
Tri thức chuyên ngành
Nền kinh tế số là cách để vượt qua sự gián đoạn do COVID-19
Submitted by nlphuong on Sat, 31/07/2021 - 09:15Những diễn giả tham gia hội thảo trực tuyến với chủ đề “Thúc đẩy nền kinh tế số để hội nhập toàn diện ở châu Á - Thái Bình Dương - Kết nối các ngành kỹ thuật số trong đại dịch” tổ chức ngày 29/7 đã kêu gọi tận dụng các cơ hội kỹ thuật số để xây dựng một hệ sinh thái hòa nhập và thúc đẩy hội nhập khu vực, là điều đặc biệt quan trọng trong khi vẫn chống lại đại dịch.
![]() |
Kinh tế số thúc đẩy khả năng phục hồi trong bối cảnh đại dịch
Nền kinh tế số ngày càng được coi là cách để vượt qua sự gián đoạn do COVID-19 gây ra. Các đại diện và các nhà lãnh đạo tư tưởng từ các lĩnh vực chính phủ, ngành và học thuật trên khắp Châu Á - Thái Bình Dương đã tham gia một buổi thảo luận trực tuyến do Huawei tổ chức để khám phá nhiều khía cạnh của nền kinh tế số, từ quan điểm thị trường, công nghệ, tính toàn diện và tính bền vững.
Đại sứ Indonesia tại Trung Quốc Djauhari Oratmangun đã chỉ ra trong bài phát biểu của mình rằng một nền kinh tế số mới đang định hình khu vực. “Chuyển đổi số đã được đẩy nhanh đáng kể trong thời kỳ đại dịch, đẩy nhanh các thay đổi trong kinh doanh. Indonesia nỗ lực mở rộng nền kinh tế số để phục hồi xã hội và chuyển đổi số. Tôi rất muốn chứng kiến cách Huawei gia tăng giá trị khi đối mặt với quá trình số hóa đang phát triển nhanh chóng,” ngài Đại sứ nói.
Dựa trên kiến thức kỹ thuật số và cơ sở hạ tầng, nền kinh tế số đã hỗ trợ tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP khu vực và thúc đẩy khả năng phục hồi trong bối cảnh đại dịch. ASEAN dự báo nền kinh tế số sẽ đóng góp 1.000 tỷ USD vào GDP khu vực theo năm.
Các quốc gia trong khu vực đã đưa ra các lộ trình định hướng tương lai về việc gỡ bỏ các rào cản thương mại, cải thiện phạm vi phủ sóng kỹ thuật số và đảm bảo khả năng tiếp cận phổ biến đối với các dịch vụ số để tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai nền kinh tế số.
“Sự phát triển của hệ sinh thái kinh tế số là một quá trình có sự tham gia tích cực của nhiều bên liên quan, bao gồm cả những người từ các khu vực tư nhân. Chúng tôi hoan nghênh sáng kiến của Huawei trong việc tổ chức cuộc đối thoại này để vận động thiết thực cho quá trình này ”, TS. Lê Quang Lan, Trợ lý Giám đốc Bộ phận CNTT và Du lịch, Ban Thư ký ASEAN cho biết khi đề cập đến việc tạo điều kiện cho một hệ sinh thái kinh tế số để đẩy nhanh quá trình phục hồi xã hội và hội nhập khu vực.
Là một phần của hệ sinh thái, Huawei cam kết thực hiện Kế hoạch tổng thể kỹ thuật số của ASEAN 2025 trong ba lĩnh vực chính, đó là kết nối ICT, trao quyền cho nhân tài và ươm tạo hệ sinh thái, theo Jay Chen, Phó Chủ tịch Huawei Châu Á - Thái Bình Dương. Nền kinh tế số đang hình thành trong khu vực sẽ giải quyết khả năng tiếp cận toàn diện với dịch vụ số, bối cảnh tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quy mô khởi nghiệp và một nền kinh tế tuần hoàn, bền vững.
Số hóa không chỉ là về tiến bộ công nghệ
TS. Tan Khee Giap, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Singapore về Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (SINCPEC), nhấn mạnh tầm quan trọng của những cân nhắc xã hội về số hóa nền kinh tế trong cuộc thảo luận giữa các chuyên gia.
“Số hóa không chỉ là về tiến bộ công nghệ, mà việc trao quyền về chất lượng của số hóa cho công chúng nói chung là điều tối quan trọng nếu muốn đạt được sự gắn kết rộng rãi. Vai trò của chính phủ là cung cấp năng lực kỹ thuật số như một hàng hóa công cộng, nó có thể được bổ sung bởi các công ty ICT khu vực tư nhân như Huawei với kết nối chất lượng.”
TS. Alvin P. Ang từ Đại học Ateneo de Manila đồng ý với cách tiếp cận cởi mở về nâng cao kỹ năng cho công chúng với kiến thức kỹ thuật số. “Hệ thống giáo dục phải đặt trong bối cảnh các yếu tố nền tảng của số hóa. Dù là ở trình độ học vấn cơ bản hay ở lứa tuổi trung niên hay những người đã đi làm, hãy cố gắng học hỏi và nâng cấp bản thân. Chúng ta phải đầu tư vào họ và tạo cơ hội cho các vùng nông thôn của chúng ta bắt kịp bằng cách ít nhất cung cấp cho họ những kỹ năng cơ bản để vượt qua xa lộ công nghệ,” ông Alvin nhấn mạnh.
Huawei từ lâu đã nhận ra tầm quan trọng của việc cung cấp cho tất cả mọi người các kỹ năng kỹ thuật số và không để ai bị bỏ lại phía sau khi các nền kinh tế số hóa. Trong những năm qua, Huawei đã triển khai nhiều chương trình để đào tạo hơn 100.000 người có năng lực ICT trong khu vực với sự hợp tác của các chính phủ, trường đại học và các tổ chức phi chính phủ.
Chia sẻ về quan điểm kinh doanh, GS. Jose Decolongon, COO & Giám đốc điều hành Corporate Foresight, Embiggen Consulting Philippines, cho biết: “Các doanh nghiệp (DN) siêu nhỏ, nhỏ và vừa cần hiểu biết về số hóa để nhận thức các cơ hội khi khám phá khía cạnh kỹ thuật số của DN. Những thách thức mà các DN đối mặt cũng giống như như các tổ chức lớn khác. Nó liên quan đến phạm vi phủ sóng và tốc độ của cơ sở hạ tầng số. Đây là nơi mà các công ty viễn thông như Huawei và các công ty địa phương của chúng ta có thể đóng một vai trò quan trọng."
Đối với một hệ sinh thái kinh tế số bền vững, các công nghệ mới như 5G, Internet vạn vật (Internet of Things) và Đám mây (Cloud) mang lại nhiều hứa hẹn về việc tăng cường khử carbon và nền kinh tế tuần hoàn. Tại Châu Á - Thái Bình Dương, Huawei đã tăng cường đầu tư vào các giải pháp xanh bền vững, tận dụng sản xuất điện sạch, giao thông vận tải điện và lưu trữ năng lượng thông minh.
Xu hướng bền vững này đang được nắm bắt tại Việt Nam. “Việt Nam đang ở giai đoạn bước ngoặt để bắt kịp cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nền kinh tế của chúng tôi rất cởi mở, tập trung hơn vào đổi mới sáng tạo và bền vững. Và chuyển đổi số ở Việt Nam gắn với hội nhập toàn diện ở ASEAN và Châu Á - Thái Bình Dương”, ông Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh nhấn mạnh.
“Năm năm tới có thể chứng kiến khu vực ASEAN đạt được những bước tiến khổng lồ hướng tới trở thành một xã hội kỹ thuật số và sự chuyển đổi sẽ cho phép các quốc gia thành viên phục hồi nhanh hơn sau đại dịch. Huawei, cùng với các đối tác ASEAN, cam kết thúc đẩy Kế hoạch Tổng thể Kỹ thuật số ASEAN 2025 và tạo ra giá trị mới cho cộng đồng kỹ thuật số và khối kinh tế hàng đầu”, ông Jay cho biết.
ND
Mobile Money hướng tới bình dân hoá giữa bối cảnh Covid-19
Submitted by nlphuong on Tue, 27/07/2021 - 12:00Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, việc đẩy nhanh tốc độ triển khai Mobile Money để hỗ trợ cho phổ cập thanh toán không dùng tiền mặt đang được Chính phủ đặt mức ưu tiên cao.
Sau quá trình thẩm định và yêu cầu bổ sung hồ sơ, mới đây ngày 20/7/2021 Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã hoàn thành bổ sung và trình lại hồ sơ cho các cơ quan chức năng. Việc sớm đưa Mobile Money vào đời sống đang được kỳ vọng là giải pháp tích cực giúp thích ứng với tình hình dịch bệnh hiện nay tại Việt Nam.
