Syndicate content

Thời sự ICT

75 triệu dữ liệu của người dân được đưa vào hệ thống

Tóm tắt: 

Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng nói, cố gắng năm 2020 dự án về cơ sở dữ liệu dân cư sẽ cơ bản hoàn chỉnh.

Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng nói, cố gắng năm 2020 dự án về cơ sở dữ liệu dân cư sẽ cơ bản hoàn chỉnh.

Tại phiên chất vấn Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng sáng nay, ĐB Hà Thị Minh Tâm (Hà Nam) hỏi Bộ trưởng việc chỉ đạo triển khai dịch vụ công trực tuyến, việc khai thác, chia sẻ, kết nối hệ thống cơ sở dữ liệu chung quốc gia hiện nay được triển khai như thế nào và có khó khăn gì không?

ĐB cũng đề cập việc chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin, trọng tâm là Chính phủ điện tử thực hiện vào quản lý, điều hành và giải quyết công việc của người dân và DN hiện nay như thế nào? Giải pháp của Bộ trưởng trong thời gian tới?

ĐB Hà Thị Minh Tâm. Ảnh Minh Đạt

Liên quan đến vấn đề chia sẻ dữ liệu, Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, khi chúng ta phát triển dịch vụ công trực tuyến, nhiều năm qua, có màu sắc của việc "trăm hoa đua nở".

Cho tới giờ, việc này đã mắc phải điểm nghẽn về nền tảng. Chúng ta phải giải quyết nền tảng để thúc đẩy tốc độ của dịch vụ công trực tuyến.

Trong đó, có 1 nội dung quan trọng là kết nối địa phương với các bộ, ngành, chia sẻ dữ liệu. Hiện nay Bộ TT&TT đã hoàn tất trục kết nối với cơ sở dữ liệu phong phú, ví như về DN, tư pháp, lý lịch, BHXH… đã được kết nối.

Điều thứ hai phải làm là đặt ra những cơ sở pháp lý cho nội dung này. Trong năm 2019, Bộ sẽ trình Chính phủ ban hành nghị định về kết nối và chia sẻ dữ liệu. Nghị định sẽ tạo ra hành lang pháp lý quan trọng để thúc đẩy chia sẻ dữ liệu.

Về Chính phủ điện tử và thành phố thông minh, theo Bộ trưởng, hiện nay, Thủ tướng đã có đề án, trong đó có nội dung đề cập đến vấn đề trong giai đoạn đầu, chúng ta sẽ triển khai thí điểm.

Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng. Ảnh: Minh Đạt

Vì vậy, trong tháng 11, Bộ TT&TT sẽ ban hành hướng dẫn về thí điểm, trực tiếp làm việc tại một số TP để làm mẫu. Dự kiến đến giữa năm 2020, chúng ta sẽ có thể phát triển trên diện rộng.

ĐB Nguyễn Hồng Vân (Phú Yên) nêu, những cơ sở dữ liệu dùng chung trong quốc gia như lĩnh vực đất đai, hộ tịch, hộ khẩu, đăng ký DN và một số lĩnh vực khác trong báo cáo nêu triển khai còn quá chậm.

Ông đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp đột phá nào để khắc phục tình trạng trên?

Bộ trưởng thông tin, chúng ta đang có 5 cơ sở dữ liệu dùng chung mang tính nền tảng quốc gia. Trong đó 3 cơ sở dữ liệu tương đối ổn, còn 2 cơ sở dữ liệu bị chậm gồm cơ sở dữ liệu dân cư và đất đai.

Trong tháng 10, ông cùng Bộ trưởng NN&PTN làm việc với Thứ trưởng Công an phụ trách về dự án dân cư để bàn bạc và tìm ra giải pháp, cách thực hiện.

Hiện nay dự án đó đã được phê duyệt, đưa vào dự án đầu tư công trung hạn và cũng bắt đầu có tiền ngân sách, Bộ Công an cũng đã triển khai.

 “Hiện nay, 75 triệu dữ liệu của người dân đã được quét đưa lên mạng, đưa vào trong hệ thống. Bộ TT&TT sẽ hỗ trợ tích cực, chúng tôi cũng đặt ra một mục tiêu là cố gắng năm 2020 dự án về cơ sở dữ liệu dân cư này sẽ cơ bản hoàn chỉnh”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Về dữ liệu đất đai, ông cũng đã trực tiếp làm việc với Bộ trưởng TN&MT để tìm giải pháp.

Kết nối các cơ sở dữ liệu

Cùng mối quan tâm về xây dựng các dữ liệu quốc gia còn chậm, ĐB Mai Thị Phương Hoa (Nam Định) dẫn câu chuyện được báo chí phản ánh: Có trường hợp 1 thanh niên lấy vợ 10 năm nhưng vẫn phải đi xác nhận từng là người độc thân để bán mảnh đất mà mình sở hữu từ khi còn chưa lấy vợ.

ĐB Mai Thị Phương Hoa

Việc này gây ra rất nhiều khó khăn, phiền hà cho người dân và DN. Thậm chí, có nhiều trường hợp đã bị vòi vĩnh, nhũng nhiễu và tạo ra tham nhũng vặt.

Bà muốn hỏi rõ trách nhiệm của Bộ TT&TT trong vấn đề này, giải pháp khắc phục triệt để những bất cập nêu trên?

Nhắc lại việc ta có 5 cơ sở dữ liệu dùng chung, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, các quốc gia có 2 lựa chọn: Một là tập trung tất cả các cơ sở dữ liệu vào một  chỗ, hai là phân tán. Giải pháp nào thì cũng đều có mặt mạnh và mặt yếu.

Chúng ta chọn giải pháp phân tán, nhưng phân tán thì vẫn phải kết nối được.

Hiện nay, Bộ TT&TT là cơ quan phải ra tiêu chuẩn để cho các cơ sở dữ liệu ấy có thể kết nối được với nhau, các tỉnh có thể truy cập vào để lấy dữ liệu về được, các bộ cũng có thể truy cập vào địa phương để lấy dữ liệu được và liên bộ với nhau cũng có thể kết nối.

Theo Bộ trưởng, về mặt hành lang pháp lý còn nợ một nghị định kết nối, chia sẻ. Bộ TT&TT cũng đã lấy ý kiến rộng rãi và đã có phiên bản cuối cùng, sẽ trình Chính phủ cố gắng ban hành trong năm nay.

Trong đó có nội dung rất quan trọng là người dân đến một cơ quan công quyền đã khai báo 1 thông tin cá nhân thì cơ quan công quyền khác không được yêu cầu khai báo lại.

Hương Quỳnh - Thu Hằng - Trần Thường/vietnamnet.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Mỗi tháng chặn được từ 10-15 triệu tin nhắn rác

Tóm tắt: 

Bộ trưởng TT&TT báo tin vui là chỉ trong tháng 10 vừa qua, 24 triệu sim không có thông tin được kích hoạt trước để bán cho khách hàng đã được chặn lọc, chỉ còn khoảng 6 triệu, bước đầu giảm được 75%. Các nhà mạng cũng dùng công nghệ để chặn lọc những thông tin quảng cáo.

Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, mỗi tháng ghi nhận khoảng 10.000 số máy thực hiện cuộc gọi rác, làm ảnh hưởng đến hàng triệu người. 

Chất vấn Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng sáng nay, ĐB Lê Thị Nguyệt (Vĩnh Phúc) nêu hiện nay số sim điện thoại của cá nhân, tổ chức thì quảng cáo nào cũng có, từ quảng cáo rao bán đất, bán nhà tới các loại hàng hoá...

ĐB Lê Thị Nguyệt: Có biện pháp gì để ngăn chặn sim rác?. Ảnh: Minh Đạt

Bà nêu câu hỏi Bộ TT&TT, Bộ Công an có biện pháp gì để ngăn chặn, xử lý, khắc phục tình trạng trên?

Trong tháng 10, 24 triệu sim không có thông tin được kích hoạt

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhận định đây là một vấn đề kéo dài.

Nói về giải pháp mang tính đột phá của Bộ TT&TT, theo Bộ trưởng, trước đây xử lý sim rác thì đối tượng là hàng trăm nghìn điểm bán sim, các đại lý.

Nhưng gần đây Bộ TT&TT dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng đã đổi cách quản lý. Đối tượng quản lý tập trung là các nhà mạng, hiện chỉ có 4-5 nhà mạng. Quy định trách nhiệm vào Tổng giám đốc, Chủ tịch các công ty viễn thông. 

Bộ trưởng hy vọng sẽ có sự thay đổi căn bản sau khi có chỉ thị của Thủ tướng.

Ông dẫn câu chuyện, bây giờ chúng ta có phạt 1 nhà mạng thì các quy định của pháp luật chỉ phạt đến vài chục triệu, mà nhà mạng doanh thu hàng trăm nghìn tỷ, thì không đáng kể .

“Thủ tướng cũng đã chỉ đạo chúng tôi ra 1 quy định, nếu như còn sim rác thì sẽ không cấp phép các dịch vụ mới cho nhà mạng đấy”, Bộ trưởng cho biết.

Bộ trưởng TT&TT báo tin vui là chỉ trong tháng 10 vừa qua, 24 triệu sim không có thông tin được kích hoạt trước để bán cho khách hàng đã được chặn lọc, chỉ còn khoảng 6 triệu, bước đầu giảm được 75%. Các nhà mạng cũng dùng công nghệ để chặn lọc những thông tin quảng cáo.

Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng: Còn sim rác thì sẽ không cấp phép các dịch vụ mới cho nhà mạng. Ảnh: Minh Đạt

Ông cho biết, hiện nay mỗi tháng chúng ta chặn được 10-15 triệu tin nhắn rác, các phàn nàn của khách hàng giảm đi. Tuy nhiên, các nhà mạng hiện nay mới tập trung vào chuyện quảng cáo là bất động sản và bán sim số đẹp, còn các lĩnh vực khác thì chưa thể nên Bộ sẽ chỉ đạo xử lý.

80% trong số 10.000 cuộc gọi là sim rác

ĐB Trương Thị Yến Linh (Cà Mau) nêu số lượng tin nhắn rác trên mạng di động được lọc chặn từ tháng 1/2018 đến tháng 8/2019 lên tới gần 240 triệu.

Tuy nhiên, vấn đề này Bộ trưởng cũng đã nói là xử lý kéo dài nhất nhưng vẫn còn nhiều tồn tại như người sử dụng mạng di động lẽ ra phải được quyền nhận những tin nhắn, những cuộc gọi đúng theo nhu cầu, theo mong muốn. Nhưng muốn như vậy thì họ phải đăng ký sử dụng các dịch vụ chặn tin nhắn rác, cuộc gọi rác tốn phí hàng tháng.

ĐB đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp đảm bảo quyền lợi sử dụng và cam kết xử lý như thế nào?

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, hiện nay các nhà mạng mỗi 1 tháng ghi nhận được khoảng 10.000 số máy thực hiện các cuộc gọi rác, ảnh hưởng đến hàng triệu người và hàng triệu cuộc gọi.

Theo Bộ trưởng, mới đây Bộ đã làm việc với các nhà mạng để tìm biện pháp xử lý việc này.

“Chúng tôi đã cho thí nghiệm giải pháp kỹ thuật vì cuộc gọi rác có đặc điểm của nó là gọi rất nhiều cuộc khác nhau và khi gọi lại không trả lời”, ông Hùng nói.

Lãnh đạo Bộ TT&TT cho hay căn cứ vào những việc đó để phát hiện và thực hiện chặn lọc. Trong năm 2019 này cơ bản sẽ thí điểm các công cụ, giống như công cụ chặn tin rác.

Ông thông tin thêm, 80% trong số 10.000 thuê bao cuộc gọi là sim rác, nên gốc vẫn là câu chuyện chặn sim rác. 

Hương Quỳnh - Thu Hằng - Trần Thường/vietnamnet.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: Doanh nghiệp VN cần làm chủ các công nghệ nền tảng trong Chính phủ điện tử

Tóm tắt: 

Mật mã, nền tảng chia sẻ dữ liệu, điện toán đám mây và an toàn, an ninh mạng là 4 công nghệ chủ chốt trong xây dựng, phát triển CPĐT được Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đặt mục tiêu cho các doanh nghiệp VN cần phải làm chủ.

Mật mã, nền tảng chia sẻ dữ liệu, điện toán đám mây và an toàn, an ninh mạng là 4 công nghệ chủ chốt trong xây dựng, phát triển CPĐT được Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đặt mục tiêu cho các doanh nghiệp VN cần phải làm chủ.

Trong trao đổi tại phiên tọa đàm cấp cao tại Diễn đàn về Công nghiệp 4.0 năm 2019, chia sẻ về định hướng triển khai các nội dung công việc xây dựng Chính phủ điện tử,  Bộ trưởng Bộ TT&TT đã cho biết, Bộ TT&TT coi phát triển Chính phủ điện tử và đô thị thông minh là một mục tiêu kép. Trong đó, mục tiêu số một  là xây dựng được một Chính phủ điện tử, đô thị thông minh hiệu quả; còn mục tiêu thứ hai là thông qua quá trình đó tạo ra được các doanh nghiệp CNTT mạnh để góp phần cho giai đoạn tiếp theo - giai đoạn chuyển đổi số, đẩy mạnh công cuộc chuyển đổi số quốc gia, từ cái nôi Việt Nam đi ra toàn cầu.

Trên cơ sở nhận thức rõ hiện nay nhiều doanh nghiệp công nghệ đang cơ bản làm những việc giống nhau, “nhà nhà làm, làm cùng một thứ nhưng lại làm không đến nơi”, người đứng đầu Bộ TT&TT cho biết tới đây Bộ sẽ phân vai một số các doanh nghiệp nhất là những doanh nghiệp nền tảng, với mục tiêu đặt ra là “doanh nghiệp làm cái gì thì sâu cái đó, không những tốt cho Việt Nam mà còn đi ra toàn cầu được”.

Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử.

Mới đây, tại buổi làm việc đầu tiên của Tổ công tác giúp việc Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử kể từ khi nhiệm vụ thường trực Tổ công tác được chuyển từ Văn phòng Chính phủ sang Bộ TT&TT theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng đã một lần nữa đề cập đến cơ hội cho các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam trong xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử: “Chúng ta cần xây dựng Chính phủ điện tử tốt và dẫn đầu. Điều này sẽ mang lại cơ hội cho doanh nghiệp CNTT phát triển, phục vụ cho Việt Nam và từ Việt Nam đi ra nước ngoài”.

Cũng trong kết luận buổi làm việc của Tổ công tác, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã nêu rõ các công nghệ nền tảng trong Chính phủ điện tử mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải làm chủ được.

 

Cụ thể, về mật mã của Chính phủ điện tử, Bộ trưởng đề nghị Ban Cơ yếu Chính phủ rà soát, đề xuất mật mã dành cho Chính phủ điện tử việc gì sẽ do Ban làm, việc gì định hướng doanh nghiệp làm và những doanh nghiệp công nghệ Việt Nam nào sẽ tham gia vào việc làm chủ mật mã Chính phủ điện tử. Trên cơ sở đề xuất của Ban Cơ yếu Chính phủ, dự kiến trước ngày 15/11/2019 sẽ có cuộc họp giữa Tổ công tác với Ban Cơ yếu Chính phủ để thống nhất vấn đề này.

Tập đoàn VNPT được giao nhiệm vụ đề xuất tiêu chuẩn công nghệ liên quan đến nền tảng chia sẻ dữ liệu, trình Bộ TT&TT xem xét, thực hiện ban hành. Cục Tin học hóa có trách nhiệm đề xuất danh sách các doanh nghiệp Việt Nam có năng lực làm chủ công nghệ về nền tảng chia sẻ dữ liệu.

 

Bộ trưởng cũng nêu rõ, cần phải xem điện toán đám mây (Cloud Computing) là hạ tầng của hạ tầng, nên trong phát triển Chính phủ điện tử, doanh nghiệp Việt Nam phải làm chủ hạ tầng quan trọng này. Cục An toàn thông tin cần xác định các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng làm được điện toán đám mây cho Chính phủ điện tử.

Khẳng định bảo đảm an toàn, an ninh mạng chính là điều kiện tiên quyết để xây dựng Chính phủ điện tử tin cậy, Bộ trưởng giao Cục An toàn thông tin đề xuất danh sách những sản phẩm an toàn, an ninh mạng khuyến nghị cho Chính phủ điện tử, xây dựng tiêu chuẩn liên quan và hướng dẫn các doanh nghiệp cách thức tham gia cung cấp giải pháp.

Nhấn mạnh các công nghệ kể trên là những vấn đề quan trọng, nền tảng cho xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử và chúng ta có đầy đủ khả năng để làm chủ được, Bộ trưởng cũng lưu ý các đơn vị cần chỉ ra thời gian cụ thể cho từng nội dung công việc cụ thể.

Theo ICTnews/vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Các nhà mạng Châu Âu sẽ "đổ bộ" vào Việt Nam từ năm 2020

Tóm tắt: 

Với việc tham gia Hiệp định Thương mại Tự do EVFTA, Việt Nam sẽ mở cửa thị trường viễn thông cho các nhà đầu tư và nhà cung cấp dịch vụ viễn thông đến từ EU.

Với việc tham gia Hiệp định Thương mại Tự do EVFTA, Việt Nam sẽ mở cửa thị trường viễn thông cho các nhà đầu tư và nhà cung cấp dịch vụ viễn thông đến từ EU.

Việt Nam sẽ mở cửa thị trường viễn thông

Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA) sẽ có hiệu lực từ đầu năm 2020. Khi Hiệp định này được triển khai, nhiều ngành kinh tế tại Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh từ EVFTA và viễn thông là một trong số đó. 

Một trong những nguyên tắc chung là Việt Nam chấp nhận mở cửa thị trường viễn thông khi tham gia EVFTA. 

Việt Nam cam kết không hạn chế về số lượng doanh nghiệp, tổng giá trị giao dịch hoặc tài sản, tổng số các hoạt động dịch vụ hoặc tổng số lượng các dịch vụ đầu ra, tỷ lệ tối đa của cổ phần/vốn góp/giá trị đầu tư nước ngoài, loại hình cụ thể của pháp nhân hoặc liên doanh… đối với nhà đầu tư EU.

Đối với các dịch vụ xuyên biên giới, Việt Nam cam kết không hạn chế số lượng nhà cung cấp dịch vụ, tổng giá trị giao dịch/tài sản và tổng số lượng dịch vụ cung cấp.

