghề! Tôi đã tin vào điều đó và cố gắng vươn lên, gắn bó bền chặt với cái nghề mà tôi yêu thích. Tôi cứ đi và viết, viết theo cảm xúc của mình, viết tất cả những gì mình cảm nhận được từ cuộc sống này, những mặt tích cực và phê phán cả những điều tiêu cực.
Gần 10 năm theo nghề, tôi vẫn chỉ là một phóng viên bình thường với con tim nóng bỏng và bầu nhiệt huyết tuôn chảy. Nhưng điều tôi cảm nhận rõ nét nhất là mình đã được rất nhiều từ cuộc sống này. Những chuyến công tác xa bao giờ cũng đọng lại ít nhiều trong tôi bao điều trăn trở. Ngước nhìn lên, mình chẳng bằng ai, nhưng ngó xuống, xung quanh mình vẫn còn những cảnh đời cần được quan tâm, chia sẻ.
Hơn bao giờ hết, tôi hiểu sự chấp nhận nếm trải thử thách và cả những thú vị, ngọt ngào của nghề này mang lại. Làm báo đã khó, những nhà báo nữ còn khó gấp nhiều lần. Làm nhà báo là phải biết “dấn thân”, tôi đã học được câu nói này từ các thầy cô, từ những nhà báo kỳ cựu từng làm báo lâu năm chỉ dạy.
Rất khó để tìm được một người bạn đời có thể cảm thông và chia sẻ với một người vợ chỉ biết “vác máy ảnh nhông nhông suốt ngày ngoài đường”, và tôi bất chợt chạnh long khi nghĩ: hạnh phúc của những nhà báo nữ mơ hồ và mong manh đến thế sao? Âu đó cũng là một sự “đánh đổi” cho lòng đam mê nghề nghiệp của mình.
Tôi đã từng chứng kiến sự đổ vỡ gia đình của những nữ đồng nghiệp và tôi biết, trong tận cùng sâu thẳm nỗi đau, họ đã tự đứng lên, bước tiếp.
Nếu bất ngờ ai có hỏi, khi thời gian quay ngược lại, bạn sẽ làm gì? Họ, trong đó có cả tôi, sẽ không hề do dự khi trả lời rằng vẫn tiếp tục làm báo. Một cái nghề đòi hỏi sự “dấn thân”.
Theo Song Hồng (Hội nhà báo Long An)
Người làm báo 6.2011
Ôi, các nhà báo đa năng!
Submitted by nlphuong on Sat, 18/06/2011 - 14:43Ở Việt Nam, làm báo thường được các nhà văn nhà thơ chọn như một nghề để nuôi nghiệp văn chương, thi phú. Nhưng cũng có nhiều nhà báo “lấn sân” sang các lĩnh vực khác vì sở thích hoặc vì đam mê.
Nhà báo kiêm ca sĩ
Nhà báo kiêm ca sĩ chiếm số lượng đông đảo nhất, đa phần là các nam nhà báo. Trong đó “nổi” nhất phải kể đến nhà báo Ngô Bá Lục – báo điện tử VNMedia, Nguyễn Mạnh Hà – báo Tiền phong, Quốc Vĩnh – báo Saigontimes hay Nguyễn Hữu Chiến Thắng – Đài Truyền hình Việt Nam.
Họ đến với ca hát đơn giản là vì sở thích, Ngô Bá Lục nói: “Từ bé sinh ra đã biết hát, hát như cơm ăn nước uống hàng ngày. Hát với tôi như kiểu sáng ngồi trà đá, thuốc lào vặt, chiều đá bóng sân đất với bạn bè, chắc khi nào hết trà đá, hết bóng bánh thì lúc đó mới hết hát”. Còn Nguyễn Mạnh Hà thì bảo rằng: “Tôi đi hát bởi vì tôi có giọng hát và có người nghe tôi hát”.
Nếu nhà báo Quốc Vĩnh từng phát hành vài album nhạc (hầu hết là nhạc Trịnh Công Sơn vốn là sở trường của anh) như nhớ Trịnh Công Sơn, Ru đời đi nhé… thì các nhà báo khác lại chọn cách đi hát ở các tụ điểm theo phương châm “vui là chính” hoặc chỉ làm “ca sĩ phòng thu”.