![]() |
Mobile money được tích hợp vào VNPT Pay |
Quy trình thẩm định nghiêm ngặt
Chỉ với điện thoại di động, không cần tài khoản ngân hàng hoặc Internet, Mobile Money được kỳ vọng có thể trở thành công cụ hiệu quả giúp Chính phủ thúc đẩy phổ cập thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng chính bởi tính quan trọng và khả năng tác động tới đời sống được dự đoán là rất lớn của dịch vụ này, việc thẩm định hồ sơ đăng ký xin cấp phép Mobile Money của các doanh nghiệp (DN) được các cơ quan chức năng thực hiện rất thận trọng.
Cuối tháng 4/2021, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành hành Quyết định 316/QĐ-TTg phê duyệt thí điểm Mobile Money, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông chính thức ký quy chế phối hợp trong công tác quản lý nhà nước đối với việc thực hiện thí điểm dịch vụ Mobile Money. Do đây là dịch vụ mới tại Việt Nam nên để triển khai đảm bảo an toàn, hiệu quả, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều đơn vị chuyên môn nghiệp vụ của cả 3 cơ quan nói trên trong việc thẩm định, cấp phép, thanh tra, kiểm tra, giám sát theo đúng quy định tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Sau khi nộp hồ sơ lần 1, ba DN viễn thông là VNPT, Viettel và Mobifone đã được phản hồi, yêu cầu hoàn thiện thêm một số nội dung để trình Ngân hàng Nhà nước thẩm định lại. Tới hiện tại, VNPT là một trong những đơn vị đã hoàn thành nộp hồ sơ lần 2.
Chia sẻ về quá trình nộp đề án Mobile Money, ông Nguyễn Sơn Hải – Đại diện VNPT cho biết: “Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ và tuân thủ quy trình thẩm định nghiêm ngặt của Ngân hàng Nhà nước cũng như các Bộ, Ban, Ngành chức năng. Tuy chưa nhanh như mong đợi nhưng trên thực tế, các cơ quan chức năng đã chung tay, trực tiếp hoàn thiện cùng DN. Đây là việc cần thiết để Mobile Money khi đi vào thực tế có thể thuận lợi phát huy được những ưu thế của mình và giảm thiểu được những vấn đề phát sinh liên quan, qua đó đảm bảo quyền lợi và tính an toàn cho người dùng”.
Chuẩn bị kỹ lưỡng, sẵn sàng cho triển khai thực tế
Được biết, các DN viễn thông đã tiến hành chuẩn bị cho Mobile Money từ rất sớm. Trong suốt khoảng 2 năm trước khi Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định cho phép thí điểm Mobile Money, các DN VNPT, Viettel và Mobifone đã phối hợp cùng Cục Viễn thông (Bộ TT&TT) để chuẩn bị nội dungIồ sơ. Song song với đó là chuẩn bị sẵn sàng những phương án, điều kiện về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, công nghệ, nhân sự và các chính sách liên quan.
Trong Quý I/2021, VNPT đã triển khai thí điểm Mobile Money nội bộ với hơn 40.000 cán bộ, nhân viên của Tập đoàn trên toàn quốc. “Việc thí điểm nội bộ rất có ý nghĩa trong việc giúp chúng tôi diễn tập các kịch bản nghiệp vụ cũng như rà soát toàn trình và thử nghiệm mức độ thông suốt của hệ thống. Hiện tại, VNPT đã sẵn sàng để đưa Mobile Money ra thị trường chính thức, ngay khi được cấp phép” – Đại diện VNPT chia sẻ.
Có thể nói, sau quá trình làm việc tích cực và chuẩn bị kỹ lưỡng, hiện tại VNPT đã ở trạng thái sẵn sàng và đang rất trông đợi vào việc sớm có quyết định cấp phép triển khai Mobile Money từ Ngân hàng nhà nước.
Đẩy nhanh Mobile Money là nhu cầu cấp thiết nhằm thích ứng với dịch bệnh
Năm 2020, khi dịch Covid-19 có những dấu hiệu lan rộng, việc triển khai Mobile Money đã được xem là một nhu cầu cấp thiết cả trong ngắn hạn và dài hạn. Để giảm thiểu rủi ro lây lan dịch bệnh, Chính phủ nhiều nước đã nhanh chóng đưa ra các quyết sách nhằm hạn chế việc tiếp xúc và sử dùng tiền mặt. Tại Việt Nam, Chỉ thị 11 ngày 04/3/2020 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19 đã đưa ra nhiều chỉ đạo cụ thể, trong đó việc đẩy nhanh tiến độ triển khai thí điểm Mobile Money là một trong các nhiệm vụ trọng tâm.
Nhờ khả năng vận hành chỉ cần tới mạng viễn thông mà không phụ thuộc vào Internet hay tài khoản ngân hàng, Mobile Money không chỉ dễ dàng giúp thay thế tiền mặt trong các giao dịch nhỏ lẻ hàng ngày, mà còn là phương tiện phù hợp để Chính phủ giải ngân trực tiếp các khoản trợ cấp, hỗ trợ an sinh xã hội đến từng người dân thuộc nhóm yếu thế, chịu nhiều ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối tháng 4 năm nay so với cùng kỳ năm 2020, lượng giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt có tăng trưởng ấn tượng tại tất cả các kênh: Internet tăng 65,9%; điện thoại di động tăng 86,3%; QR code tăng 95,7%. Tại Việt Nam, tỷ lệ người dùng tài khoản ngân hàng chưa cao, nhưng mật độ thuê bao di động thì đạt trên 100%. Như vậy nếu được chính thức triển khai, Mobile Money sẽ là cú hích quan trọng đối với tốc độ tăng trưởng của thanh toán điện tử tại Việt Nam.
Với những lợi ích nêu trên, Mobile Money hứa hẹn một tương lai mà việc tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính được “bình dân hóa” và trở nên dễ dàng hơn rất nhiều, đặc biệt đối với cộng đồng khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đó là viễn cảnh gần mà tất cả Chính phủ, doanh nghiệp và người dân đang cùng kỳ vọng.
ND
Công nghệ ICT giúp tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải trong các ngành khác
Submitted by nlphuong on Sat, 17/07/2021 - 21:22Các công nghệ ICT là những động lực quan trọng trong việc tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải trong các ngành khác.
![]() |
Biến đổi khí hậu và các vấn đề môi trường đang trở thành thách thức toàn cầu. Mặc dù lượng khí thải carbon đã giảm trong năm qua do suy thoái kinh tế và tình trạng đóng cửa trên toàn thế giới, nhưng lượng khí thải đang nhanh chóng tăng trở lại khi các nền kinh tế mở cửa trở lại. Chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn và đạt được mục tiêu phát triển bền vững hiện là mục tiêu chung của tất cả các quốc gia.
Biến đổi khí hậu tiềm ẩn có tác động đáng kể đến khu vực với sáu trong số 20 quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới là các quốc gia thành viên ASEAN. ASEAN đã thực hiện các hành động để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu thông qua các hoạt động môi trường, kinh tế và xã hội khác nhau trong những năm qua. Điển hình như Thái Lan đã đặt mục tiêu đạt mức phát thải carbon cao nhất vào năm 2030 và sau đó đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2065.
Jeffery Liu, Chủ tịch Huawei Châu Á - Thái Bình Dương chia sẻ tại Diễn đàn trực tuyến Hợp tác và Phát triển Kinh tế ASEAN - Trung Quốc năm 2021 ngày 16/7 cho biết: “Trên toàn cầu, chúng ta cần có một cuộc cách mạng công nghiệp xanh với mục tiêu trung hòa carbon. Khi nền kinh tế số phát triển, việc tăng tốc giảm phát thải cũng có thể giúp các quốc gia quản lý rủi ro về các rào cản thương mại và đảm bảo các hiệp định thương mại tự do hơn”.
Các công nghệ ICT là những động lực quan trọng trong việc tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải trong các ngành khác. Ước tính rằng lượng phát thải carbon trong các ngành công nghiệp khác được hỗ trợ bởi công nghệ ICT sẽ giảm gấp 10 lần lượng carbon do chính ngành công nghiệp ICT thải ra.
“Huawei đã và đang tận dụng kinh nghiệm sâu rộng của mình trong lĩnh vực năng lượng số và lưu trữ năng lượng cũng như chuyên môn kỹ thuật về 5G, đám mây và các công nghệ đổi mới khác, để phát triển hoạt động kinh doanh năng lượng số và cung cấp các giải pháp năng lượng số cho các ngành khác nhau”, Chủ tịch Huawei Châu Á - Thái Bình Dương nhấn mạnh.
Để thúc đẩy năng lượng tái tạo, Huawei đã triển khai các giải pháp năng lượng số tại hơn 170 quốc gia và khu vực, phục vụ 1/3 dân số thế giới. Tính đến tháng 12 năm 2020, các giải pháp này đã tạo ra 325 tỷ kWh điện từ các nguồn tái tạo, và tiết kiệm tổng cộng 10 tỷ kWh điện. Những nỗ lực này đã giúp giảm 160 triệu tấn khí thải CO2.