Việt Nam sẽ mở cửa thị trường viễn thông khi Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA) chính thức có hiệu lực.

Các nguyên tắc này sẽ được thực hiện trừ khi Biểu cam kết có quy định khác, đối với các lĩnh vực có trong Biểu.

Khi tham gia EVFTA, Việt Nam cam kết đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư và các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông đến từ EU với các nhà đầu tư Việt Nam.

Tuy vậy, Việt Nam vẫn có thể đối xử khác biệt giữa nhà cung cấp dịch vụ này, miễn là không làm thay đổi điều kiện cạnh tranh theo hướng có lợi hơn cho nhà cung cấp dịch vụ Việt.

Dịch vụ viễn thông nào sẽ mở cửa sau năm 2020?

Với các cam kết của Việt Nam khi tham gia EVFTA, thị trường viễn thông trong nước sẽ có bước mở cửa rất mạnh sau 5 năm nữa. 

Theo đó trong lĩnh vực viễn thông, Việt Nam cam kết mở cửa thị trường đối với 2 nhóm ngành dịch vụ viễn thông cơ bản và dịch vụ giá trị gia tăng. Hai nhóm này lại chia thành 2 phương thức là có hạ tầng mạng và không có hạ tầng mạng.  

 

Nhóm ngành dịch vụ viễn thông cơ bản bao gồm dịch vụ thoại, dịch vụ truyền số liệu chuyển mạch gói, dịch vụ truyền số liệu chuyển mạch kênh, dịch vụ telex, dịch vụ telegraph, dịch vụ facsimile, dịch vụ thuê kênh riêng và các dịch vụ như hội nghị truyền hình, thông tin vô tuyến, kết nối Internet và truyền dẫn tín hiệu video trừ truyền quảng bá.

Nhóm dịch vụ giá trị gia tăng gồm mạng riêng ảo (VPN), thư điện tử, thư thoại, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), thông tin trực tuyến và xử lý dữ liệu, chuyển đổi mã và giao thức, thông tin trực tuyến và truy cập lấy thông tin từ cơ sở dữ liệu, các dịch vụ facsimile gia tăng giá trị.

Rất nhiều dịch vụ viễn thông thuộc nhóm ngành dịch vụ viễn thông cơ bản và nhóm các dịch vụ giá trị gia tăng sẽ mở cửa đón các nhà đầu tư và nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài kể từ năm 2020.

Với các dịch vụ cung cấp qua biên giới cho khách hàng tại Việt Nam, nhóm dịch vụ hữu tuyến và di động mặt đất, các nhà cung cấp dịch vụ từ EU được tham gia không hạn chế. Tuy nhiên, họ sẽ phải thông qua thỏa thuận thương mại với một tổ chức được thành lập ở Việt Nam. Tổ chức này phải được cấp phép cung cấp dịch vụ viễn thông quốc tế.

Với dịch vụ viễn thông vệ tinh, các nhà cung cấp từ EU phải thông qua thỏa thuận thương mại với các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông vệ tinh quốc tế Việt Nam được cấp phép. Quy định này cũng có ngoại lệ trong một vài trường hợp cụ thể. 

Tùy vào từng loại hình dịch vụ viễn thông, các nhà đầu tư nước ngoài có thể thiết lập các liên doanh tại Việt Nam với tỷ lệ vốn góp từ 49% - 100%.

Đối với việc đầu tư dịch vụ viễn thông cơ bản, nếu không có hạ tầng mạng, EVFTA cho phép các doanh nghiệp EU được liên doanh cùng các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông Việt Nam với tỷ lệ vốn nước ngoài từ 65% - 70%. Tỷ lệ này có thể tăng lên 75% sau 5 năm kể từ ngày EVFTA có hiệu lực. 

Nếu có hạ tầng mạng, doanh nghiệp EU được liên doanh với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông được cấp phép tại Việt Nam với phần vốn góp không vượt quá 49% vốn pháp định.

Đối với việc đầu tư dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng, nếu không có hạ tầng mạng, sau 5 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực, liên doanh được phép nâng tỷ lệ vốn nước ngoài đến 100%. Tỷ lệ này tối đa là 65% trong trường hợp liên doanh có sở hữu hạ tầng mạng. 

Trọng Đạt/ictvietnam.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Tốc độ 5G tại Việt Nam chỉ nhanh khi hạ tầng cáp quang đủ mạnh

Tóm tắt: 

Các dịch vụ mới ra đời sẽ ngày càng có tiêu chuẩn cao hơn, cùng nghĩa với việc tiêu tốn băng thông nhiều hơn. Do đó, Việt Nam phải có hạ tầng cáp quang đủ tốt mới có thể triển khai được hết các ứng dụng của 5G.

Các dịch vụ mới ra đời sẽ ngày càng có tiêu chuẩn cao hơn, cùng nghĩa với việc tiêu tốn băng thông nhiều hơn. Do đó, Việt Nam phải có hạ tầng cáp quang đủ tốt mới có thể triển khai được hết các ứng dụng của 5G.

Sáng 17/10, Hội đồng FTTH Châu Á – Thái Bình Dương (FTTH Council Asia-Pacific) và Hiệp hội Internet Việt Nam (VIA) đã tổ chức hội thảo Vietnam FIBERTalk 2019.

Đây là một hội thảo hẹp với sự tham gia chủ yếu của cộng đồng người làm viễn thông trong nước và một số đơn vị nước ngoài. Hội thảo là bước chuẩn bị cho sự kiện thường niên lần thứ 15 “FTTH Asia Pacific Conference” dự kiến được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 5/2020.  

Vietnam FIBERTalk 2019 mang đến nhiều thông tin cho ngành công nghiệp viễn thông của Việt Nam thông qua sự trao đổi, chia sẻ từ các chuyên gia trong và ngoài nước về những vấn đề nóng trong triển khai hạ tầng cáp quang và hạ tầng viễn thông.

Việt Nam phát triển cả băng rộng cố định và băng rộng di động

Việt Nam hiện có khoảng 14 triệu thuê bao băng rộng cố định, chủ yếu là các thuê bao FTTH. Mật độ băng rộng cố định hiện mới chỉ ở mức xấp xỉ 15%, do vậy nhu cầu phát triển hạ tầng băng rộng cố định tại Việt Nam hiện còn rất lớn. 

Với việc tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam thường duy trì ở mức 6-7%/năm, nhu cầu kinh doanh của các hộ gia đình, các công ty, doanh nghiệp cũng tỷ lệ thuận theo đó. Cùng với nhu cầu kinh doanh ngày một lớn hơn, hạ tầng kết nối cáp quang và băng rộng cố định cũng sẽ phát triển. 

Ông Phan Thảo Nguyên, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế (Bộ TT&TT). Ảnh: Trọng Đạt

Theo đánh giá của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), nếu mật độ băng rộng cố định vượt ngưỡng 20%, GDP nền kinh tế của một quốc gia sẽ tăng thêm 0,38% nếu tốc độ phát triển mật độ thuê bao tăng rộng tăng 10%.

Hiện nay, Bộ TT&TT đã cấp giấy phép cho các nhà mạng tại Việt Nam để bắt đầu thử nghiệm công nghệ 5G tại một số thành phố lớn. Việt Nam xác định sẽ không đi chậm so với các nước trong quá trình phát triển 5G.

Theo ông Phan Thảo Nguyên, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế (Bộ TT&TT), Bộ nhìn cả góc độ phát triển băng rộng cố định cũng như băng rộng di động trên cơ sở chính sách đồng nhất và song song nhau. 

Bộ TT&TT cũng xác định sẽ phát triển hạ tầng cố định băng rộng trên cơ sở cáp quang. Đây là yếu tố hạ tầng rất quan trọng để phát triển toàn bộ hạ tầng CNTT của Việt Nam trong tương lai. Đặc biệt là khi, Việt Nam đang thực hiện một loại các đề án, dự án liên quan đến tiến trình chuyển đổi số quốc gia, trong đó có việc triển khai đô thị thông minh và chính phủ điện tử. 

5G thành hay bại phụ thuộc vào hạ tầng cáp quang

Việt Nam đang có những bước đi mạnh mẽ nhằm tiến tới việc theo mại hóa 5G vào năm 2020. Ở thời điểm hiện tại, Viettel là nhà mạng duy nhất đã triển khai phát sóng thử nghiệm mạng 5G. Trong khi đó, MobiFone dự kiến sẽ phát sóng thử nghiệm 5G trong tháng 10/2019 và với VNPT là tháng 11/2019.

Việc thử nghiệm 5G đang được các nhà mạng Việt Nam gấp rút triển khai với mục tiêu thương mại hóa 5G vào năm 2020.

Tháng 4/2017 Huawei thông báo đã tiến hành thử nghiệm thành công 5G với tốc độ lên đến 70 Gbit/s trong môi trường phòng thí nghiệm có kiểm soát ở Na Uy. Trong khi đó tại Việt Nam, tốc độ kết nối trong các bài thử nghiệm mạng 5G đầu tiên dao động từ 1 - 1.3Gbps. Trước thông tin này, nhiều nhà cung cấp dịch vụ cáp quang có cảm giác quan ngại trong trường hợp 5G được triển khai rộng rãi.

