Syndicate content

Tri thức chuyên ngành

Các triển vọng cho thế giới thông minh 2030

Ông David Wang, Giám đốc Điều hành kiêm Chủ tịch Sản phẩm & Giải pháp CNTT-TT của Huawei, vừa công bố báo cáo "Thế giới thông minh 2030" dự báo xu hướng của ngành, giúp các ngành xác định cơ hội mới và khám phá giá trị mới.

 

David Wang công bố báo cáo Thế giới Thông minh 2030

 Báo cáo đề xuất 8 định hướng đa ngành, đa nghề để thăm dò ở cấp vĩ mô. Báo cáo giải thích cách các công nghệ ICT có thể giải quyết các vấn đề và thách thức quan trọng đối với sự phát triển của con người và những cơ hội mới nào có thể mang lại cho các tổ chức và cá nhân. Ở cấp độ ngành, báo cáo khám phá các công nghệ và hướng phát triển trong tương lai của mạng truyền thông, điện toán, điện kỹ thuật số và các giải pháp ô tô thông minh.

Wang cho biết, "30 năm trước, chúng tôi quyết định làm phong phú cuộc sống thông qua lĩnh vực viễn thông. 10 năm trước, chúng tôi quyết định kết nối mọi nơi trên thế giới, để xây dựng một thế giới kết nối, tốt đẹp hơn. Giờ đây, tầm nhìn và sứ mệnh của chúng tôi là mang kỹ thuật số đến mọi người, mọi nhà và mọi tổ chức vì một thế giới thông minh, được kết nối hoàn toàn. Chúng tôi tin chắc rằng một thế giới thông minh tuyệt vời đang đến với tốc độ ngày càng nhanh."

Mạng viễn thông 2030: 4 kịch bản về mạng viễn thông dần trở thành hiện thực

Theo báo cáo, trong thập kỷ tới, các đối tượng và ranh giới của kết nối mạng sẽ tiếp tục mở rộng. Đến năm 2030, khi các công nghệ như XR, màn hình 3D mắt thường, cảm ứng kỹ thuật số và mùi kỹ thuật số phát triển hơn nữa, "tầm nhìn kỹ thuật số, cảm ứng kỹ thuật số và mùi kỹ thuật số" sẽ tạo ra trải nghiệm sống động và đột phá thông qua các mạng thế hệ tiếp theo.

Đồng thời, khi mạng viễn thông phát triển từ việc kết nối hàng tỷ người với hàng trăm tỷ thứ, thiết kế mạng sẽ thay đổi từ tập trung vào nhận thức của con người sang nhận thức của máy móc. Chúng ta sẽ thấy sự xuất hiện của cơ sở hạ tầng điện toán đa cấp cho hàng trăm tỷ thứ và dữ liệu khổng lồ, cũng như các mạng điện toán cung cấp khả năng kết nối. 

Ngoài ra, 4 kịch bản về mạng viễn thông trong tương lai sẽ dần trở thành hiện thực. Chúng là những mạng viễn thông sẽ mang lại trải nghiệm nhất quán cho gia đình, văn phòng và xe cộ, Internet băng thông rộng vệ tinh, Internet công nghiệp và mạng điện toán.

Là một phần của thế giới thông minh, mạng viễn thông của năm 2030 sẽ phát triển theo hướng mạng băng thông rộng khối, trải nghiệm xác định, AI-native, HCS, bảo mật và độ tin cậy, cũng như các mạng xanh và carbon thấp. Huawei dự đoán rằng tổng số kết nối toàn cầu sẽ đạt 200 tỷ vào năm 2030. Đồng thời, truy cập mạng doanh nghiệp, truy cập băng thông rộng gia đình và truy cập không dây cá nhân sẽ vượt quá 10 Gbit/s, mở ra kỷ nguyên kết nối 10 Gbit/s  .