Ví dụ, tại Singapore, Huawei FusionSolar Solution đã hỗ trợ Tập đoàn Sunseap, nhà cung cấp giải pháp năng lượng mặt trời, xây dựng một trong những trang trại mặt trời nổi ngoài khơi lớn nhất thế giới. Với 13.312 tấm pin mặt trời, 40 biến tần và hơn 30.000 phao nổi, nhà máy năng lượng mặt trời rộng 5 ha trên biển này ước tính sản xuất tới 6.022.500 kWh năng lượng mỗi năm, cung cấp đủ năng lượng cho 1.250 căn hộ nhà ở công cộng 4 phòng trên đảo và bù đắp ước tính khoảng 4.258 tấn carbon dioxide.
Ông Jeffery Liu cho biết. “Chúng tôi sẽ hợp tác với ASEAN để giảm thiểu lượng khí thải carbon bằng cách tận dụng sản xuất điện sạch, giao thông vận tải điện và lưu trữ năng lượng thông minh, vì một xã hội carbon thấp tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường".
ND
Khám phá các hệ thống hạ tầng và giao thông đô thị trong tương lai
Submitted by nlphuong on Sat, 17/07/2021 - 08:03Dassault Systèmes khởi động Chương trình các thành phố tương lai bền vững, diễn ra từ ngày 19/7 đến ngày 1/10/2021. Chương trình sẽ tập trung vào 3 nội dung: Thành phố bền vững, Giao thông - Vận chuyển, và Công trình thông minh.
![]() |
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) dự báo đến năm 2050 70% dân số toàn cầu, tức 6,4 tỉ người, sẽ trở thành những công dân thành thị.
Đối với các nhà quy hoạch đô thị, thách thức lớn nhất dường như nằm ở việc cung cấp đầy đủ nhà ở và cơ sở hạ tầng trong khi dân số ngày càng tăng nhanh, đồng thời đảm bảo một tương lai bền vững và linh hoạt. Các trung tâm thành phố sẽ là trọng điểm của đổi mới và kiến thức để thúc đẩy các hoạt động kinh tế. Tuy vậy, nếu không được quy hoạch và quản lý thích hợp, các thành phố có thể góp phần gây ô nhiễm và suy thoái môi trường trầm trọng.
Để chuyển đổi đô thị hiệu quả đòi hỏi sự cải cách ở những khía cạnh sau:
- Thành phố bền vững: Các giải pháp đô thị bền vững bao gồm việc sử dụng các giải pháp năng lượng hiệu quả và lưới điện bền vững kết hợp giữa năng lượng tái tạo và lưu trữ pin dạng lưới
- Giao thông và vận chuyển: Mô hình vận chuyển hành khách kết hợp và cơ sở hạ tầng tốt hơn, bao gồm việc cải tạo dịch vụ hậu cần của thành phố và dịch vụ giao hàng chặng cuối
- Công trình thông minh: Tận dụng những đổi mới để làm các thành phố trở nên “thông minh”, từ đó tạo ra môi trường đáng sống và bền vững hơn
Để kỷ niệm ngày Dân số Thế giới của Liên Hiệp Quốc vào tháng này, Dassault Systèmes mong giới thiệu tìm hiểu cách thức các thành phố, chính phủ và doanh nghiệp có thể hợp tác để tận dụng những cộng nghệ hiện đại nhằm tạo ra cơ sở hạ tầng đô thị và hệ thống giao thông bền vững và thân thiện với môi trường.
Chương trình các Thành phố Tương lai Bền vững là một series trực tuyến tập trung vào những thách thức của việc chuyển đổi đô thị ngày nay và những giải pháp có thể giúp các thành phố trở nên đáng sống và linh hoạt trong tương lai. Tập trung vào ba khía cạnh thành phố bền vững, giao thông - vận chuyển, và công trình thông minh, chương trình 10 tập sẽ giúp người xem có cái nhìn tổng quan về cách các thành phố có thể điều phối những dự án chuyển đổi đô thị thế hệ mới trong kỷ nguyên số ngày nay.
Series đã khởi chiếu từ ngày 15/7/2021 với tập đặc biệt Trò chuyện cùng Người Trong Ngành (Insider Industry) với Dassault Systèmes có tên Các Thành phố Bền vững và Hạ tầng linh hoạt trong Kỷ Nguyên Số. Trong số này, ông Remi Dornier, Phó Chủ tịch, Xây dựng, Đô thị và Đất đai và ông Guillaume Gerodeau, Phó Chủ tịch, Ngành Giao thông và Vận chuyển, Châu Á sẽ cùng thảo luận với những nhà quy hoạch và quản lý thành phố để có thể tận dụng công nghệ số và tổng hợp thông tin chi tiết từ dữ liệu để đưa ra những quyết định chính xác trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng bền vững và linh hoạt.
Chương trình các thành phố tương lai bền vững xem chi biết tại: https://events.3ds.com/future-sustainable-cities-program-2021./.
Kết nối trường học có khả năng thúc đẩy GDP tăng trưởng tới 20%
Submitted by nlphuong on Tue, 13/07/2021 - 10:46Nâng cao sức mạnh cho trẻ em và các cộng đồng thông qua kết nối trường học và tạo điều kiện tiếp cận cơ hội học tập số chất lượng cao sẽ giúp đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, đồng thời là chất xúc tác mang tới thành công về mặt kinh tế cho cá nhân, khu vực và quốc gia.
![]() |
Ảnh: hourofcode.vn |
Đưa Internet tới trường học giúp tăng trưởng GDP
Báo cáo của Economist Intelligence Unit (EIU), được Ericsson tài trợ thực hiện, đã chỉ ra rằng các quốc gia với mức độ kết nối băng rộng thấp có tiềm năng tăng tới 20% GDP nhờ đưa Internet tới trường học.
Đại dịch đã gây tác động nặng nề tới các hệ thống giáo dục hiện tại trên thế giới, với hơn 190 quốc gia phải đóng cửa trường học trên toàn quốc. Trong giai đoạn này, kết nối tại nhà đã đảm bảo cho ít nhất 100 triệu trong số 1,6 tỷ học sinh buộc phải nghỉ học trên toàn thế giới được tiếp tục học tập. Việc đóng cửa tạm thời trường học đang dần thay đổi nhận thức về nhu cầu kết nối trường học để hỗ trợ học tập và rút ngắn khoảng cách số cũng như khoảng cách về giáo dục.
Theo báo cáo của EIU, kết nối trường học có thể cải thiện kết quả học tập và củng cố cơ hội sự nghiệp cho trẻ em, giúp đẩy mạnh hoạt động kinh tế và tăng trưởng cộng đồng như thế nào. Các phát hiện của báo cáo này còn cho thấy những lợi ích cho cá nhân trẻ em có hiệu ứng dây chuyền, mang lại thu nhập cao hơn, sức khỏe tốt hơn và cải thiện toàn diện thể trạng. Những lợi ích này không chỉ dành cho trẻ em, mà còn được mở rộng cho phát triển cộng đồng và tăng trưởng kinh tế.
Những lợi ích khác của kết nối trường học được đưa ra trong báo cáo bao gồm: Tăng chất lượng giáo dục; Tiếp cận tốt hơn các lĩnh vực mới như chuỗi khối, dữ liệu lớn, máy học và trí tuệ nhân tạo; Tạo ra lực lượng lao động có năng suất cao hơn, có khả năng đổi mới sáng tạo và đưa ra những ý tưởng đột phá; Tạo công ăn việc làm; Phát triển cộng đồng; Thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Lực lượng lao động được đào tạo tốt, có trình độ cao có thể tham gia tốt hơn vào các hoạt động giúp tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm như đổi mới sáng tạo và nuôi dưỡng các ý tưởng đột phá. Khả năng tiếp cận Internet ở trường học có thể mang lại cơ hội công bằng hơn cho học sinh bằng cách cải thiện việc học tập và nâng cao kỹ năng. Nhờ đó, học sinh có cơ hội tiếp cận được với những định hướng nghề nghiệp mới cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống, mang lại nhiều lợi ích cho cá nhân và xã hội.
Các Chỉ số Cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới (2017) và Chỉ số nguồn vốn con người của Ngân hàng thế giới (2017) đều cho thấy có mối tương quan rõ ràng giữa khả năng tiếp cận Internet và chất lượng giáo dục. Phân tích của EIU cho thấy rằng nếu kết nối trường học ở một quốc gia tăng 10% thì GDP trên đầu người của quốc gia đó có thể tăng 1,1%.