Theo ông Lương Phạm Nam Hoàng - Phó Trưởng phòng Cấp phép và Thị trường (Cục Viễn thông - Bộ TT&TT): “Hệ thống cáp quang cũng giống như mạch máu trong cơ thể. Trong khi đó 5G là các mao mạch nhỏ hơn giúp lấy máu từ mạch chính để truyền đi các bộ phận”.

“Nói nôm na, so với 4G, 5G là một phương mới, sử dụng các công nghệ mới để truyền tải toàn bộ năng lực của mạng truyền dẫn đến người dùng di động. 5G hướng đến việc thu phí rất ít nhưng thu với khối lượng rất lớn, bắt nguồn từ nhu cầu kết nối của hệ thống các thiết bị IoT ở tất cả mọi nơi”, ông Hoàng cho biết.

Với quan điểm như vậy, năng lực của mạng cáp quang là một trong những yêu cầu cơ bản nhất để hiện thực hóa được việc triển khai các dịch vụ 5G.

Theo ông Lương Phạm Nam Hoàng - Phó Trưởng phòng Cấp phép và Thị trường (Cục Viễn thông), chất lượng mạng cáp quang sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc ứng dụng và triển khai mạng 5G. Ảnh: Trọng Đạt

Theo vị Phó Trưởng phòng Cấp phép và Thị trường (Cục Viễn thông), tương lai của mạng cáp quang đầy hứa hẹn. Mạng cáp quang vẫn sẽ phát triển và cần phải được đầu tư rất nhiều, nhất là khi Chính phủ Việt Nam và nhiều quốc gia khác đang hướng tới các chương trình chuyển đổi số quốc gia. Bên cạnh đó, khi 5G được thương mại hóa thì vai trò của hệ thống cáp quang lại ngày càng quan trọng.

Dư địa phát triển của cáp quang còn rất lớn. Các nhà mạng có thể bắt tay cùng nhà nước để chia sẻ trách nhiệm trong việc thúc đẩy sự phát triển hạ tầng cáp quang. Ví dụ như hệ thống cống, bể cáp,... tại các địa phương. Các doanh nghiệp cũng nên chủ động phát triển hạ tầng thay vì đi thuê lại của các nhà mạng khác, ông Hoàng cho biết.

Trọng Đạt/vietnamnet.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

An toàn thông tin, an ninh mạng là yếu tố sống còn để chuyển đổi số quốc gia

Tóm tắt: 

An toàn, an ninh mạng là điều kiện cơ bản, là yếu tố sống còn để thực hiện thành công chuyển đổi số quốc gia.

An toàn, an ninh mạng là điều kiện cơ bản, là yếu tố sống còn để thực hiện thành công chuyển đổi số quốc gia. Tạo ra môi trường an toàn là điều kiện tiên quyết trong quá trình chuyển đổi số cũng như Chính phủ điện tử.

Đây là một trong những nội dung quan trọng được đề cập tại Hội nghị "Bảo đảm an toàn thông tin trong Chuyển đổi số quốc gia và Chính phủ điện tử" do Cục An toàn thông tin (Bộ TT&TT) tổ chức tại Bà Rịa - Vũng Tàu sáng 17/10.

Hội nghị có sự tham gia của 26 Sở các tỉnh phía Nam, các bộ, ngành liên quan, các tổng công ty, tập đoàn có đại diện tại khu vực.

Chủ đề của Hội nghị tập trung vào an toàn thông tin, điều kiện cơ bản để thực hiện Chuyển đổi số quốc gia và Chính phủ điện tử.

Ông Nguyễn Khắc Lịch, Phó Cục trưởng Cục ATTT (Bộ TT&TT) trình bày tham luận tại hội nghị.

Với sự xuất hiện của một số công nghệ mới mang tính đột phá, như AI, Big Data, IoT, cuộc cách mạng số đang gia tăng tốc độ, xuất hiện cơ hội để hình thành xã hội thông minh. Để tận dụng cơ hội của công nghệ số, các quốc gia phải thực hiện chuyển đổi số. Năm 2019 này, Việt Nam sẽ xây dựng đề án chuyển đổi số quốc gia, để xây dựng nền kinh tế số, xã hội số.

An toàn, an ninh mạng là điều kiện cơ bản, là yếu tố sống còn để thực hiện thành công chuyển đổi số quốc gia. Tạo ra môi trường an toàn để chính phủ, doanh nghiệp và người dân sử dụng công nghệ số là điều kiện tiên quyết trong quá trình chuyển đổi số cũng như Chính phủ điện tử. Việt Nam mong muốn và phải tạo ra một không gian an toàn để thực hiện các giao dịch số.

Hiện nay, Internet cũng như các công nghệ trong cuộc cách mạng số đang ngày càng đi sâu vào mọi mặt cuộc sống, tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội, nhưng đồng thời tiềm ẩn nhiều nguy cơ, rủi ro về mất an toàn, an ninh mạng.

 

Do đó, giải pháp bắt đầu từ vấn đề nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi người dân trong môi trường mạng là vô cùng quan trọng. Từ nhận thức đúng sẽ có hành động đúng và từ hành động đúng sẽ có thói quen an toàn, lành mạnh trên không gian mạng. Điều này cần sự chung tay của toàn xã hội, mỗi cá nhân trong cộng đồng này nhằm duy trì, phát triển an toàn thông tin (ATTT) mạng, bảo đảm an toàn thông tin mạng là bảo vệ chính chúng ta nhằm góp phần xây dựng không gian mạng an toàn, lành mạnh.

Bảo đảm an toàn thông tin cho chuyển đổi số và chính phủ điện tử không đơn thuần là ứng dụng các giải pháp đắt tiền mà quên đi yếu tố con người. Thực tiễn đã chứng minh cán bộ, công chức, viên chức, người lao động luôn là những mắt xích yếu nhất về an toàn thông tin. Một sự cố về mất an toàn thông tin của cơ quan, tổ chức có thể phát sinh từ những tình huống đơn giản nhất như chia sẻ mật khẩu hay sử dụng email không đúng cách...

Do vậy, việc bồi dưỡng kiến thức, nâng cao nhận thức về ATTT cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động cần phải được chú trọng và thực hiện thường xuyên hơn nữa.

Tại Hội nghị sáng nay, các bài trình bày được đưa ra để nâng cao nhận thức về an toàn thông tin bao gồm: Công tác bảo đảm an toàn thông tin trên không gian mạng; Tổng quan Chỉ thị số 14/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao năng lực phòng, chống phần mềm độc hại (năm 2018) và Chỉ thị số 14/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường bảo đảm an toàn thông tin nhằm cải thiện chỉ số xếp hạng của Việt Nam; Triển khai công tác bảo đảm an toàn thông tin tại Bà Rịa - Vũng Tàu; Bảo vệ thông tin cá nhân trong chuyển đổi số; Mạng lưới ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng quốc gia.

Bộ TT&TT mong muốn sau mỗi hội thảo, hội nghị, nhận thức về ATTT của cộng đồng và xã hội ngày càng được cải thiện và khi áp dụng thường xuyên, hình thành những kỹ năng để mỗi người tự bảo vệ bản thân, bảo vệ gia đình từ đó tiến tới bảo vệ cơ quan, tổ chức và quốc gia trên không gian mạng.

H.P/vietnamnet.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Sử dụng chữ ký số để đảm bảo an toàn, bảo mật cao cho giao dịch điện tử

Tóm tắt: 

“Chữ ký số (CKS) là một trong những loại hình kỹ thuật, công nghệ đảm bảo sự an toàn, bảo mật cao cho giao dịch điện tử”.

Ngày 11/10/2019, tại Hà Nội, Bộ TTTT phối hợp với Ban Cơ yếu Chính phủ tổ chức Hội nghị “Tuyên truyền, đẩy mạnh sử dụng chữ ký số trong các hoạt động của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp (DN), xã hội năm 2019”.

Tham dự Hội nghị có Thứ trưởng Bộ TTTT Nguyễn Thành Hưng; Thiếu tướng Nguyễn Đăng Đào, Trưởng Ban Cơ yếu Chính phủ; đại diện Lãnh đạo Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ; đại diện Lãnh đạo Tỉnh/Thành ủy, UBND, Sở TTTT các tỉnh, thành phố khu vực miền Bắc.

Thứ trưởng Bộ TTTT Nguyễn Thành Hưng phát biểu

Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ TTTT Nguyễn Thành Hưng nhấn mạnh: “Ngày nay, giao dịch điện tử trong những hoạt động của các DN, cơ quan nhà nước và xã hội có vai trò hết sức quan trọng và là một hoạt động thúc đẩy phát triển kinh tế số trong thời gian tới. Chữ ký số (CKS) là một trong những loại hình kỹ thuật, công nghệ đảm bảo sự an toàn, bảo mật cao cho giao dịch điện tử”.

Thời gian vừa qua, Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực giao dịch điện tử như: Nghị định 130 ngày 27/9/2018 quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử; Nghị định 119 quy định về hóa đơn điện tử; Nghị định 165 quy định về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính; Quyết định 28 của Thủ tướng Chính phủ quy định việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước.

“Các văn bản này quy định rõ về giá trị pháp lý của CKS, giá trị pháp lý của văn bản điện tử, hóa đơn điện tử, chứng từ điện tử có ký số có giá trị như bản giấy”, Thứ trưởng nhấn mạnh.