 Điện toán 2030: thế giới kỹ thuật số và thế giới vật lý sẽ được hội tụ liền mạch

Đến năm 2030, thế giới kỹ thuật số và thế giới vật lý sẽ được hội tụ liền mạch, cho phép con người và máy móc tương tác về mặt tri giác và cảm xúc. AI sẽ trở nên phổ biến và giúp chúng ta vượt qua những giới hạn của con người. Nó sẽ đóng vai trò như kính hiển vi và kính thiên văn của các nhà khoa học, nâng cao hiểu biết của chúng ta về mọi thứ, từ những hạt quark nhỏ nhất đến những hiện tượng vũ trụ lớn nhất.

Các ngành công nghiệp đã sử dụng rộng rãi công nghệ kỹ thuật số sẽ trở nên thông minh hơn với AI. Hiệu suất năng lượng của máy tính sẽ tăng lên đáng kể, đưa chúng ta đến gần hơn với điện toán không carbon. Các công nghệ kỹ thuật số có thể trở thành một công cụ để đạt được mục tiêu toàn cầu về trung hòa carbon.

Máy tính đang đạt đến giới hạn vật lý của nó, vì vậy cần phải đổi mới phần mềm, kiến ​​trúc và hệ thống. Quan trọng hơn, toàn bộ ngành công nghiệp cần phải cùng nhau khám phá một nền tảng mới cho tính toán, vượt qua các giới hạn vật lý của chất bán dẫn và làm cho điện toán trở nên xanh hơn, an toàn hơn và thông minh hơn. Huawei dự đoán rằng vào năm 2030, nhân loại sẽ bước vào kỷ nguyên dữ liệu yottabyte, với sức mạnh tính toán cho mục đích chung tăng gấp 10 lần và sức mạnh tính toán AI gấp 500 lần.

Sức mạnh kỹ thuật số 2030Công nghệ điện tử công suất và công nghệ kỹ thuật số đang được hội tụ sâu sắc

Trong thập kỷ tới, nhân loại sẽ bước vào kỷ nguyên sức mạnh kỹ thuật số, phấn đấu hướng tới phát triển carbon thấp, điện khí hóa và chuyển đổi thông minh.  Các nguồn năng lượng tái tạo mới, chẳng hạn như điện năng lượng mặt trời và năng lượng gió, sẽ dần thay thế nhiên liệu hóa thạch.

Công nghệ điện tử công suất và công nghệ kỹ thuật số đang được hội tụ sâu sắc để cho phép "bit để quản lý watt" trong toàn bộ hệ thống năng lượng và hiện thực hóa các ứng dụng thông minh khác nhau trên "đám mây năng lượng".

Huawei dự đoán đến năm 2030, năng lượng mặt trời sẽ trở thành một trong những nguồn năng lượng chính của chúng ta, tỷ lệ năng lượng tái tạo trong sản xuất điện toàn cầu sẽ là 50%, tỷ trọng điện năng trong tiêu thụ năng lượng cuối cùng dự kiến ​​sẽ vượt quá 30%, xe điện chiếm tỷ trọng lượng xe mới bán ra sẽ vượt quá 50% và năng lượng tái tạo sẽ cung cấp năng lượng cho 80% cơ sở hạ tầng kỹ thuật số.

Giải pháp ô tô thông minh 2030: Các công nghệ như AI, nhận dạng sinh trắc học, cảm biến quang học trong xe và AR/VR sẽ mang đến những tính năng mới cho buồng lái

Trong thập kỷ tới, điện khí hóa và trí thông minh sẽ là không thể ngăn cản và các công nghệ ICT sẽ hội tụ với ngành công nghiệp ô tô.  Ngành công nghiệp ô tô sẽ chứng kiến ​​sự phát triển của lái xe thông minh, không gian thông minh, dịch vụ thông minh và vận hành thông minh. Huawei hy vọng sẽ sử dụng các công nghệ ICT của mình để thúc đẩy một ngành công nghiệp ô tô thông minh và giúp các nhà sản xuất ô tô chế tạo những phương tiện tốt hơn.