Ngô Bá Lục vẫn được biết đến như một nhà báo chuyên theo dõi mảng âm nhạc với nhiều bài viết sắc sảo. Việc anh đi hát cũng rất tự nhiên, bắt đầu từ những cuộc thi cấp cơ quan và giọng hát của anh ngày càng được nhiều người biết đến bởi anh rất có duyên với giải thưởng (từng đoạt giải Nhất trong cuộc thi Liên hoan tiếng hát người làm báo lần thứ hai). Nhà báo này vẫn coi việc đi hát chỉ là để cho vui nhưng cũng cho rằng vì rất hiểu showbiz nên anh biết tự định hướng cho mình, biết rõ thế mạnh và điểm yếu của mình, biết rõ mình đang ở đâu để tự điều chỉnh và xuất hiện “đúng nơi đúng chỗ”. Tuy nhiên anh tiết lộ, mức cát xê của mình đã có lúc đến con số 15 triệu cho một show diễn.
|
Nhà báo Trần Bá Lục hát tại buổi Gặp mặt báo chí nhân dịp 86 năm ngày báo chí Cách mạng
Việt Nam do Liên chi hội Nhà báo TT&TT tổ chức (Ảnh: Trần Mạnh Vỹ)
Nguyễn Hữu Chiến Thắng từng là MC khá quen thuộc trên kênh VTV3 một thời với đài từ đặc biệt khó trộn lẫn, nay đã chuyển sang kênh VTV6 và ít xuất hiện trên màn ảnh nhỏ nhưng giọng đọc quen thuộc của anh vẫn xuất hiện đều đặn. Đặc biệt, giọng hát của nhà báo này cũng đã trở nên quen thuộc với khán giả thường hay lui tới một quán nhỏ trên đường Cổ Ngư – nơi anh vẫn đi hát mỗi đêm thứ năm hàng tuần. Đã quen xuất hiện trước khán giả truyền hình nên đi hát với Thắng là việc bình thường, anh hầu như không phải “đầu tư” gì thêm cho hình ảnh của mình.
Với nghệ danh Khôi Minh, nhà báo Nguyễn Mạnh Hà thường biểu diễn ở các quán bar ca nhạc hoặc quán cà phê có không gian âm nhạc, nhưng anh cũng từng xuất hiện bên cạnh những ca sĩ chuyên nghiệp. Với sở trường nhạc dân gian đương đại, anh đã tham gia liên hoan âm nhạc điện tử thử nghiệm quốc tế Không gian xanh tại Hà Nội cùng với nhóm ca trù Thăng Long và thường biểu diễn tại các đình làng. Hà cũng từng cho ra mắt album Khôi Minh – Bộ sưu tập 09 gồm các tình khúc nhạc tiền chiến.
Nhà báo kiêm diễn viên
Số nhà báo kiêm diễn viên cũng khá đông đảo, có người chỉ đóng một vai diễn và rời xa màn ảnh để làm nhà báo, cũng có người sau khi làm báo bỗng bén duyên với màn ảnh và trở thành diễn viên nổi tiếng.
Những nhà báo khởi nghiệp là diễn viên có thể kể đến Thu Hường, Lê Quang Thanh Tâm, Hoàng Nhật Mai… Thu Hường vốn học khoa Diễn viên trường Đại học Sân khấu điện ảnh Hà Nội, sau một vài vai diễn khá mờ nhạt, cô đã quyết định rời xa màn ảnh và đi làm báo. Hiện đang theo dõi mảng văn hóa tại báo điện tử Vietnamnet nhưng sắc vóc của một cựu diễn viên từng giúp cô lọt vào top dẫn đầu của cuộc thi Hoa hậu quý bà 2009 và đoạt giải Quý bà có hình thể đẹp nhất.
Sau một vai diễn nhỏ (không được nói câu nào vì vào vai chàng trai người Trung Quốc bị câm) trong phim nhựa Tiếng sáo ly hương. Lê Quang Thanh Tâm chuyển sang làm báo. Nhiều năm nay anh là đại diện của báo Màn ảnh sân khấu tại TP. Hồ Chí Minh.
Còn Hoàng Nhật Mai – cô sinh viên trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật quân đội sau viễn diễn nhỏ trong phim Ngã ba Đồng Lộc cũng chuyển hướng sang làm báo. Cô được nhiều người biết đến khi cầm trang Tin tức online của báo Vietnamnet và năm ngoái đã chuyển sang phụ trách kênh truyền hình HD9. Có lẽ hấp lực của một diễn viên với nhan sắc mặn mà đã khiến nhà báo Nhật Mai rất có duyên với báo chí. Cô thường xuyên xuất hiện trên báo như bất cứ một thành viên nào của showbiz Việt để tâm sự cả chuyền nghề… lẫn chuyện riêng tư.