Trong năm 2019, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 17 về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử (CPĐT) giai đoạn 2019 – 2020, định hướng đến năm 2025. Bộ TTTT theo tinh thần của Nghị quyết 17 cũng được giao nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như Nghị định về định danh và xác thực điện tử; Nghị định về quản lý, kết nối, chia sẻ dư liệu; Triển khai dịch vụ chứng thực CKS trên thiết bị di động để thuận tiện sử dụng cho người dân, DN; Triển khai các giải pháp liên thông giữa hệ thống chứng thực CKS công cộng và hệ thống chứng thực CKS chuyên dùng Chính phủ.

Trong Nghị quyết 17, Bộ TTTT được giao nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất phương án đẩy mạnh việc cấp chứng thư số cho người dân, DN theo hướng giảm chi phí cấp và duy hoạt động chứng thư số để khuyến khích sử dụng trong các giao dịch điện tử. Chính phủ có mong muốn làm thế nào CKS được sử dụng rộng rãi trong giao dịch điện tử, cũng muốn giá thành chứng thư số phải giảm.

Theo đó, Thứ trưởng nhấn mạnh: “Một trong những việc quan trọng để giảm được giá thành là phải làm thế nào để thúc đẩy việc sử dụng CKS rộng rãi. Nhiều người sử dụng thì giá thành sẽ giảm”.

Bên cạnh đó, theo Thứ trưởng, xây dựng CPĐT không phải là chúng ta chỉ cần ứng dụng công nghệ vào, mà chúng ta còn phải làm thế nào để các quy trình thực hiện thủ tục hành chính của chúng ta phải đơn giản, phải gắn kết chặt chẽ với cải cách hành chính (CCHC).

Thứ trưởng lấy ví dụ là thời gian vừa qua, Bộ TTTT phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Chính phủ để triển khai hệ thống văn bản điện tử. Trong quá trình triển khai, có rất nhiều vướng mắc, trong đó có việc chúng ta áp dụng văn bản điện tử nhưng quy trình hành trình hành chính vẫn không thay đổi, như quy trình thực hiện văn bản giấy. Như vậy, có lẽ chúng ta sẽ khó thành công.

Theo Thứ trưởng, đây là một thực tiễn, nhiều khi chúng ta nghĩ quá nhiều về công nghệ, nghĩ quá nhiều các vấn đề về ứng dụng CNTT nhưng cái gốc của vấn đề là làm thế nào gắn kết được 2 vấn đề để cải cách hành chính tạo thuận lợi cho ứng dụng CNTT thành công, và ứng dụng CNTT thành công cũng là tạo điều kiện để chúng ta CCHC.

Thiếu tướng Nguyễn Đăng Đào, Phó Trưởng Ban Cơ yếu Chính phủ

Thiếu tướng Nguyễn Đăng Đào, Phó Trưởng Ban Ban Cơ yếu Chính phủ cho biết: Tính đến tháng 9/2019, Ban Cơ yếu Chính phủ đã đáp ứng kịp thời gần 220.000 chứng thư số phục vụ các cơ quan Đảng, Nhà nước các cấp.

Các bộ, ngành, địa phương đã chủ động, tích cực phối hợp với Bộ TTTT, Ban Cơ yếu Chính phủ triển khai CKS chuyên dùng Chính phủ trong công tác quản lý, điều hành, trao đổi văn bản điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến và đã đạt được những kết quả quan trọng, đảm bảo an toàn các giao dịch điện tử, tạo môi trường làm việc hiện đại, tiết kiệm thời gian và chi phí; Nâng cao hiệu quả công việc, tăng tính công khai, minh bạch trong quản lý, điều hành; Góp phần tích cực trong việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT, CCHC và phát triển CPĐT.

Bổ sung quy định sử dụng giấy tờ, tài liệu áp dụng CKS của cá nhân, DN trong thủ tục hành chính

Cũng tại Hội nghị, ông Phạm Quốc Hoàn, Phó Giám đốc Trung tâm Chứng thực điện tử quốc gia (NEAC) cho biết: CKS có giá trị pháp lý, được coi là chứng cứ ký số vào thông điệp dữ liệu (văn bản điện tử, chứng từ điện tử, hoá đơn điện tử…). “CKS đảm bảo xác định được người ký số, tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu và người ký không chối bỏ được”.

Ông Phạm Quốc Hoàn, Phó Giám đốc NEAC

Theo ông Hoàn, chứng thư số sử dụng để ký số được cấp phát bởi CA hợp lệ, trong đó quy định thuật toán ký số, lược đồ ký số, hàm băm sử dụng do pháp luật quy định.

Bộ TTTT đang xây dựng Nghị định về định danh và xác thực điện tử - đang lấy ý kiến các Bộ, Ngành, tỉnh, thành phố; Thông tư quy định về sử dụng CKS trong giao dịch điện tử - Đang xin ý kiến các Bộ, Ngành, địa phương, Sở TTTT, DN, hiệp hội; Thông tư về Mobile PKI về ký số từ xa (remote singing) – đã gửi xin ý kiến các Bộ, Ngành, địa phương.

Ông Hoàn kiến nghị các Bộ, cơ quan Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố xây dựng cổng dịch vụ công trực tuyến:

- Rà soát, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật: Bổ sung các quy định sử dụng các giấy tờ, tài liệu điện tử có áp dụng CKS của các cá nhân, DN trong thủ tục hành chính (dịch vụ công trực tuyến).

- Xây dựng các hệ thống thông tin, cổng dịch vụ công trực tuyến đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về CKS để chấp nhận CKS trên tài liệu, hồ sơ điện tử của người dân, DN để đảm bảo tính pháp lý.

- Xây dựng và phát triển các hệ thống quản lý văn bản điều hành để trao đổi văn bản điện tử với các cơ quan khác (Quyết định 28/2018/QĐ-TTg và NQ 17/NQ-CP) cần lưu ý việc đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về CKS, liên thông hệ thống CA đối với văn bản điện tử để đảm bảo tính pháp lý.

Toàn cảnh Hội nghị

Đối với các tổ chức, DN, ông Hoàn yêu cầu khi triển khai các hệ thống thông tin liên quan đến việc ký số, kiểm tra CKS (chấp nhận CKS) của người dân, DN và cơ quan nhà nước cần tuân thủ các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về CKS, kiểm tra CKS, quy định liên thông để đảm bảo tính pháp lý.

Những kết quả đáng khích lệ về ứng dụng CKS

Theo số liệu thống kê của NEAC, tính đến 30/6/2019, các CA công cộng đã cấp 2.699.668 chứng thư số. Số lượng chứng thư số đang hoạt động là 1.166.896.

Các chứng thư số được cấp chủ yếu cho các DN, cá nhân thực hiện giao dịch trong các lĩnh vực chính như Thuế điện tử, Hải quan điện tử và Bảo hiểm xã hội điện tử, ngoài ra, còn sử dụng trong các loại giao dịch khác trong tài chính điện tử (chứng từ điện tử, hóa đơn điện tử), giao dịch ngân hàng điện tử, chứng khoán điện tử,  giao dịch thương mại điện tử, hợp đồng điện tử…

Điển hình là lĩnh vực thuế, sau 10 năm triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến ứng dụng CKS tại Tổng cục Thuế, hiện nay tần suất sử dụng ngày càng tăng cao.

Hệ thống khai thuế điện tử đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố và 100% Chi cục Thuế trực thuộc. Số lượng DN sử dụng dịch vụ khai thuế điện tử tính đến 31/3/2019 là 711.604 DN hoạt động;

Về nộp thuế qua mạng, số lượng DN đã đăng ký tham gia sử dụng dịch vụ với cơ quan thuế tính đến 31/3/2019 là 703.753 DN đang hoạt động, đạt tỷ lệ 98,87%;

Về hóa đơn điện tử, số lượng DN xuất hóa đơn điện tử trên hệ thống tính đến ngày 31/3/2019 đạt 255 DN.

Trong khi đó, tính đến hết quý I/2019, Tổng cục Hải quan đang cung cấp 181 dịch vụ công trực tuyến áp dụng CKS để xác thực và 170 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 áp dụng CKS để xác thực.

Số lượng DN sử dụng CKS để giao dịch dịch vụ công trực tuyến tính đến thời điểm 31/3/2019 tại các hệ thống: Hệ thống thông quan hàng hóa tự động (VNACCS/VCIS): 203.967 DN tham gia; Hệ thống Cổng thông tin một cửa quốc gia: 28.464 DN tham gia và 173 thủ tục đã triển khai.

Bảo hiểm xã hội sau hơn 04 năm triển khai, các dịch vụ công trực tuyến áp dụng CKS phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Tính đến 31/3/2019, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã cung cấp 28 dịch vụ công trực tuyến dành cho DN với 323.481 DN ứng dụng dịch vụ.

Lan Phương/ictvietnam.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 của Việt Nam qua từng chỉ số

Tóm tắt: 

Trụ cột Ứng dụng CNTT tăng điểm và tăng hạng nhiều nhất (tăng 25,7 điểm và 54 bậc, từ 43,3 điểm lên 69,0 điểm và theo đó thứ hạng từ vị trí 95 lên vị trí 41).

Năng lực cạnh tranh 4.0 (GCI 4.0) được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) giới thiệu chính thức năm 2018, cung cấp một đánh giá chi tiết về các yếu tố và thuộc tính thúc đẩy năng suất, tăng trưởng và phát triển con người trong kỷ nguyên của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Năm 2019, Việt Nam được WEF đánh giá là nền kinh tế có mức độ cải thiện điểm số và tăng hạng tốt nhất toàn cầu.