Mục tiêu cuối cùng của lái xe thông minh là sử dụng các công nghệ như lái xe tự động để giảm đáng kể tỷ lệ tai nạn giao thông, đồng thời mang lại trải nghiệm đi lại hiệu quả và liền mạch cho người dùng. Lái xe thông minh cho đến nay chủ yếu chỉ giới hạn ở những con đường kín như đường cao tốc và đường khuôn viên, nhưng dần dần nó sẽ được ứng dụng nhiều hơn trên những con đường công cộng, chẳng hạn như những con đường trong khu vực đô thị.  Xe cộ sẽ trở thành một không gian thông minh mới.

Với sự hỗ trợ của ICT, các công nghệ như AI, nhận dạng sinh trắc học, cảm biến quang học trong xe và AR/VR sẽ mang đến những tính năng mới cho buồng lái. Xe thông minh sẽ thực sự biến đổi từ một không gian di động linh hoạt thành một không gian sống thông minh tích hợp thế giới ảo và vật lý. 

Huawei dự đoán rằng, đến năm 2030, xe tự hành sẽ chiếm 20% lượng xe mới được bán ở Trung Quốc, xe điện sẽ chiếm hơn 50% lượng xe mới được bán ra, xe sẽ được trang bị sức mạnh tính toán trên 5.000 TOPS và tốc độ truyền dẫn mạng trong xe trên mỗi liên kết sẽ vượt quá 100 Gbps.

ND

Ứng biến gián đoạn kinh doanh bằng công nghệ đột phá

COVID-19 đã làm gia tăng nhu cầu thúc đẩy tăng cường chuyển đổi số trong toàn ngành. Bà Eileen Yap, Tổng Giám đốc RS Components, đã đưa ra các giải pháp và xu hướng giải quyết tình trạng này.

COVID-19 đã tác động đến nhiều mặt trong cuộc sống của chúng ta. Trong toàn ngành công nghiệp tại Việt Nam, việc đóng cửa hàng loạt các nhà máy và các biện pháp hạn chế nghiêm ngặt trong hoạt động logistics tạo nên sự gián đoạn lớn trong chuỗi cung ứng đối với các nhà sản xuất.

Nhiều đơn vị đã phải chuyển đổi sang việc sử dụng các dịch vụ mua sắm và tìm nguồn cung ứng trực tuyến. Các nhà cung ứng cũng phải nhanh chóng giới thiệu và/hoặc mở rộng dịch vụ và bán hàng trực tuyến. Giao thông vận tải và hoạt động logistics trở thành thách thức lớn đối với tất cả chúng ta khi các cảng xung quanh TP. Hồ Chí Minh phải tạm ngưng hoạt động vì các thành phố phía nam và các tỉnh công nghiệp lân cận hiện đang là tâm dịch của cả nước.

Các chủ doanh nghiệp (DN) khuyến khích lao động làm việc tại nhà và hỗ trợ thêm về CNTT mà vẫn đảm bảo sức khỏe tinh thần ổn định. Các trung tâm vận hành nhà máy phải thích nghi để bảo vệ lao động làm việc tại đây. Các giải pháp bao gồm thiết bị bảo hộ cá nhân (PPE), dựng lều trại trong nhà máy, chia ca làm việc, bổ sung các thiết bị tự động hóa, và điều chỉnh vai trò cũng như trách nhiệm nhân sự phù hợp với tình hình. Tất cả các biện pháp trên phải được hoàn thành nhanh chóng để giải quyết tình trạng sụt giảm năng suất, hoàn thành các đơn đặt hàng và tạo động lực phục hồi kinh tế.

Về bản chất, để vượt qua các thách thức hiện nay, ở mọi khía cạnh kinh doanh và cả nền công nghiệp toàn cầu đều đòi hỏi nhiều hơn các dạng kỹ thuật số, thường là các công nghệ đột phá. Rõ ràng là các DN đã có những CĐS nhằm thích ứng tốt hơn. Kể từ khi bắt đầu, chúng tôi đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể trong hoạt động kinh doanh B2B và B2C, bao gồm cả thương mại điện tử (TMĐT), không chỉ là những khách hàng hiện tại mà còn là các khách hàng mới và vãng lai. 