Mặc dù mật độ thuê bao Internet toàn cầu trong những năm qua đã tăng đáng kể từ 17% năm 2005 lên hơn 50% năm 2021, nhưng con số này vẫn còn khá khiêm tốn và phân bổ không đồng đều giữa các khu vực trên thế giới. Theo phát hiện của báo cáo, tại Niger, một quốc gia Tây Phi, nếu mức độ kết nối của các trường học được nâng lên ngang mức độ kết nối của Phần Lan thì GDP trên đầu người có thể tăng gần 20% - từ giá trị cơ bản 550 USD lên 660 USD vào năm 2025.
4 khuyến nghị hành động
Để nâng cao sức mạnh cho trẻ em và các cộng đồng thông qua kết nối trường học và tạo điều kiện tiếp cận cơ hội học tập số chất lượng cao sẽ giúp đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, báo cáo đề cập 4 hành động quan trọng để tạo ra thay đổi:
Tăng cường cộng tác: Cần có một chiến lược hợp tác công tư toàn diện để điều phối các hoạt động với các bên liên quan để có thể vượt qua những rào cản đối với kết nối trường học.
Tăng cường khả năng tiếp cận và giảm chi phí: Điểm xuất phát là xây dựng cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện truy cập Internet. Chất lượng kết nối và chi phí cũng là các nhân tố quan trọng.
Đưa Internet và các công cụ số vào giáo dục: Khi trường học đã được kết nối, chương trình cần có những thay đổi tương ứng. Giáo viên cần được đào tạo ứng dụng công nghệ vào giảng dạy hàng ngày.
Bảo vệ trẻ em trên mạng: Kết nối trong trường học tạo ra cơ hội cho trẻ em. Cần có những bước đi bổ sung để bảo đảm môi trường học tập trực tuyến lành mạnh và an toàn. Cần quản lý một cách thích hợp việc sử dụng Internet để bảo đảm an ninh và an toàn.
![]() |
Ảnh: hourofcode.vn |
Báo cáo cũng khuyến nghị các nhà lãnh đạo trong khu vực công, tư nhân và các tổ chức phi chính phủ (NGO) trên toàn thế giới chung tay hợp lực để hiện thực hóa trên quy mô toàn cầu việc đưa kết nối Internet tới cho trẻ em đang ở lứa tuổi đến trường, nhằm tạo ra tác động đáng kể tới việc rút ngắn khoảng cách số.
Vì vậy, Ericsson kêu gọi các nhà lãnh đạo này cùng tham gia hỗ trợ hoạt động của Giga (một dự án kết nối trường học do UNICEF và Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) tài trợ) thông qua các hành động như: hỗ trợ tài chính, chia sẻ dữ liệu, kinh nghiệm công nghệ và đề xuất các mô hình kinh doanh bền vững cho kết nối. Cam kết của Ericsson được thể hiện qua hợp đồng hợp tác kéo dài 3 năm với UNICEF để trợ giúp nghiên cứu lập bản đồ về hiện trạng khoảng trống về kết nối ở 35 quốc gia.
Báo cáo cũng nhấn mạnh tính khả thi của mục tiêu đầy tham vọng của dự án Giga: Kết nối tất cả trường học và cộng đồng lân cận vào năm 2030.
Bà Heather Johnson, Phó Chủ tịch phụ trách Phát triển bền vững và Trách nhiệm của Ericsson cho biết: "Khi dự án Giga được công bố, ngay lập tức chúng tôi hiểu được tác động tích cực mà nó có thể đem lại - thu hẹp khoảng cách số giữa và bên trong các quốc gia, cho trẻ em trên toàn thế giới cơ hội có một tương lai tươi sáng và hạnh phúc".
Bà cho biết thêm: "Báo cáo này còn chỉ ra rằng quan hệ hợp tác giữa các nhà lãnh đạo kinh doanh, các nhà lãnh đạo trong khu vực công và các tổ chức phi chính phủ NGO có thể là một biện pháp hiệu quả để giải quyết vấn đề này và cải thiện đáng kể cuộc sống người dân. Mỗi chủ thể trong những khu vực này, dù nhỏ hay lớn, đều có thể tạo ra sự khác biệt. Chúng tôi khuyến khích các bên liên quan đọc bản báo cáo này, nhưng quan trọng hơn là hãy tham gia vào dự án Giga để giúp đạt được mục tiêu quan trọng này".
Bà Charlotte Petri-Gornitzka, Phó Giám đốc điều hành, phụ trách Quan hệ đối tác của UNICEF, nhấn mạnh: "Chúng tôi cùng nhau hợp tác lập bản đồ các trường học trên toàn thế giới để xác định các khoảng trống về kết nối trong cộng đồng. Việc cộng tác liên khu vực là điều kiện quan trọng để có thể kết nối trường học và cung cấp học tập kỹ thuật số chất lượng cao, mang đến cho tất cả thanh thiếu niên trên thế giới cơ hội đón đầu một tương lai tươi đẹp hơn./.
Nguồn: ictvietnam.vn
Ứng dụng hẹn hò 2021: An toàn hơn về kỹ thuật nhưng vẫn tồn tại các mối đe dọa
Submitted by nlphuong on Thu, 01/07/2021 - 07:45Để tìm hiểu tác động của xu hướng này lên bảo mật, các chuyên gia tại Kaspersky đã thực hiện một nghiên cứu chuyên sâu về 9 ứng dụng hẹn hò phổ biến để đánh giá mức độ an toàn của các ứng dụng này.
So sánh với cùng nghiên cứu năm 2017, kết quả nghiên cứu lần này cho thấy về mặt kỹ thuật, các ứng dụng hẹn hò đã trở nên an toàn hơn, đặc biệt đối với quá trình truyền dữ liệu. Tuy nhiên, các ứng dụng này vẫn tiềm ẩn rủi ro đáng kể về tiết lộ quá nhiều thông tin cá nhân về người dùng – khiến ứng dụng dễ bị tấn công bởi các mối đe dọa như cyberstalking (theo dõi trên mạng) và doxing (sử dụng thông tin trên mạng để chống lại người dùng).
Việc hẹn hò tiệc tùng ngoài đời thực dường như đã trở thành chuyện quá khứ khi hẹn hò trực tuyến đang bùng nổ và không chỉ bởi lý do đại dịch. Tinder đạt kỷ lục 3 tỷ lượt “quẹt” chỉ trong một ngày vào tháng 3 năm 2020, trong khi lượt truy cập OkCupid đã tăng mạnh tới 700% trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 5 cùng năm. Trong bối cảnh các ứng dụng hẹn hò ngày càng trở nên phổ biến, Kaspersky quyết định tiến hành lại nghiên cứu đã được thực hiện năm 2017 để tìm hiểu về những thay đổi trong việc đảm bảo bảo mật cho những ứng dụng này.
Để thực hiện nghiên cứu, Kaspersky đã phân tích 9 ứng dụng hẹn hò phổ biến và được người dùng trên toàn cầu đánh giá cao bao gồm: Tinder, Bumble, OkCupid, Mamba, Pure, Feeld, Her, Happn và Badoo. Các phát hiện của nghiên cứu cho thấy, so với năm 2017, về mặt kỹ thuật, các ứng dụng hẹn hò đã trở nên an toàn hơn, nhưng vẫn còn tồn tại các rủi ro lớn về quyền riêng tư.
![]() |
Vào năm 2017, dữ liệu gửi đi từ 4 trong số 9 ứng dụng được nghiên cứu có thể bị lấy trộm, và nhiều ứng dụng sử dụng giao thức HTTP không được mã hóa. Tuy nhiên, vào năm 2021, tình hình đã được cải thiện đáng kể. Không có ứng dụng nào trong số các ứng dụng được nghiên cứu còn sử dụng HTTP và các ứng dụng không gửi dữ liệu qua các giao thức không an toàn.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều lo ngại về quyền riêng tư đối với với các ứng dụng hẹn hò. Hầu hết các ứng dụng hẹn hò đều cho phép người dùng đăng ký tài khoản bằng một trong các trang mạng xã hội của họ (Instagram, Facebook, Spotify, v.v…). Nếu người dùng đăng ký sử dụng ứng dụng hẹn hò bằng dịch vụ mạng xã hội, hồ sơ ứng dụng hẹn hò của họ sẽ tự động được điền thông tin từ trang mạng xã hội, chẳng hạn như ảnh và thông tin trong hồ sơ. Người dùng cũng được mời chia sẻ các thông tin như nơi làm việc hoặc học tập. Tất cả dữ liệu nói trên giúp dễ dàng tìm thấy các tài khoản mạng xã hội của người dùng ứng dụng hẹn hò, cũng như nhiều thông tin cá nhân khác, tùy thuộc vào cài đặt quyền riêng tư của người dùng cho các tài khoản mạng xã hội đó.
Ngoài ra, các ứng dụng như Happn, Her, Bumble và Tinder còn bắt buộc người dùng chia sẻ vị trí. Một số ứng dụng, như Mamba, chia sẻ khoảng cách của người dùng chính xác đến từng mét. Happn có một chức năng bổ sung cho phép người dùng xem các đối tượng đã “match” của họ đã tình cờ đến chung một địa điểm bao nhiêu lần và ở đâu.