Trụ cột Năng lực đổi mới sáng tạo tăng 6 bậc (từ thứ hạng 82 lên thứ hạng 76). - Ảnh minh họa

Năm 2019, WEF xếp hạng 141 nền kinh tế (chiếm 99% GDP thế giới) qua 103 chỉ số được nhóm thành 12 trụ cột (GCI 2018 bao gồm 98 chỉ số). Các trụ cột bao quát các yếu tố kinh tế - xã hội như thể chế, cơ sở hạ tầng, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), ổn định kinh tế vĩ mô, y tế, kỹ năng, thị trường sản phẩm, thị trường lao động, hệ thống tài chính, quy mô thị trường, mức độ năng động trong kinh doanh và năng lực đổi mới sáng tạo.

Bảng xếp hạng này cho thấy, năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 của Việt Nam đã cải thiện vượt trội, song vẫn còn nhiều thách thức. Năm 2019, Việt Nam tăng 3,5 điểm (từ 58 điểm lên 61,5 điểm) cao hơn điểm trung bình toàn cầu (60,7 điểm) và tăng 10 bậc (từ vị trí 77 lên vị trí 67). Kết quả này đạt được là do 8/12 trụ cột tăng điểm và tăng nhiều bậc. Cụ thể là:

- Trụ cột Ứng dụng CNTT tăng điểm và tăng hạng nhiều nhất (tăng 25,7 điểm và 54 bậc, từ 43,3 điểm lên 69,0 điểm và theo đó thứ hạng từ vị trí 95 lên vị trí 41). Tất cả các chỉ số thành phần trong trụ cột này đều tăng điểm, tăng hạng (như Thuê bao internet cáp quang, Thuê bao di động, Thuê bao di động băng thông rộng, Số người sử dụng internet, Thuê bao Internet băng thông rộng cố định).

- Tiếp đến là Trụ cột Thị trường sản phẩm tăng 23 bậc (từ vị trí 102 lên thứ 79), với các chỉ số về cạnh tranh trong nước đều tăng điểm và tăng hạng, độ mở thương mại được ghi nhận tích cực với việc giảm bớt các rào cản phi thuế.

- Mức độ năng động trong kinh doanh tăng 12 bậc (từ vị trí 101 lên vị trí 89), với những cải thiện mạnh mẽ trên hầu hết các chỉ số thành phần (ngoại trừ phá sản doanh nghiệp), nhất là những chỉ số thể hiện tăng trưởng các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp có ý tưởng đột phá.

- Trụ cột Thị trường lao động tăng 2,6 điểm và 7 bậc (từ thứ 90 lên thứ hạng 83), với sự cải thiện về Di cư lao động trong nước (tăng 27 bậc); Mức độ dễ dàng trong tuyển dụng lao động nước ngoài (tăng 22 bậc); Mức độ linh hoạt của tiền lương (tăng 15 bậc); Quan hệ giữa người lao động- người sử dụng lao động và Thực tiễn tuyển dụng và sa thải lao động (đều tăng 10 bậc). Tuy nhiên, Quyền của người lao động chưa được đảm bảo, giảm 4 điểm và giảm 11 bậc (từ vị trí 82 xuống vị trí 93).

- Trụ cột Năng lực đổi mới sáng tạo tăng 6 bậc (từ thứ hạng 82 lên thứ hạng 76). Trong đó, Mức độ tinh thông của người mua tăng 46 bậc; Mức độ phát triển các cụm ngành tăng 33 bậc; Hợp tác đa bên tăng 17 bậc; Tính đa dạng của lực lượng lao động tăng 16 bậc; Chi phí R&D tăng 6 bậc.

- Trụ cột Thể chế tăng 0,3 điểm và 5 bậc (từ vị trí 94 lên vị trí 89). Trong đó, đáng kể nhất là nhóm các chỉ số thể hiện Mức độ định hướng tương lai của Chính phủ tăng mạnh. Nhóm chỉ số này trong GCI 2019 được phát triển và thể hiện cụ thể hơn so với đánh giá trong GCI 2018, do đó thứ hạng của Việt Nam ở chỉ số này được ghi nhận cải thiện tích cực (vị trí 40 năm 2019 so với thứ hạng 75 năm 2018). Tuy vậy, chỉ số về Quy định pháp lý thích ứng linh hoạt với mô hình kinh doanh số còn thấp điểm và thấp hạng (43,1 điểm và ở vị trí 71); chỉ số Ổn định chính sách chỉ đạt 50,3 điểm và thứ hạng 67.

- Trụ cột Kỹ năng tăng 2,7 điểm và 4 bậc (từ thứ 97 lên thứ hạng 93), với sự ghi nhận cải thiện tích cực trên tất cả các chỉ số thành phần. Đáng chú ý là: Chất lượng đào tạo nghề (tăng 13 bậc); Kỹ năng của học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp (tăng 12 bậc); Mức độ đào tạo nhân viên và Mức độ dễ dàng tìm kiếm lao động lành nghề (cùng tăng 8 bậc); Tư duy phản biện trong giảng dạy (tăng 7 bậc);…

- Trụ cột Quy mô thị trường tăng 0,9 điểm và 3 bậc (từ vị trí 29 lên vị trí 26).

Mặc dù Việt Nam có những cải thiện đáng kể về điểm số và thứ hạng của hầu hết các chỉ số thành phần trong 8/12 trụ cột nêu trên, song vẫn còn 3 trụ cột tụt hạng và 1 trụ cột giữ vị trí không đổi. Cụ thể là:

- Trụ cột Ổn định kinh tế vĩ mô không thay đổi điểm số và thứ hạng (giữ ở mức 75 điểm và thứ hạng 64).

- Trụ cột Hệ thống tài chính tăng 1,6 điểm, nhưng giảm 1 bậc; trụ cột Cơ sở hạ tầng tăng 0,5 điểm, nhưng giảm 2 bậc.

- Trụ cột Y tế giảm điểm nhẹ (0,5 điểm, từ 81 điểm xuống 80,5 điểm) và do đó tụt 3 hạng (từ vị trí 68 xuống vị trí 71).

Mặt khác, có đến 8/12 chỉ số trụ cột hiện ở thứ hạng thấp hoặc rất thấp. Các trụ cột có thứ hạng dưới thứ hạng chung về năng lực cạnh tranh (thứ 67) gồm Thể chế (89); Cơ sở hạ tầng (77); Y tế (71); Kỹ năng (93); Thị trường sản phẩm (79); Thị trường lao động (83); Mức độ năng động trong kinh doanh (89); và Năng lực đổi mới sáng tạo (76).

Ở cấp độ các chỉ số thành phần, một số chỉ số có sự suy giảm mạnh như:

- Mức độ minh bạch về ngân sách giảm 50,4 điểm (từ 65,4 xuống 15 điểm), dẫn tới thứ hạng tụt 42 bậc (từ vị trí 42 xuống vị trí 84);

- Mức độ Tiếp xúc với nước uống không an toàn có dấu hiệu tăng, hiện ở thứ hạng thấp (thứ 95), giảm 13 bậc so với năm 2018 (thứ 82);

- Hiệu quả dịch vụ cảng biển tuy không giảm điểm, nhưng tụt 5 bậc (đứng thứ 83). Điều này thể hiện Việt Nam chưa quan tâm chú trọng tới dịch vụ cảng biển so với các nền kinh tế khác.

- Đáng chú ý là trong trụ cột Hệ thống tài chính, nguồn vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) giảm 0,8 điểm và 12 bậc, đứng ở thứ hạng 97 (năm 2018 có thứ hạng 85). Kết quả này cho thấy tiếp cận tín dụng vẫn là trở ngại lớn đối với các DNVVN. Bên cạnh đó, Mức độ sẵn có về vốn đầu tư mạo hiểm tuy có sự cải thiện, nhưng chậm hơn so với nhiều nền kinh tế, dẫn tới thứ hạng giảm 10 bậc (từ vị trí 51 xuống vị trí 61). Điều này phần nào phản ánh môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam chưa thực sự ổn định và thuận lợi, khiến các quỹ đầu tư thận trọng hơn khi đầu tư cho doanh nghiệp ở Việt Nam.

- Hiệu quả giải quyết phá sản doanh nghiệp tiếp tục là rào cản lớn đối với hoạt động kinh doanh ở Việt Nam, đứng cuối bảng xếp hạng (trong đó, mức độ phục hồi sản xuất kinh doanh đứng thứ 112, khuôn khổ pháp lý về giải quyết phá sản thứ 98; giảm tương ứng 3 và 5 bậc so với năm 2018).

Năm 2019, ngoại trừ Singapore và Việt Nam, các nước còn lại trong khu vực ASEAN đều giảm điểm hoặc giảm bậc. Trong đó, Malaysia, Thái Lan tăng điểm, nhưng giảm bậc (mỗi nước giảm 2 bậc); Indonesia và Philippines giảm điểm và giảm bậc (Indonesia giảm 5 bậc; Philippines giảm 8 bậc); 2 nước Lào và Campuchia vẫn ở cuối bảng xếp hạng. Tuy có sự cải thiện nhanh, nhưng năng lực cạnh tranh 4.0 của Việt Nam vẫn chỉ đứng thứ 6 trong ASEAN, sau Singapore (thứ 1), Malaysia (thứ 27), Thái Lan (thứ 40), Indonesia (thứ 50) và Philippines (thứ 64).