Hạn chế tối đa đứt gãy chuỗi cung ứng

Chúng tôi luôn sẵn sàng để ứng phó nhanh chóng và quyết liệt với đại dịch COVID-19. Cụ thể, chúng tôi liên tục hỗ trợ khách hàng trên toàn cầu, luôn ưu tiên sức khỏe và các dịch vụ tương tự khác cũng như lực lượng cung cấp các thiết bị thiết yếu và cơ sở hạ tầng để chống dịch. Để đảm bảo duy trì chuỗi cung ứng, đội ngũ xử lý khủng hoảng của chúng tôi đã lên kế hoạch hành động nhanh chóng, chuyển đổi hàng tồn kho trên mạng lưới toàn cầu gồm 14 trung tâm phân phối đến các khu vực thiếu hụt.

Ngoài ra, chúng tôi còn dự trữ hơn 650,000 sản phẩm và giải pháp điện tử và công nghiệp để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Trường hợp sản phẩm rơi vào tình trạng khan hiếm, các chuyên gia sẽ tìm nguồn cung thay thế và các thiết bị tương tự thông qua danh sách các nhà cung cấp đa đạng và phong phú của chúng tôi.

Khả năng cung ứng đa kênh, nền tảng kỹ thuật số mạnh mẽ giúp chúng tôi có thể dễ dàng tăng cường hỗ trợ khi các đơn hàng trực tuyến tăng vọt. Thông qua trao đổi và cộng tác, đội ngũ thu mua có thể hỗ trợ các khách hàng quan trọng thuộc các ngành kinh doanh thiết yếu. Bằng việc khuyến khích tư duy kỹ thuật số, kết nối con người và làm việc từ xa, các trung tâm phân phối nhanh chóng điều chỉnh hoạt động sản xuất trong tình trạng giãn cách xã hội và lao động phải mang các thiết bị phòng hộ cá nhân (PPE) và họ luôn sẵn sàng thực hiện.   

Các yếu tố của tăng tốc kỹ thuật số

Ngày nay, ngành công nghiệp vừa đầu tư vào các giải pháp kỹ thuật số để vượt qua thách thức hiện hữu do đại dịch, vừa phải tiếp tục đáp ứng nhu cầu đang ngày một tăng lên. Xu hướng tăng tốc kỹ thuật số này đã có từ trước thời điểm COVID-19 xảy ra, nhưng bắt đầu phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây. Thật vậy, tự động hóa đã là xu hướng từ trước đến nay trong lĩnh vực sản xuất và quản lý. Giờ đây, sự tiến bộ của ngành CNTT (Cách mạng Công nghiệp 4.0) và kế hoạch triển khai 5G sắp tới tại Việt Nam đang không chỉ tác động đến mọi mặt của ngành sản xuất, mà còn ảnh hưởng lên các ngành liên quan như quản lý chuỗi cung ứng, từ thanh toán đến mua hàng, thông qua quản lý kho và dự đoán hàng tồn.

Những điều này đang làm thay đổi dần kỳ vọng của khách hàng, nhu cầu về hiệu quả cao hơn trong dịch vụ và nhận thức rằng dữ liệu cũng có thể được sử dụng để nắm bắt xu hướng thế giới mới.

Các khách hàng đều có kỳ vọng rất cao vào nhà cung cấp. Họ mong muốn nhận được dịch vụ cao cấp và rõ ràng, trong khi chúng tôi có lợi thế đến từ tính dễ sử dụng, các công cụ cá nhân hóa dựa trên AI và hỗ trợ bán hàng trực tuyến theo thời gian thực. RS luôn tập trung tối đa để có thể đáp ứng mọi kỳ vọng từ khách hàng, thực hiện công việc như cam kết cũng như có phương án phản hồi rõ ràng khi có bất kỳ sự kiện nào xảy ra.