Quyền truy cập vào dữ liệu như vị trí, nơi làm việc, tên, thông tin liên hệ của người dùng, v.v…, khiến họ dễ bị tấn công mạng hoặc thậm chí theo dõi trực tiếp, cũng như doxing (thông tin cá nhân trước đây được công khai nhằm mục đích gây xấu hổ hoặc làm tổn hại cho nạn nhân). Mamba là ứng dụng duy nhất cho phép người dùng làm mờ ảnh của họ miễn phí, và Pure là ứng dụng duy nhất cấm người dùng chụp ảnh màn hình cuộc trò chuyện. Vì vậy, các cuộc trò chuyện và ảnh của người dùng có thể bị chia sẻ (có khả năng nhằm mục đích tống tiền hoặc lừa gạt) mà không được họ cho phép.
Tuy nhiên, nhiều ứng dụng đã và đang thêm các phiên bản trả phí bổ sung thêm các lựa chọn tính năng có thể tăng cường bảo mật cho người dùng. Ví dụ: trong các phiên bản trả phí của Tinder và Bumble, bạn có thể lựa chọn để vị trí của mình hiển thị như một địa danh. Vì vị trí được hiển thị như một địa danh thay vì khoảng cách, nên việc xác định vị trí chính xác của người dùng sẽ khó khăn hơn nhiều. Phiên bản trả phí của một số ứng dụng, chẳng hạn như Happn, cung cấp cho người dùng “chế độ ẩn danh”, theo đó người dùng có thể ẩn hồ sơ của họ khỏi những người chưa được “quẹt phải” và người lạ.
Tatyana Shishkova, chuyên gia bảo mật tại Kaspersky, nhận định: “Các ứng dụng này đang nỗ lực để đảm bảo an toàn cho dữ liệu, và với các phiên bản trả phí của nhiều ứng dụng, người dùng có thể tự xác định vị trí của mình bằng phương pháp thủ công hoặc làm mờ ảnh. Hy vọng rằng, trong tương lai, các tính năng tùy chọn này sẽ được cung cấp miễn phí trong tất cả các ứng dụng. Cách tốt nhất để người dùng giữ an toàn là cẩn thận khi chia sẻ dữ liệu về bản thân, trên hồ sơ hẹn hò và cũng như trong các cuộc trò chuyện.”
Kaspersky có một số dự đoán, cũng như mong muốn, về các ứng dụng hẹn hò trong tương lai, đặc biệt là về các tính năng bảo mật của các ứng dụng này, chẳng hạn như sử dụng AI để bảo vệ người dùng khỏi gian lận và tạo tài khoản xác thực. Bạn có thể tìm hiểu những dự đoán này và nhiều dự đoán khác về tương lai của hẹn hò và tình yêu, cũng như gửi những dự đoán của riêng bạn thông qua Dự án Earth 2050.
Để đảm bảo an toàn khi sử dụng ứng dụng hẹn hò, các chuyên gia khuyến nghị: Không chia sẻ quá nhiều thông tin cá nhân (họ tên, nơi làm việc, ảnh chụp với bạn bè, quan điểm chính trị, v.v...) trong hồ sơ; Không gắn các tài khoản mạng xã hội khác với hồ sơ hẹn hò. Nếu có thể, hãy lựa chọn vị trí theo cách thủ công, sử dụng xác thực hai yếu tố, Xóa hoặc ẩn hồ sơ khi không còn sử dụng ứng dụng.../.
Đổi mới sáng tạo 5G đang giúp các nhà mạng thành công trong kinh doanh
Submitted by nlphuong on Wed, 30/06/2021 - 21:19Trong khuôn khổ Triển lãm MWC Barcelona 2021, Giám đốc điều hành kiêm Chủ tịch Bộ phận kinh doanh nhà mạng Ryan Ding của Huawei đã có bài phát biểu quan trọng với nội dung: Đổi mới sáng tạo: Thắp sáng tương lai.
![]() |
Trong bài phát biểu quan trọng của mình, Ding nói rằng đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực ICT đang trở thành động lực chính của nền kinh tế toàn cầu và giá trị của nó đang vượt ra ngoài ngành viễn thông. Đặc biệt, sự đổi mới sáng tạo đang diễn ra đối với mạng 5G sẽ mang lại nhiều giá trị hơn cho các nhà mạng, ngành công nghiệp ICT và nền kinh tế toàn cầu, đồng thời sẽ thắp sáng tương lai của mọi ngành.
Hơn cả viễn thông: Đổi mới sáng tạo trong ngành ICT đang trở thành động lực kinh tế quan trọng
Ding nói, đại dịch đã tạo ra một khái niệm bình thường mới, trong đó nền kinh tế số là động lực cho nền kinh tế toàn cầu. Cơ sở hạ tầng ICT, với tư cách là nền tảng của nền kinh tế kỹ thuật số, ngày càng đóng vai trò quan trọng. Ding cho rằng giá trị của ICT hiện nay đang vượt qua ngành công nghiệp viễn thông và có những tác động mang tính chuyển đổi đối với nền kinh tế toàn cầu nói chung.
Ở các quốc gia nơi 5G đang phát triển nhanh hơn, các nhà mạng đã ghi nhận tăng trưởng doanh thu nhanh hơn và những quốc gia này cũng có xu hướng có cơ sở hạ tầng kỹ thuật số tốt hơn về tổng thể. Lấy Trung Quốc làm ví dụ, trong vòng chưa đầy 18 tháng, hơn 820.000 trạm gốc 5G đã được triển khai và các nhà mạng Trung Quốc đã đạt doanh thu tăng 6,5% và lợi nhuận ròng tăng 5,6% trong quý đầu năm nay. Sự phát triển nhanh chóng của cơ sở hạ tầng kỹ thuật số do 5G thúc đẩy sẽ bổ sung 1,9 nghìn tỷ EUR cho nền kinh tế Trung Quốc trong 5 năm tới. Những câu chuyện tương tự cũng đang diễn ra ở Hàn Quốc và châu Âu
Hơn cả kết nối: Đổi mới sáng tạo 5G đang giúp các nhà mạng thành công trong kinh doanh
Vì cơ sở hạ tầng ICT là nền tảng của nền kinh tế số trong kỷ nguyên 5G, nên các nhà mạng đang đóng một vai trò quan trọng hơn so với trước đây.
Ding cho rằng, "Hiện tại, mục tiêu chính của các nhà mạng đối với 5G là đạt được thành công trong kinh doanh ở ba thị trường chính - người tiêu dùng, hộ gia đình và ngành công nghiệp - thông qua đổi mới sáng tạo trong triển khai mạng, phát triển thị trường và tối ưu hóa hoạt động."
"Trong thị trường người tiêu dùng, 5G không chỉ có nghĩa là tốc độ nhanh hơn mà còn mang lại trải nghiệm mới và giá trị mới. Một số nhà mạng đã đạt được thành công kinh doanh ban đầu."
Theo Ding, có ba bước mà một nhà mạng có thể thực hiện để thành công trên thị trường 5G với người tiêu dùng cá nhân (5GtoC). Đầu tiên là tăng tốc độ triển khai 5G, với việc lập kế hoạch và đầu tư mạng có mục tiêu dựa trên những hiểu biết chính xác về các khu vực có giá trị cao, các kịch bản chính và người dùng tiềm năng. Bước thứ hai là tăng tốc quá trình chuyển sang 5G của người dùng và bước thứ ba là tạo ra các mô hình định giá linh hoạt, định hướng giá trị.
Ngày nay, 5G đã được ứng dụng trong hơn 1.000 dự án trong hơn 20 ngành công nghiệp bao gồm thép và khai thác mỏ, cho phép sản xuất an toàn hơn và hiệu quả hơn. Các nhà mạng Trung Quốc đã có những bước phát triển vượt bậc và đang bước vào giai đoạn gặt hái những thành công ban đầu và nhân rộng chúng trên quy mô lớn.
“Chúng tôi đã học được kinh nghiệm từ các nhà mạng Trung Quốc rằng sự thành công của 5G đối với doanh nghiệp (5GtoB) phụ thuộc vào ba yếu tố”, Ding nói. "Đầu tiên, chọn các ngành phù hợp. Các nhà mạng nên chọn các ngành mục tiêu bằng cách xem xét 4 yếu tố: nhu cầu, khả năng chi trả, khả năng tái tạo và tính khả thi về kỹ thuật.
Thứ hai, xác định phạm vi cung cấp của bạn. Các nhà mạng có thể đóng vai trò là nhà cung cấp mạng cung cấp dịch vụ kết nối. Họ cũng có thể đóng vai trò là nhà cung cấp dịch vụ đám mây hoặc thậm chí là nhà tích hợp hệ thống cung cấp dịch vụ tích hợp đầu cuối. Các vai trò khác nhau yêu cầu các bộ kỹ năng khác nhau và mang lại giá trị kinh doanh khác nhau. Thứ ba, thiết kế các mô hình kinh doanh sáng tạo. Đây là chìa khóa để nhân rộng thành công 5GtoB trên quy mô lớn”.