Kết quả cải thiện năng lực cạnh tranh của Việt Nam phần nào phản ánh nỗ lực liên tục trong những năm gần đây của Chính phủ vể cải cách môi trường kinh doanh, về thúc đẩy đổi mới sáng tạo để thích ứng và nhảy vọt trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 và hội nhập sâu rộng hơn. Những nỗ lực cải cách nổi bật như cắt giảm, đơn giản hoá ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh; thay đổi phương thức quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý, kiểm tra chuyên ngành (áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, chuyển mạnh sang hậu kiểm,…); chú trọng cải thiện các quy định, thủ tục nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi; đẩy mạnh Chính phủ điện tử và giao dịch không dùng tiền mặt; cải cách thanh, kiểm tra doanh nghiệp; giảm chi phí doanh nghiệp; từng bước tạo lập thể chế chính sách vượt trội nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo;… đã đóng góp có ý nghĩa vào kết quả năng lực cạnh tranh 4.0 năm 2019 của nước ta.

Tuy vậy, phía trước vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất là vấn đề về thể chế, kỹ năng, môi trường kinh doanh và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Bởi vậy, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực cải cách mạnh mẽ, thực chất và toàn diện hơn nữa để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế một cách bền vững và mang lại sự thịnh vượng. Điều này đòi hỏi không chỉ nỗ lực từ Chính phủ mà cần sự chung tay của các bên liên quan, nhất là cộng đồng doanh nghiệp và người dân.

Nguyễn Minh Thảo
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

Nguồn: chinhphu.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Việt Nam đã có “kim chỉ nam” định hướng chuyển đổi số quốc gia

Tóm tắt: 

Trong tiến trình chuyển đổi số, Việt Nam đặt mục tiêu lĩnh vực kinh tế số sẽ chiếm tới 30% GDP vào năm 2030.

Trong tiến trình chuyển đổi số, Việt Nam đặt mục tiêu lĩnh vực kinh tế số sẽ chiếm tới 30% GDP vào năm 2030.

Sáng 3/10, tại Hà Nội đã diễn ra phiên toàn thể của Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 2019 (Industry 4.0 2019). Diễn đàn do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì tổ chức với mục tiêu nhằm đánh giá tình hình tham gia cuộc CMCN 4.0 của nước ta thời gian qua. Bên cạnh đó, Diễn đàn là nơi phổ biến, quán triệt chính sách của Đảng và Nhà nước về việc chủ động tham gia CMCN 4.0 thời gian tới.

Cách mạng thể chế là lợi thế của Việt Nam

Một trong những chủ đề quan trọng được đề cập tại Diễn đàn lần này là tiến trình chuyển đổi số quốc gia, với mục tiêu hướng tới nền kinh tế số và xã hội số.

Theo Bộ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông (TT&TT) Nguyễn Mạnh Hùng, chuyển đổi số đã diễn ra nhiều năm qua, nhưng chỉ khi xuất hiện các công nghệ của CMCN 4.0 thì chuyển đổi số mới thực sự tăng tốc.

Phiên toàn thể của Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 2019 (Industry 4.0 2019).

Nói đến chuyển đổi số là nói đến một môi trường mới trong cuộc sống của nhân loại - môi trường số, hay còn gọi là môi trường không gian mạng. Đây là lần đầu tiên loài người bước vào một thế giới khác. Từ đây, sẽ xuất hiện kinh tế số và xã hội số.

“Chỉ lúc này, các công nghệ số mới phát huy hết sức mạnh của nó. Cả sức mạnh xây dựng và sức mạnh huỷ diệt. Chuyển đổi số sẽ hình thành các mối quan hệ mới. Đây là thách thức lớn nhất của chuyển đổi số, nhưng cũng chính những mối quan hệ mới, những mô hình kinh tế mới sẽ phát huy hiệu quả của chuyển đổi số”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Chia sẻ tại Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 năm 2019, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, việc chuyển đổi số sẽ phụ thuộc phần lớn vào nhận thức của con người. Đây là lợi thế của các nước đi sau vì nhận thức không bị phụ thuộc vào cơ sở vật chất mà các nước đang sở hữu. Do vậy, nếu có chính sách phù hợp thì Việt Nam sẽ tận dụng được cơ hội này để vượt lên thành nước phát triển.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, chuyển đổi số là một cuộc cách mạng về chính sách và thể chế nhiều hơn là một cuộc cách mạng về công nghệ.

“Đây là lợi thế của Việt Nam khi chúng ta có Đảng lãnh đạo, có thể ra được những quyết sách lớn một cách nhanh và tập trung. Nghị quyết 52 là một thí dụ như vậy. Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị đã định hướng cho chuyển đổi số Việt Nam, với mục tiêu kinh tế số chiếm tới 30% GDP vào năm 2030.”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Nền tảng số mạnh sẽ giúp chuyển đổi số thành công

Chia sẻ quan điểm của mình, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng chyển đổi số sẽ mở ra một cơ hội rất lớn cho Việt Nam. Với khả năng linh hoạt của người Việt Nam, nước ta có thể tận dụng được cơ hội này. Tuy vậy, Việt Nam muốn thay đổi thứ hạng trên thế giới thì phải đi nhanh và đi đầu để có lợi thế cạnh tranh.

Các doanh nghiệp công nghệ sẽ là hạt nhân của quá trình chuyển đổi số. Chuyển đổi số sẽ thúc đẩy 

Nói đến chuyển đổi số là nói đến một môi trường mới trong cuộc sống của nhân loại - môi trường số, hay còn gọi là môi trường không gian mạng. Đây là lần đầu tiên loài người bước vào một thế giới khác. Từ đây, sẽ xuất hiện kinh tế số và xã hội số.

“Chỉ lúc này, các công nghệ số mới phát huy hết sức mạnh của nó. Cả sức mạnh xây dựng và sức mạnh huỷ diệt. Chuyển đổi số sẽ hình thành các mối quan hệ mới. Đây là thách thức lớn nhất của chuyển đổi số, nhưng cũng chính những mối quan hệ mới, những mô hình kinh tế mới sẽ phát huy hiệu quả của chuyển đổi số”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Chia sẻ tại Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 năm 2019, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, việc chuyển đổi số sẽ phụ thuộc phần lớn vào nhận thức của con người. Đây là lợi thế của các nước đi sau vì nhận thức không bị phụ thuộc vào cơ sở vật chất mà các nước đang sở hữu. Do vậy, nếu có chính sách phù hợp thì Việt Nam sẽ tận dụng được cơ hội này để vượt lên thành nước phát triển.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, chuyển đổi số là một cuộc cách mạng về chính sách và thể chế nhiều hơn là một cuộc cách mạng về công nghệ.

“Đây là lợi thế của Việt Nam khi chúng ta có Đảng lãnh đạo, có thể ra được những quyết sách lớn một cách nhanh và tập trung. Nghị quyết 52 là một thí dụ như vậy. Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị đã định hướng cho chuyển đổi số Việt Nam, với mục tiêu kinh tế số chiếm tới 30% GDP vào năm 2030.”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Nền tảng số mạnh sẽ giúp chuyển đổi số thành công

 

Chia sẻ quan điểm của mình, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng chyển đổi số sẽ mở ra một cơ hội rất lớn cho Việt Nam. Với khả năng linh hoạt của người Việt Nam, nước ta có thể tận dụng được cơ hội này. Tuy vậy, Việt Nam muốn thay đổi thứ hạng trên thế giới thì phải đi nhanh và đi đầu để có lợi thế cạnh tranh.

Các doanh nghiệp công nghệ sẽ là hạt nhân của quá trình chuyển đổi số. Chuyển đổi số sẽ thúc đẩy

Nói đến chuyển đổi số là nói đến một môi trường mới trong cuộc sống của nhân loại - môi trường số, hay còn gọi là môi trường không gian mạng. Đây là lần đầu tiên loài người bước vào một thế giới khác. Từ đây, sẽ xuất hiện kinh tế số và xã hội số.

“Chỉ lúc này, các công nghệ số mới phát huy hết sức mạnh của nó. Cả sức mạnh xây dựng và sức mạnh huỷ diệt. Chuyển đổi số sẽ hình thành các mối quan hệ mới. Đây là thách thức lớn nhất của chuyển đổi số, nhưng cũng chính những mối quan hệ mới, những mô hình kinh tế mới sẽ phát huy hiệu quả của chuyển đổi số”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Chia sẻ tại Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 năm 2019, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, việc chuyển đổi số sẽ phụ thuộc phần lớn vào nhận thức của con người. Đây là lợi thế của các nước đi sau vì nhận thức không bị phụ thuộc vào cơ sở vật chất mà các nước đang sở hữu. Do vậy, nếu có chính sách phù hợp thì Việt Nam sẽ tận dụng được cơ hội này để vượt lên thành nước phát triển.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, chuyển đổi số là một cuộc cách mạng về chính sách và thể chế nhiều hơn là một cuộc cách mạng về công nghệ.