Nhiều DN tại Việt Nam cũng như trên thế giới đang chịu thiệt hại về tài chính do dịch COVID-19, điều này làm gia tăng nhu cầu cải thiện tính hiệu quả. Khởi đầu với ứng dụng eProcurement, nhu cầu của người dùng về các công cụ như RS PunchOut ngày càng tăng, một công cụ sáng tạo tích hợp vào hệ thống eProcurement, cho phép người dùng dễ dàng truy cập và tham khảo sản phẩm cũng như thông tin thanh toán khi sử dụng website. Đối với các DN có đơn đặt hàng lớn tại Việt Nam, eProcurement có thể giúp đội ngũ nhân viên tiết kiệm thời gian, cải thiện tính năng theo dõi đơn hàng, báo cáo chi phí và giảm thiểu rủi ro.

Việc giới thiệu các công cụ mua sắm kỹ thuật số cho các khách hàng công nghiệp và sản xuất tại Việt Nam cho phép các DN đạt lợi ích lớn từ việc cắt giảm chi phí và tăng hiệu suất làm việc của nhân viên. Trong trường hợp các thành phần thiết bị quan trọng không có sẵn trên website của RS hoặc các đối tác bán lẻ tại địa phương, nhóm chuyên gia Product Plus sẽ tìm kiếm các sản phẩm thay thế từ mạng lưới nhà cung cấp rộng lớn của chúng tôi.

Các giải pháp quản lý kho cũng là yếu tố quan trọng để đạt mục tiêu nâng cao hiệu suất và giảm thiểu chi phí, đặc biệt là khi các DN đang tăng lượng hàng dự trữ do ảnh hưởng từ đại dịch. Đội ngũ RS cũng hỗ trợ khách hàng cải thiện khả năng lưu kho, lên kế hoạch đặt trước hàng dự kiến sẽ hết trong tương lai và phát triển lịch trình giao hàng dựa trên yêu cầu từ khách hàng. Nhờ lợi thế nhiều kho hàng tại khu vực Đông Nam Á, RS mang đến cho khách hàng sự tin cậy và linh hoạt trong quá trình thực hiện các dự án sản xuất của họ.

Dữ liệu lớn (Big data)

Trong khi đó, các công ty bắt đầu nhận ra lợi ích khổng lồ của ‘big data’, với ưu điểm là chi phí thấp và điện toán đám mây dễ truy cập. Việc thu thập và phân tích dữ liệu từ mọi phương diện DN có thể được ứng dụng nhờ vào các kỹ thuật như trí tuệ nhân tạo (AI), dễ dàng dự báo thị trường hoặc xu hướng kinh doanh, cải thiện dịch vụ chăm sóc khách hàng, giảm "thời gian chết" và thích ứng nhanh với sự thay đổi. Đặc biệt, big data giúp chỉ ra các nguyên nhân gây thất thoát trong sản xuất và hư hỏng thiết bị, điều mà có thể tránh được nhờ bảo trì dự đoán.

Thật vậy, bảo trì dự đoán nâng cao được coi là một ứng dụng then chốt trong thời gian tới. Nó kết hợp nhiều công nghệ với nền tảng công nghiệp 4.0 như điện toán đám mây, cảm biến kết nối (IoT), big data, phân tích nâng cao và máy học (machine learning). Bảo trì dự đoán nâng cao hứa hẹn mang lại hiệu quả vận hành và độ tin cậy cao cũng như cải thiện năng suất hoạt động. Mặc dù vẫn còn ở giai đoạn sơ khai nhưng điểm đáng chú ý ở ứng dụng này là khả năng truy cập và kiểm soát quy trình từ xa trong toàn bộ DN. Các giải pháp kỹ thuật số giúp thu thập và phân tích dữ liệu dự đoán sẽ trở nên phổ biến trong tương lai.