Trong thời kỳ đại dịch, nhu cầu về băng thông rộng trong hộ gia đình ngày càng tăng và điều này đã làm nổi bật những ưu điểm của 5G FWA (Truy cập không dây cố định 5G) cho phép triển khai nhanh chóng và vận hành và bảo dưỡng không tiếp xúc. Các nhà mạng Trung Đông đã đạt được thành công thương mại đáng kể khi lấy FWA làm ứng dụng chính của 5G.
Hơn cả kinh doanh: Huawei tiếp tục đổi mới sáng tạo để thúc đẩy sự bền vững trong toàn ngành
“Thành công của 5G trước hết yêu cầu một mạng 5G cung cấp trải nghiệm người dùng tốt nhất và chính điều này đang chỉ dẫn cho cách chúng tôi đổi mới sáng tạo tại Huawei”, Ding cho biết. Huawei đã ra mắt giải pháp Massive MIMO nhẹ nhất và mạnh mẽ nhất trong ngành, tiêu thụ ít năng lượng hơn.
Giải pháp này có thể được vận chuyển và cài đặt bởi chỉ một người, giúp tăng tốc độ triển khai mạng. Với giải pháp Kết nối chéo quang học (OXC) của Huawei, một tủ thiết bị nhỏ có thể thay thế chín tủ thiết bị thông thường. Nó có công suất lớn hơn gấp 4 lần, nhưng sử dụng ít điện năng hơn 95%. Giải pháp 5G Super Uplink của Huawei kết hợp các ưu điểm của băng tần 2,1 GHz và 3,5 GHz để nâng cao dung lượng đường lên và vùng phủ sóng trong nhà. Giải pháp này cung cấp tốc độ đường lên cao nhất trên 450 Mbit/s, cho phép hàng trăm người dùng phát trực tiếp Giải Marathon Hạ Môn ở độ phân giải 4K vào hồi tháng 4 bằng điện thoại thông minh 5G của họ.
Để hỗ trợ các mô hình phát triển xanh và tính trung lập carbon, theo Ding, Huawei tiếp tục đổi mới sáng tạo ở ba cấp độ: thiết bị, trạm gốc và mạng lưới. Ở cấp độ thiết bị, Huawei sử dụng các thành phần có hiệu suất năng lượng cao hơn để làm cho nền tảng phần cứng tiết kiệm năng lượng hơn. Về trạm gốc, các giải pháp trạm gốc được đơn giản hóa của Huawei giúp các nhà mạng giảm mức tiêu thụ năng lượng, cũng như tiết kiệm điện và tiền thuê nhà.
Ở cấp độ mạng, Huawei đã đưa ra giải pháp tiết kiệm năng lượng đa băng tần và đa RAT. Giải pháp này có thể cắt giảm tiêu thụ năng lượng trong mạng không dây mà không ảnh hưởng đến hiệu suất mạng. Với giải pháp sáng tạo của Huawei, thiết bị 5G hoạt động ở băng tần thấp và cao có thể dùng chung một tủ thiết bị và do đó, năng lượng tiêu thụ ít hơn. Khi nói đến tiết kiệm năng lượng cho thiết bị đa băng tần, mục tiêu của Huawei là làm cho một cộng một ít hơn một.
Hợp tác để tạo ra một hệ sinh thái và phát triển 5G vì một tương lai tốt đẹp hơn
Kết luận bài phát biểu của mình, Ding nhấn mạnh rằng sự phát triển 5G đòi hỏi sự đổi mới sáng tạo liên tục. Ví dụ, trong 5GtoB, các tiêu chuẩn 5G cần được phối hợp với các tiêu chuẩn ngành với tốc độ nhanh hơn và 5G nên được tích hợp vào các quy trình sản xuất cốt lõi của doanh nghiệp để giúp họ trở nên kỹ thuật số và thông minh. Đồng thời, sức mạnh tổng hợp giữa 5G, đám mây và điện toán sẽ mở rộng hơn nữa ranh giới kinh doanh của các nhà mạng, tạo ra không gian cho tăng trưởng mới. Đổi mới sáng tạo 5G là một quá trình liên tục. Huawei tin rằng sự đổi mới sẽ thắp sáng tương lai./.
Cách giảm thiểu rủi ro về an ninh mạng khi ứng dụng điện toán biên
Submitted by nadung on Wed, 30/06/2021 - 10:07Hiệu quả khi ứng dụng nhưng vẫn còn mới lạ, điện toán biên khiến nhiều doanh nghiệp lo lắng về vấn đề an toàn và bảo mật của nó.
Điện toán biên (Edge Computing) là mô hình điện toán phân tán, đưa việc xử lý tính toán và lưu trữ dữ liệu đến gần vị trí cần thiết hơn để nâng cao tốc độ và tiết kiệm băng thông. Mô hình này cho phép làm rõ phạm vi và tài nguyên tại biên để tối ưu hoá việc phân tích, xử lý, làm giảm các chi phí vận hành, từ đó làm tăng biên lợi nhuận.
Công ty nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ Forrester gọi 2021 là năm của điện toán biên, đồng thời dự đoán rằng công nghệ này sẽ chuyển từ giai đoạn thử nghiệm sang triển khai hàng loạt.
![]() |
Tuy nhiên so với những trung tâm dữ liệu tập trung được bảo mật cao, một hệ thống phân tán với những thiết bị đầu cuối được đặt tại nơi các dữ liệu được tạo ra mang đến những lo ngại và những hiểu lầm không đáng có, cản trở nhiều công ty, tổ chức triển khai điện toán biên.
Ngày nay, mạng và các ứng dụng trở nên phi tập trung hơn, dữ liệu được xử lý tại chỗ hoặc lưu trữ trên đám mây và nhân viên cũng có thể truy cập dữ liệu công ty từ bên ngoài, đặc biệt khi làm việc tại nhà.
Điều này khiến cho cách tiếp cận bảo mật truyền thống hay còn gọi là "bảo mật vành đai" không còn đủ khả năng bảo vệ toàn diện nữa. Mô hình Zero Trust trong an ninh mạng, nghĩa là "không tin tưởng bất kỳ ai cho đến khi được xác minh" hiện đang được xem như một giải pháp áp dụng cho các doanh nghiệp.
Theo quan điểm đó, ứng dụng điện toán biên có thể được xem như một cách giúp tổ chức "tái tạo" hệ thống bảo mật. Các chuyên gia Schneider Electric gợi ý doanh nghiệp áp dụng chiến lược an ninh mạng toàn diện sau đây nhằm giảm thiểu các rủi ro về an ninh mạng khi ứng dụng điện toán biên:
Lựa chọn thiết bị đúng
Vấn đề thường gặp của các thiết bị IoT chính là trở thành mắt xích yếu nhất, tạo cơ hội cho những kẻ tấn công xâm nhập vào hệ thống biên.
Vì vậy, doanh nghiệp có thể xem xét cân nhắc hai tiêu chí sau đây khi lựa chọn các thiết bị. Một là thiết bị được thiết lập Vòng đời phát triển bảo mật (Security Development Lifecycle - SDL), một khái niệm được giới thiệu bởi Microsoft để xem xét các mối lo ngại về bảo mật và quyền riêng tư trong suốt quy trình phát triển phần mềm. Yếu tố thứ hai là IEC 62443 - một tiêu chuẩn được chứng nhận quốc tế, đưa ra các yêu cầu về quy trình phát triển an toàn các sản phẩm được sử dụng trong những hệ thống quản lý và tự động công nghiệp cũng như các ứng dụng CNTT tại biên.
Thiết kế hệ thống an toàn
Thay vì chỉ sử dụng một giải pháp, doanh nghiệp nên sử dụng Hệ thống phòng thủ chuyên sâu (Defense-in-Depth Network - DDN) giúp đa dạng hóa các rủi ro bằng việc tạo ra những khu vực an ninh với các yếu tố phòng vệ khác nhau ở mỗi khu vực.
![]() |
Lớp đầu tiên cần đến phân đoạn mạng khi mở rộng phạm vi của biên. Phân đoạn mạng hoạt động bằng cách chia nhỏ hệ thống máy tính thành các phân khúc, giúp kiểm soát lưu lượng dữ liệu tốt hơn cũng như hạn chế việc lan rộng của một cuộc tấn công.
Lớp tiếp theo là hệ thống phát hiện xâm nhập, giúp xác định và cảnh báo người dùng về những độc hại tiềm ẩn có thể phá hoại, gián đoạn dịch vụ hoặc ảnh hưởng đến tính khả dụng của hệ thống vận hành tại biên.