“Đây là lợi thế của Việt Nam khi chúng ta có Đảng lãnh đạo, có thể ra được những quyết sách lớn một cách nhanh và tập trung. Nghị quyết 52 là một thí dụ như vậy. Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị đã định hướng cho chuyển đổi số Việt Nam, với mục tiêu kinh tế số chiếm tới 30% GDP vào năm 2030.”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nói.

Nền tảng số mạnh sẽ giúp chuyển đổi số thành công

Chia sẻ quan điểm của mình, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng chyển đổi số sẽ mở ra một cơ hội rất lớn cho Việt Nam. Với khả năng linh hoạt của người Việt Nam, nước ta có thể tận dụng được cơ hội này. Tuy vậy, Việt Nam muốn thay đổi thứ hạng trên thế giới thì phải đi nhanh và đi đầu để có lợi thế cạnh tranh.

Các doanh nghiệp công nghệ sẽ là hạt nhân của quá trình chuyển đổi số. Chuyển đổi số sẽ thúc đẩy Make In Vietnam và hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, và từ đây đi ra toàn cầu.

Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tham luận về tiến trình chuyển đổi số quốc gia tại Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 2019.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, Việt Nam phải có một cách tiếp cận mới và đột phá về chyển đổi số. Đó chính là các Platform số (nền tảng số) để các cơ quan, doanh nghiệp, hộ gia đình và người dân sử dụng. Việc sử dụng các Platform số tức là lên môi trường số, tức là hoạt động trong môi trường số.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định, trong tuyên bố chiến lược về chuyển đổi số quốc gia, các yếu tố nền tảng sẽ được nhấn mạnh, sẽ được đầu tư trước, sẽ đi trước, và phải có thứ hạng cao trên thế giới. Năm yếu tố nền tảng của Việt Nam trong chuyển đổi số sẽ là Thể chế, Hạ tầng, An ninh mạng, Platform và Đào tạo.

Chuyển đổi số quốc gia bao gồm chuyển đổi số chính phủ, chuyển đổi số doanh nghiệp và chuyển đổi số xã hội. Để chuyển đổi số, Việt Nam có thể chọn chiến lược 3 bước. 

Bước một là đẩy nhanh việc số hoá và ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực. Bước hai, sẽ sử dụng chuyển số như một lợi thế cạnh tranh trong từng lĩnh vực. Với bước ba, chúng ta sẽ tiến tới nền kinh tế số toàn diện, hình thành các ngành công nghiệp số thế hệ mới, các ngành công nghiệp mới này sẽ là động lực tăng trưởng cho nền kinh tế.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cũng nhấn mạnh vai trò của lĩnh vực An toàn thông tin: "Nếu chúng ta coi mục tiêu của chuyển đổi số là phát triển quốc gia hùng cường, động lực của chuyển đổi số là thể chế, là công nghệ và đổi mới sáng tạo thì tiền đề của chuyển đổi số chính là an toàn, an ninh không gian mạng. Việt Nam muốn dựa vào chuyển đổi số để phát triển thành quốc gia hùng cường thì Việt Nam phải là cường quốc về an ninh mạng để đảm bảo an toàn cho quá trình này, tạo niềm tin số cho mọi người."

Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị đã yêu cầu Chính phủ phải đi tiên phong trong chuyển đổi số. Với tinh thần và quyết tâm của Nghị quyết 52 là "Đảng đi trước làng nước theo sau", Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng tin tưởng công cuộc chuyển đổi số quốc gia sẽ giúp Việt Nam vượt lên và trở thành một nước phát triển.

Trọng Đạt/vietnamnet.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT

Cần linh hoạt trước yếu tố khó lường của CMCN 4.0

Tóm tắt: 

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có những yếu tố khó lường, đòi hỏi con người phải sẵn sàng tận dụng thời cơ, tránh được rủi ro, có các giải pháp linh hoạt, thích ứng với những thay đổi mà ngày hôm nay chưa dự báo được.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có những yếu tố khó lường, đòi hỏi con người phải sẵn sàng tận dụng thời cơ, tránh được rủi ro, có các giải pháp linh hoạt, thích ứng với những thay đổi mà ngày hôm nay chưa dự báo được.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại Diễn đàn cấp cao về công nghiệp 4.0 - Industry 4.0 Summit 2019. Ảnh: VGP/Đình Nam

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đưa ra nhận xét này tại phiên toàn thể Diễn đàn cấp cao về công nghiệp 4.0 - Industry 4.0 Summit 2019 với chủ đề “Chủ trương và chương trình hành động của Việt Nam chủ động tham gia cách mạng công nghiệp 4.0”, sáng 3/10. 

Phiên họp tập trung giới thiệu về quá trình xây dựng và những nội dung cơ bản của Nghị quyết của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” và các báo cáo chính xoay quanh các vấn đề về chiến lược quốc gia cách mạng công nghiệp 4.0 của Việt Nam, về chuyển đổi số quốc gia hướng tới nền kinh tế số và xã hội số. 

Phó Thủ tướng cho rằng các ý kiến trao đổi tại phiên họp rất toàn diện, tập trung vào những kế hoạch, hành động cụ thể để tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0. 

Theo Phó Thủ tướng, mặc dù Bộ Chính trị mới ban hành nghị quyết về chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhưng nhận thức cũng như hành động để tận dụng cơ hội của cuộc cách mạng này đã bắt đầu từ trước đó.

 Tại Diễn đàn Công nghiệp 4.0 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh yêu cầu tập trung đồng bộ nhiều giải pháp từ thể chế, hạ tầng đến nhân lực, khoa học, công nghệ để phát triển nền kinh tế số, nền sản xuất thông minh với tầm nhìn chiến lược nhưng hành động cụ thể, rất khẩn trương. Trong cuộc CMCN 4.0 vai trò chủ đạo và tiên phong là của doanh nghiệp.  Chúng ta cần chủ động ứng phó với những mặt tiêu cực của cuộc CMCN 4.0, trong đó lưu ý cơ chế quản lý rủi ro.

Phó Thủ tướng điểm lại “từ Diễn đàn năm ngoái đến năm nay, chúng ta đã có hành động, đi đúng hướng và đạt được những kết quả tích cực. Một số chỉ số liên quan trực tiếp đến chủ đề Diễn đàn năm nay như chỉ số đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam tăng 3 bậc, từ 45 lên 42. Chỉ số cung cấp dịch vụ công trực tuyến năm vừa qua tăng 15 bậc lên thứ 59. Thanh toán điện tử tăng 19,6% số lượng giao dịch, 26,6% giá trị, đặc biệt thanh toán qua di động tăng 104% số giao dịch và 155% giá trị. 

Chỉ số an toàn an ninh thông tin của Việt Nam tăng 50 bậc từ 100 lên 50. Giáo dục phổ thông xếp thứ 38. Việt Nam có 2 trường đại học vào tốp 1000 trường đại học hàng đầu thế giới. Nhiều trường đại học quy mô lớn, do tư nhân đầu tư phi lợi nhuận, các viện nghiên cứu tư nhân được thành lập. Nhiều địa phương đã có những bước tiến lớn trong xây dựng đô thị thông minh”.

Ảnh: VGP/Đình Nam

Trong thời gian tới, Phó Thủ tướng khẳng định phải tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh theo Nghị quyết 02 của Chính phủ. Nghị quyết 02 tích hợp các tiêu chí đánh giá, bảng xếp hạng của các tổ chức quốc tế, rất phù hợp với yêu cầu của cuộc CMCN 4.0. Các bộ ngành, địa phương, cần tiếp tục thực hiện quyết liệt hơn, thiết thực hơn. 

Đề cập đến yếu tố khó lường của cuộc CMCN 4.0, Phó Thủ tướng nhấn mạnh vai trò quan trọng của con người để sẵn sàng tận dụng thời cơ, tránh được rủi ro, có các giải pháp linh hoạt thích ứng với những thay đổi mà ngày hôm nay chưa dự báo được. 

Ngay trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo chuẩn bị cho CMCN 4.0, chúng ta không chỉ đưa các môn học liên quan nhiều đến khoa học, công nghệ mà cần bắt đầu từ những điểm căn bản nhất, thậm chí tưởng rằng không liên quan đến CMCN 4.0, đó là giáo dục cho người dân ở khu vực miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số.

“Nếu chúng ta không quyết liệt thì tỷ lệ tái mù chữ, trẻ em bỏ học, người lớn không được đào tạo căn bản về nghề nghiệp ở khu vực miền núi sẽ ngày càng tăng. Đây là điểm phải được nhận diện và giải quyết. Bản chất của cuộc CMCN 4.0 là không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng lưu ý phải tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tự chủ đại học nhằm xây dựng môi trường nghiên cứu, học thuật, sáng tạo để đại học không chỉ là nơi truyền thụ kiến thức, mà còn là nơi sáng tạo ra tri thức mới. Qua đó, đóng góp mạnh mẽ, hiệu quả vào hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia

“Một đặc trưng của cuộc CMCN 4.0 là kết nối, hợp tác. Vì vậy phải tăng cường hợp tác giữa các cơ quan Chính phủ với nhau; giữa Chính phủ với doanh nghiệp, người dân; giữa người dân với nhau; giữa trong nước với ngoài nước. Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc cách mạng này. Chúng ta không chỉ giải quyết những ‘bài toán’ của riêng mình mà còn có trách nhiệm trước những vấn đề chung của thế giới”, Phó Thủ tướng nói.

Nguồn: Đình Nam/chinhphu.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Thời sự ICT