Tuy nhiên, với bất kỳ hệ thống số hóa phức tạp nào, dù là một thiết bị đơn lẻ, mạng lưới cảm biến hay lắp đặt toàn doanh nghiệp, bảo mật là một vấn đề cần lưu tâm. Độ phức tạp càng lớn thì càng có nhiều điểm yếu bị bộc lộ. Có nhiều phương pháp để hạn chế rủi ro, trong đó cách tốt nhất là làm việc với các đối tác đáng tin cậy và xây dựng kế hoạch xử lý sự cố khi (nếu) có vi phạm bảo mật.

Nhân lực

Một trong những nguyên nhân chính tạo nên sự do dự khi áp dụng tăng tốc kỹ thuật số rộng rãi là sự thay đổi tại nơi làm việc. Mục đích là chuyển đổi công việc từ thủ công sang kỹ thuật số, giảm các việc lặp lại mang giá trị thấp và nâng cao năng suất của nhân viên. Việc hỗ trợ lao động thông qua thay đổi này đòi hỏi phải có sự tập huấn chuyển đổi quy cách làm việc dành cho nhân viên trong công ty.

Đại dịch đã chứng minh rằng những thay đổi đáng kể trong phương thức làm việc (ví dụ như làm việc tại nhà) có thể mang lại kết quả tích cực. Chủ yếu là "kiểm tra và học hỏi", thực hiện cải cách, thay đổi từ từ dựa theo phương thức cụ thể và làm việc với nhau để thấy được sự thay đổi đang dần có những hiệu quả như mong muốn.

Chuẩn bị cho cuộc khủng hoảng tiếp theo

Các sự kiện có tiềm năng làm gián đoạn kinh doanh đang ngày càng tăng như thời tiết khắc nghiệt, thiên tai, biến đổi khí hậu, tấn công mạng, chiến tranh thương mại và các sự kiện địa chính trị. Điều chắc chắn là các sự kiện này sẽ xảy ra trong tương lai nên dù sớm hay muộn thì chúng ta cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Đầu tư thêm vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số cho phép chúng tôi chuẩn bị tốt hơn, đáp ứng nhanh hơn và hiệu quả hơn với các nhu cầu đang ngày càng thay đổi cũng như các cuộc khủng hoảng và sự gián đoạn kinh doanh trong tương lai. Các công cụ phân tích dữ liệu hiện đang hỗ trợ dự đoán thị trường hoặc xu hướng kinh doanh và nâng cao trải nghiệm của khách hàng.

Hơn nữa, nhiều trung tâm phân phối tự động hóa sẽ giúp cải thiện khả năng quản lý hàng tồn kho, hiệu quả logistics và an toàn lao động. Chúng tôi không ngừng phát triển các giải pháp giúp gia tăng giá trị nhằm hỗ trợ khách hàng nắm bắt được sự tăng tốc kỹ thuật số và đạt được những lợi ích khi làm việc với một đối tác đáng tin cậy.

Việc số hóa chắc chắn sẽ làm gián đoạn các quy trình và đem đến những thay đổi lớn trong văn hóa và phương thức làm việc. Nhưng COVID-19 đã cho chúng ta thấy một sự thật đáng buồn là chi phí gián đoạn do dịch bệnh gây ra còn lớn hơn rất nhiều nếu như không áp dụng số hóa./.

coocaa tạo đột phá trên thị trường tivi thông minh toàn cầu với hệ điều hành mới

Coolita là hệ điều hành đầu tiên do coocaa tự phát triển, mang đến trải nghiệm nhanh, mượt và tiện lợi cho tivi thông minh.

coocaa, một thương hiệu về TV thông minh, nghiên cứu và phát triển, và là hệ thống quản lý nội dung, chính thức ra mắt hệ điều hành đầu tiên do chính hãng phát triển - Coolita – tại sự kiện Coolita Global Launch trực tuyến ngày 1/9.