![]() |
Hoàng Nhật Mai (Ảnh: Internet)
Nhà báo đóng phim “nổi” nhất không ai khác chính là Lương Mạnh Hải. Tốt nghiệp đại học Ngân hàng chuyên ngành chứng khoán nhưng ra trường Hải lại chọn làm báo. Hải từng làm ở Đài truyền hình Hà Nội và các tờ Hoa học trò, Sinh viên, Tiếp thị & Gia đình cho đến khi được “cộng tác viên” viết báo là đạo diễn Lê Hoàng mời đóng một vai nhỏ trong phim Nữ tướng cướp. Kể từ đó, Hải rất đắt show phim ảnh trong nhiều dạng vai. Từ vai chàng trai đồng tính diện váy màu hồng trong Hồn Trương Ba da hang thịt, chàng trai với vẻ ngoài đậm chất lãng mạn kiểu Hàn Quốc trong Tuyết nhiệt đới, công tử nhà giàu trong Bỗng dưng muốn khóc đến vai diễn trong bộ phim đang “hot” Hotboy, chàng cười, cô gái điếm và con vịt sẽ ra mắt trong năm nay. Lương Mạnh Hải đang là một trong số ít những gương mặt diễn viên nao được coi là “sao” của màn ảnh Việt.
Nhà báo kiêm biên kịch
Có lẽ vừa do lợi thế văn chương của người cầm bút, hay xem phim, xem kịch, lại thường gặp gỡ, cộng tác với giới nghệ sỹ nên các nhà báo theo dõi mảng văn hóa văn nghệ thường bén duyên với việc viết kịch bản. Nhiều người trong số họ coi đây là việc viết cho vui, cũng có người coi là nghề tay trái nhưng có người lại nổi lên như một cây bút ăn khách và chuyển hẳn sang nghiệp biên kịch.
Nhà báo Hoài Hương từng là cây bút phê bình sân khấu sắc sảo của báo Thanh niên và báo Tuổi trẻ nhưng đến khi nhận ra rằng viết kịch bản mới chính là đam mê và sở trường của mình, chị chuyển hẳn sang làm biên kịch và hiện đang là một biên kịch “đắt hàng”. Mới đây chị còn thử sức làm đạo diễn kiêm biên kịch với series phim truyền hình dài tập Tình yêu và khát vọng.
“Đắt khách” không kém là nhà báo kiêm nhà biên kịch Nguyễn Xuân Hải – báo Công an nhân dân. Anh từng là tác giả kịch bản của nhiều phim truyền hình, phim tài liệu và cũng khá có duyên với các giải thưởng kịch bản.
Các nhà báo điện ảnh cũng rất mặn mà với việc viết kịch bản, nhà báo Ngô Minh Nguyệt – báo Điện ảnh Việt Nam từng có thâm niên chục năm viết kịch bản. Chị viết đủ các thể loại, từ phim truyện, phim tài liệu tới phim hoạt hình nhưng thành công nhất là ở mảng phim hoạt hình khi bộ phim Chuyện về những đôi giày (đạo diễn Phương Hoa) do chị viết kịch bản từng giành Bông sen vàng Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 14.
Nhà báo Đặng Thiếu Ngân – báo Thế giới điện ảnh cũng từng là tác giả kịch bản của nhiều phim truyền hình dài tập như Tết cháy Ôsin, Tháng củ mật…
Còn trên sân khấu kịch, nhà báo Quang Thi – báo Thanh niên với bút danh Xuyên Lâm từng tạo nên một cơn sốt ở sân khấu kịch Phú Nhuận (và ghi một kỷ lục về số suất diễn trong lịch sử sân khấu Việt Nam) bằng kịch bản đầu tay Người vợ ma. Kịch bản này đã được chính tác giả chuyển thể thành kịch bản điện ảnh có tên Trăng máu và được đạo diễn Hoàng Duẩn dự định làm phim. Hiện Quang Thi vẫn tiếp tục cộng tác với nhiều sân khấu kịch TP. HCM không chỉ bằng chính kịch mà cả hài kịch.
Còn nhà báo kiêm nhà văn hoặc nhà thơ thì có thể nói số lượng đông đảo nhất, khó có thể kể hết tên, vì đa phần các nhà văn nhà thơ thường chọn viết báo như là một nghề để nuôi nghiệp văn chương. Bởi vậy, có thể kết luận rằng ở Việt Nam, nhà báo là một trong những nghề có nhiều người đa năng nhất.
Theo Yên Khê
(Báo Phụ nữ Thủ đô số 24 ngày 15/6/2011)