Thiết lập/định cấu hình thiết bị
Trước khi kết nối một thiết bị hoặc một hệ thống mới vào một ứng dụng biên, cần hiểu rõ cách thức hoạt động của nó thông qua các bước: Đánh giá lỗ hổng bảo mật để phát hiện tình trạng của thiết bị hoặc hệ thống khi được vận chuyển đến địa điểm; Sử dụng hướng dẫn bổ sung của nhà cung cấp để thiết lập và định cấu hình cho thiết bị; Vô hiệu hóa tất cả giao thức không an toàn hoặc không cần thiết để giảm thiểu nguy cơ các tấn công bề mặt; Cập nhật tất cả các bản vá, nâng cấp trước khi thực hiện việc triển khai cuối cùng.
![]() |
Vận hành và bảo trì
Lắp đặt một thiết bị hoặc hệ thống chỉ là khởi đầu của quá trình bảo mật, cần theo dõi và bảo trì ứng dụng biên một cách chặt chẽ qua việc quản lý bản vá, quản lý lỗ hổng và kiểm tra sự xâm nhập.
Quản lý bản vá: Có rất nhiều bộ phận di động trong một ứng dụng biên, do đó, trước khi triển khai bản vá, cần phối hợp với những người vận hành, để họ có thể hiểu chính xác những gì sắp được thực hiện và biết được những giảm thiểu cần thiết và thời gian áp dụng bản vá.
Quản lý lỗ hổng: Khi kích thước hệ thống tăng lên và có thêm các vụ tấn công mới, điện toán biên có thể khiến quản lý lỗ hổng bảo mật trở nên phức tạp hơn. Vì thế, cần xác định và ưu tiên những khoảng lỗ hổng trong vùng phủ và thực hiện quản lý một cách phù hợp đối với các thiết bị nằm trong hệ thống biên.
Kiểm tra sự xâm nhập: Kiểm tra hệ thống theo lịch trình trước khi có một mối đe doạ từ bên ngoài. Chúng ta có thể áp dụng kiểm tra xâm nhập. Đây là hình thức mô phỏng cuộc tấn công trên một thiết bị, hệ thống hoặc môi trường mạng, bằng cách tạo ra một cuộc tấn công giả lập để phát hiện các lỗ hổng và cải thiện chúng.
Cuối năm 2021 sẽ có hơn nửa tỷ thuê bao 5G
Submitted by nlphuong on Wed, 30/06/2021 - 07:39Dự báo số thuê bao di động 5G sẽ vượt 580 triệu vào cuối năm 2021, với trung bình mỗi ngày tăng một triệu thuê bao di động 5G mới.
![]() |
Thuê bao 5G sẽ đạt 580 triệu vào cuối năm 2021
Dự báo được đưa ra trong Báo cáo Di động của Ericsson lần thứ 20 (Ericsson Mobility Report) đã củng cố kỳ vọng cho rằng 5G sẽ trở thành thế hệ công nghệ di động được phổ cập nhanh nhất mọi thời đại, khi dự báo là 5G sẽ đạt 3,5 tỷ thuê bao và sẽ có 60% dân số dùng 5G tới cuối năm 2026.
Tuy nhiên, tốc độ phổ cập tại các khu vực không giống nhau. Châu Âu có khởi đầu chậm và tiếp tục tụt hậu hơn so với các thị trường Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản và Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC) về tốc độ triển khai 5G.
Theo dự kiến, thời gian để 5G chạm mốc một tỷ thuê bao sớm hơn hai năm so với mức của 4G LTE. Những nguyên nhân chính của hiện tượng này bao gồm cam kết sớm của Trung Quốc đối với 5G, các thiết bị 5G thương mại được đưa ra thị trường sớm hơn và có chi phí hợp lý hơn. Đã có hơn 300 mẫu điện thoại thông minh 5G được công bố hoặc ra mắt trên thị trường.
Xu hướng 5G thương mại này dự kiến sẽ còn tiếp tục trong những năm tới, khi kết nối đóng vai trò quan trọng trong quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19.
Vào năm 2026, khu vực Đông Bắc Á ước tính sẽ có 1,4 tỷ thuê bao 5G để trở thành khu vực có số lượng thuê bao 5G lớn nhất thế giới. Trong khi đó, các thị trường Bắc Mỹ và Hội đồng hợp tác vùng vịnh GCC dự kiến sẽ là những khu vực có mật độ thuê bao 5G cao nhất, với tỷ lệ thuê bao 5G của các khu vực tương ứng là 84% và 73%.
Số thuê bao di động ở khu vực Đông Nam Á và châu Đại Dương hiện đã lớn hơn 1,1 tỷ, trong đó 5G đạt chưa đến 2 triệu thuê bao. Dự kiến, số lượng thuê bao 5G sẽ tăng mạnh trong vài năm tới với tổng số dự báo đạt khoảng 400 triệu thuê bao vào năm 2026. Tới năm 2026, Đông Nam Á và Châu Đại Dương sẽ là những khu vực trên thế giới có tốc độ tăng lưu lượng dữ liệu tiêu dùng trên smartphone nhanh nhất - đạt 39 GB/tháng, với tốc độ tăng trưởng gộp hàng năm CAGR đạt 36%. Tổng lưu lượng dữ liệu di động sẽ tăng trưởng một cách tương ứng, với tốc độ CAGR là 42%, đạt 39 EB/tháng nhờ vào sự tăng trưởng liên tục của thuê bao 4G và sự cất cánh của 5G tại những thị trường nơi 5G đã ra mắt.
Chia sẻ thêm về những dự báo này, Ông Denis Brunetti, Tổng giám đốc Ericsson Việt Nam, Myanmar, Campuchia và Lào cho biết: "Công nghệ di động đã và đang là trung tâm của quá trình chuyển đổi số (CĐS) nhanh chóng và hành trình tăng trưởng GDP toàn vẹn của Việt Nam. Là cơ sở hạ tầng quốc gia quan trọng, 5G chắc chắn sẽ là nền tảng tạo điều kiện để Việt Nam thực hiện tầm nhìn về việc phát huy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong việc thúc đẩy và tạo ra làn sóng phát triển kinh tế xã hội bền vững và toàn vẹn tiếp theo ở Việt Nam. Khả năng của mạng di động 5G sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện chương trình CĐS của Chính phủ bằng cách hỗ trợ việc ứng dụng nhanh chóng công nghiệp 4.0 trên toàn quốc".
Smartphone và video làm tăng lưu lượng dữ liệu di động
Theo báo cáo, lưu lượng dữ liệu liên tục tăng qua từng năm. Một exabyte (EB) bao gồm 1.000.000.000 (1 tỷ) gigabyte (GB). Vào cuối năm 2020, lưu lượng dữ liệu di động toàn cầu - không bao gồm lưu lượng được tạo ra bởi truy cập vô tuyến cố định (FWA) - đã vượt quá 49 EB mỗi tháng, và dự kiến sẽ tăng thêm gần 5 lần để đạt 237 EB mỗi tháng vào năm 2026.
Đáng chú ý, smartphone, hiện chiếm tới 95% lưu lượng truy cập này, cũng đang tiêu thụ nhiều dữ liệu hơn bao giờ hết. Trên toàn cầu, mức sử dụng dữ liệu trung bình trên mỗi smartphone hiện đã vượt quá 10GB/tháng và được dự báo sẽ đạt 35 GB/tháng vào cuối năm 2026.
Các nhà cung cấp dịch vụ 5G đang đi đầu trong việc áp dụng truy cập vô tuyến cố định
Đại dịch COVID-19 đang đẩy nhanh quá trình số hóa, cũng như nâng cao tầm quan trọng và nhu cầu về kết nối băng thông rộng di động tốc độ cao, đáng tin cậy. Theo báo cáo mới nhất, gần như 9/10 nhà cung cấp dịch vụ truyền thông (CSP) đã ra mắt dịch vụ 5G cũng đồng thời cung cấp dịch vụ truy cập vô tuyến cố định (FWA) (sử dụng công nghệ 4G và/hoặc 5G), ngay cả ở các thị trường có mật độ triển khai cáp quang cao. Điều này là cần thiết để đáp ứng nhu cầu lưu lượng truy cập FWA ngày càng tăng. Theo dự báo của báo cáo này, lưu lượng FWA sẽ tăng thêm 7 lần, đạt 64EB vào năm 2026.
Sự trỗi dậy của IoT quy mô lớn
Theo dự báo, trong năm 2021, các kết nối Cat-M và NB-IoT dùng công nghệ Massive IoT sẽ tăng gần 80%, đạt gần 330 triệu kết nối. Đến năm 2026, những công nghệ này được dự báo sẽ chiếm 46% tổng số kết nối IoT di động.
Hợp tác vùng Vịnh thúc đẩy đổi mới và cơ hội phát triển của 5G
Báo cáo này đưa ra số liệu thống kê ấn tượng từ các thị trường Hội đồng hợp tác vùng Vịnh GCC, nơi các sáng kiến kỹ thuật số do chính phủ tài trợ đang thúc đẩy đổi mới sáng tạo công nghệ và cơ hội phát triển của 5G.