Có mặt trước tiên tại một số thị trường như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam, hệ điều hành mới sẽ tạo bước ngoặt về trải nghiệm trên TV thông minh, mang đến trải nghiệm nhanh, mượt và tiện dụng cho nhu cầu sử dụng Internet đang rất phổ biến hiện nay. 

Thúc đẩy đổi mới nhằm xóa nhòa khoảng cách

Thị trường TV OTT (cung cấp các dịch vụ qua mạng Internet) đang phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, một phần do đại dịch, một phần do thời gian mọi người xem tivi tại nhà ngày càng tăng. Tuy vậy, tivi thông minh thường có giá thành khá cao bởi đòi hỏi phần cứng và phần mềm phức tạp, do đó nhiều gia đình tại Đông Nam Á đang tìm kiếm những lựa chọn với mức giá phù hợp với túi tiền hơn, mà vẫn có thể thoải mãn nhu cầu của họ với những chương trình giải trí chất lượng như chương trình truyền hình, phim điện ảnh, trò chơi và hơn thế nữa.

Ngoài ra, người sử dụng tivi thông minh đang gặp phải 3 vấn đề chính: tivi thiếu bộ nhớ bởi kích thước của hệ điều hành quá lớn, hệ thống thường hay bị treo, và giao diện sử dụng phức tạp. 

Với những khám phá trên, coocaa chính thức ra mắt Coolita, thương hiệu con tập trung vào giải pháp hệ điều hành tivi và các dịch vụ phát triển, một giải pháp độc quyền để đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.

Hệ điều hành Coolita 1.0: Mang trải nghiệm “Cool & Clear” đến người tiêu dùng

Hệ điều hành Coolita là phiên bản rút gọn của Web OS dựa trên nhân Linux. Coolita đặt mục tiêu mang đến cho người dùng trải nghiệm nhanh, mượt và tiện dụng trên tivi thông minh. Với ý tưởng thiết kế “Cool & Clear”, hệ điều hành Coolita 1.0 mang đến một giao diện tối giản và dễ định hướng.

Hệ điều hành Coolita 1.0 có rất nhiều tùy chọn về chương trình và ứng dụng giải trí để người dùng thoải mái tận hưởng. Ứng dụng YouTube 2021 mới nhất cung cấp những video chất lượng cao, trong khi CC Plus, một nền tảng phát trực tuyến được hỗ trợ bởi hệ điều hành Coolita, mang đến nhiều nội dung giải trí đa dạng, từ toàn cầu cho đến địa phương, thông qua những bản cập nhật theo thời gian thực, đồng thời đưa ra những nội dung đề xuất đã được tối ưu hóa dựa trên sở thích của người dùng.

Với ứng dụng CC Cast, công nghệ độc quyền được phát triển bởi coocaa, người dùng có thể trình chiếu nội dung từ điện thoại Android lên màn hình tivi thông qua kết nối mạng cục bộ (LAN) từ TV, mà không cần đến kết nối Internet hay Wi-Fi. Hệ điều hành cũng được cài sẵn các trò chơi từ đám mây, chương trình duyệt web, cửa hàng ứng dụng và nhiều hơn nữa.

Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng, hệ điều hành Coolita 1.0 cũng được tích hợp nhiều  giải pháp thân thiện, như tính năng tiết kiệm dữ liệu giúp người dùng theo dõi lượng dữ liệu đã dùng theo thời gian thực để quản lý dễ dàng hơn, và chế độ bảo vệ mắt để giúp mắt của người dùng luôn thoải mái và có thể tận hưởng nhiều hơn với trải nghiệm hạn chế ánh sáng xanh.