Vào năm 2019, thị trường GCC là một trong những thị trường đầu tiên trên thế giới ra mắt dịch vụ 5G thương mại. Đến năm 2026, dự kiến các thị trường này sẽ có 62 triệu thuê bao 5G, là thị trường có mật độ thuê bao 5G cao thứ hai trên toàn cầu./.
Nguồn: ictvietnam.vn
Giải pháp hỗ trợ nhà mạng chuyển đổi nắm bắt cơ hội mới tại vùng biên
Submitted by nlphuong on Tue, 22/06/2021 - 21:31Các giải pháp hạ tầng, dịch vụ mới của Dell Technologies và hệ sinh thái mở với các đối tác được sinh ra để giúp các nhà mạng hiện đại hóa mạng lưới, thúc đẩy sự đổi mới và tạo ra những cơ hội kinh doanh mới.
Xây dựng các dịch vụ và giải pháp phần mềm mở phục vụ cho những nhu cầu đặc thù của ngành viễn thông
Được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm hỗ trợ các doanh nghiệp (DN) chuyển đổi số (CĐS), Dell Technologies đang duy trì một hệ sinh thái viễn thông định hướng điện toán đám mây với các hạ tầng, giải pháp, đối tác trong ngành và một phòng thử nghiệm các sáng tạo mới để giúp các công ty viễn thông (CSP) tăng tốc đổi mới và phát triển kinh doanh.
Khi mà các DN trong mọi lĩnh vực đều đang tìm kiếm xây dựng các giá trị mới với các công nghệ vùng biên, IDC dự đoán số lượng các DN mới triển khai hạ tầng vùng biên sẽ tăng ít nhất 20% từ nay cho đến hơn 90% vào năm 2024. Các CSP đang nhắm đến việc chuyển đổi hoạt động kinh doanh và mạng lưới để đạt được mức phát triển này, đồng thời hưởng lợi từ những cơ hội vùng biên mang đến.
![]() |
Dell Technologies đang xây dựng các dịch vụ và giải pháp phần mềm mở phục vụ cho những nhu cầu đặc thù của ngành viễn thông. Khi bắt tay hợp tác cùng Dell, CSPs có thể sử dụng những giải pháp mới này để nắm bắt các tiêu chuẩn ngành về phần mềm hóa, đơn giản hóa việc tích hợp và quản lý dữ liệu tại vùng biên, đồng thời tận dụng các cơ hội mới để tặng lợi nhuận. Dell Technologies có những lợi thế lớn trong việc hỗ trợ CSPs chuyển đổi bằng chất lượng và công nghệ hàng đầu về hạ tầng CNTT; chuỗi cung ứng toàn cầu rộng khắp và an toàn; cùng các dịch vụ CNTT với hơn 60.000 chuyên gia và đối tác ở hơn 170 quốc gia.
Ông Sam Saba, Giám đốc khối Viễn thông, khu vực châu Á – Thái Bình Dương và Nhật Bản (APJ), Dell Technologies, chia sẻ: “Các nước thuốc nhóm quốc gia APJ đang tăng tốc triển khai 5G. Vì vậy các nhà mạng trong khu vực đang tìm kiếm những ý tưởng và giải pháp để phát triển dựa trên 5G, cũng như giảm thiểu rủi ro và sự phức tạp khi phát triển hạ tầng mạng. Một phương pháp tiếp cận mở, định hướng điện toán đám mây có thể hỗ trợ các khách hàng ở mọi lĩnh vực, cụ thể như các công ty viễn thông, để xây dựng mạng lưới thế hệ mới linh hoạt và có thể lập trình, từ đó tạo ra những cơ hội mới, phát triển kinh doanh”.
Ông Daryl Schoolar, Trưởng nhóm Thực hành tại Omdia, cho biết: “Các nhà mạng đã đầu tư mạnh mẽ để cập nhật mạng lưới cho công nghệ 5G, đồng thời đánh giá lại các hệ thống sẵn có. Mạng viễn thông đang trở nên phân tán, do vậy một hệ sinh thái mở của các nhà cung cấp phần mềm và phần cứng sẽ hỗ trợ quá trình chuyển đổi này. Các công ty viễn thông cần những đối tác chiến lược để tổ chức hệ sinh thái, cung cấp các giải pháp đã được chứng nhận, và chịu trách nhiệm kết quả triển khai cũng như vận hành”.
Chuyển đổi sang mạng lưới mở, định hướng điện toán đám mây hiện đại
Khi mà mạng lưới viễn thông đang trở nên phân tán và hướng đến việc cung cấp hạ tầng và ứng dụng mạnh mẽ tại vùng biên, các thành phần cần triển khai và quản lý ở các vị trí địa lý tăng theo cấp số nhân. Dell Technologies đang đưa ra một hạ tầng mạng định hướng điện toán đám mây với bộ giải pháp đầy đủ về máy chủ chuẩn viễn thông có thể mở rộng và các giải pháp phần mềm để đơn giản hóa và tăng tốc quá trình này.
Hiện nay, các CSP có thể tham khảo các kiến trúc đã được xác thực bởi Dell Technologies để triển khai đầy đủ các giải pháp viễn thông cả về phần cứng lẫn phần mềm từ các đối tác, bao gồm Vmware và Red Hat, với các phần cứng, phần mềm và dịch vụ được tối ưu hóa của Dell.
Với Project Metalweaver, Dell Technologies đang sử dụng hạ tầng định hướng điện toán đám mây này sâu hơn vào việc hỗ trợ nhu cầu mở rộng với quy mô rộng lớn về địa lý. Project Metalweaver là giải pháp phần mềm linh hoạt cho phép các CSP dễ dàng lựa chọn, tự động triển khai và quản lý hàng ngàn thiết bị tính toán, thiết bị mạng và thiết bị lưu trữ từ nhiều nhà cung cấp ở nhiều địa điểm khác nhau.
Các tài nguyên mở và theo yêu cầu có thể được mở rộng một cách đơn giản đến nhiều cơ sở dưới sự hỗ trợ và dịch vụ toàn cầu của Dell Technologies.
Dell Technologies cũng giới thiệu các kiến trúc tham vấn mới để mở rộng các môi trường vùng biên, vùng trung tâm và môi trường Open RAN (Open Radio Access Network, giải pháp truy cập mạng vô tuyến mở). Các kiến trúc tham vấn cung cấp đầy đủ các chỉ dẫn, các cách thức triển khai và khuyến cáo vận hành cho từng ứng dụng cụ thể để hỗ trợ các CSP triển khai nhanh chóng và hiệu quả các ứng dụng và dịch vụ mà các DN yêu cầu.
Được xây dựng dựa trên các giải pháp hạ tầng cơ sở của Dell Technologies với nền tảng VMWare Telco Cloud (nền tảng điện toán đám mây dành cho viễn thông của Vmware) và Red Hat OpenShift Reference Architecture (kiến trúc tham vấn OpenShift của Red Hat) dành cho viễn thông, CSPs sẽ có thể triển khai từ ban đầu: Các giải pháp phần mềm trung tâm từ Affirmed Networks; Các giải pháp mạng riêng từ CommScope RUCKUS; Các giải pháp điện toán biên đa truy cập (MEC) từ Intel Smart Edge, Các phần mềm trung tâm từ Nokia.
Dell Technologies đang hợp tác với Mavenir để phát triển phần mềm 5G Open RAN với các máy chủ được gia cố Dell EMC PowerEdge XR11.
Phòng thử nghiệm viễn thông mới để mang đến những sáng tạo với công nghệ 5G, nắm bắt các cơ hội mới tại vùng biên
Dell Technologies ra mắt phòng thử nghiệm hệ sinh thái viễn thông mở để tạo ra nơi làm việc với các đối tác và khách hàng, cùng nhau khám phá và hợp tác công nghệ và ứng dụng trong tương lai cho viễn thông. Tổ chức tại trụ sở của công ty tại thành phố Round Rock thuộc tiểu bang Texas, môi trường thử nghiệm chuẩn viễn thông mang đến cho các CSP khả năng giả lập các địa điểm khách hàng khác nhau, thử nghiệm các giải pháp và dịch vụ trong điều kiện thực tế từ nhiều nhà cung cấp.
Các giải pháp mới có thể được ươm mầm trong phòng thử nghiệm, sau đó nhanh chóng triển khai ngoài thị trường, giúp các CSP có thể tạo ra các dịch vụ và ứng dụng vùng biên mới cho DN. Chương trình đối tác công nghệ của Dell cung cấp các tài nguyên kỹ thuật và hỗ trợ quản lý dự án để lên phương án thiết kế, xây dựng, triển khai và kinh doanh các giải pháp và dịch vụ mạng.
DN