Ông Raul Hua, Tổng Giám đốc Phát triển Kinh doanh Coolita cho biết: Hệ điều hành mới mang tính cách mạng này là thành quả của sự thấu hiểu sâu sắc về nhu cầu của người tiêu dùng, kết hợp với đội ngũ kỹ thuật có chuyên môn cao và sự kiên định trong việc phổ biến trải nghiệm tivi thông minh đến tất cả mọi người. Thông qua những đổi mới không ngừng và các chương trình hợp tác chiến lược, chúng tôi kỳ vọng tạo ra một hệ sinh thái tivi thông minh lớn hơn và tốt hơn, mang đến những cơ hội hợp tác mới trong ngành, từ đó  tạo thêm nhiều sản phẩm công nghệ tiên tiến và thời thượng để tất cả mọi người trên thế giới có thể tận hưởng”.

Đẩy mạnh hệ sinh thái TV thông minh thông qua các chương trình hợp tác chiến lược

Trong thời gian tới, coocaa và Coolita sẽ tiếp tục mở rộng các chương trình hợp tác chiến lược với những công ty trong nhiều lĩnh vực, từ các nhà cung cấp nội dung, các thương hiệu TV, các nhà cung cấp tính năng thông minh cho đến các công ty IoT, các sàn thương mại điện tử và nhà cung cấp phần cứng, để mang đến những sản phẩm và nội dung chất lượng cao. Qua đó, người dùng trên toàn cầu có thể tận hưởng trải nghiệm giải trí liên tục và sống động.

coocaa S3U: tivi đầu tiên cài đặt Coolita, tái định nghĩa cách thức giải trí tại nhà

Cũng tại sự kiện, TV thông minh đầu tiên trên thế giới cài sẵn hệ điều hành Coolita 1.0 đã ra mắt, với tên gọi coocaa S3U có kích thước 32”, công nghệ Direct View LED (DLED, hay còn gọi là LED nền), độ phân giải 1366x768 điểm ảnh. Với tỉ lệ màn hình 16:9 và 5 chế độ hình ảnh để người dùng tùy chỉnh (Standard, Vivid, Game, Movie và Sports), S3U ứng dụng một loạt công nghệ tăng cường chất lượng hình ảnh giúp chi tiết sắc nét, màu sắc tối ưu và giảm nhiễu để có được hình ảnh chân thực.

Ngoài ra, mẫu TV này cũng mang đến trải nghiệm âm thanh sâu và sống động với hai loa đơn công suất cao 10W, công nghệ âm thanh vòm AES (Audio Enhanced Surround) của coocaa, cũng như các hiệu ứng âm thanh của Dolby Audio.

 TV coocaa S3U sẽ có mặt trên Lazada, ShopeeTiki kể từ hôm nay với mức phải chăng – 4.399.000 đồng. Mức giá này kỳ vọng sẽ thu hẹp khoảng cách về giá giữa TV truyền thống và TV thông minh trên thị trường hiện nay, đồng thời mang đến trải nghiệm TV thông minh tuyệt vời.

Nhằm tri ân sự ủng hộ của người tiêu dùng, coocaa sẽ tổ chức chương trình ưu đãi đặc biệt trên Lazada từ ngày 9/9 đến hết ngày 11/9 để người dùng có thể sở hữu TV coocaa S3U với giá ưu đãi là 3.390.000 đồng.

 HM

Các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp gánh nặng về dữ liệu và khuyến nghị

Dữ liệu của Dell Technologies tại 45 quốc gia cho thấy một “nghịch lý về dữ liệu”: các doanh nghiệp (DN) cho biết họ cần thêm dữ liệu nhưng bản thân họ cũng đang gặp nhiều khó khăn trong việc chiết xuất giá trị từ dữ liệu đang có.

Ảnh minh hoạ

Dell Technologies vừa công bố kết quả từ một nghiên cứu, do hãng ủy quyền cho Forrester Consulting thực hiện, cho thấy hầu hết các doanh nghiệp (DN) tại Việt Nam đang gặp khó khăn khi khối lượng dữ liệu ngày càng tăng.

Thay vì mang đến lợi thế cạnh tranh, dữ liệu trở thành gánh nặng bởi một loạt rào cản như khoảng cách các kỹ năng dữ liệu, kho chứa dữ liệu, các quy trình thủ công, kho lưu trữ nghiệp vụ, cũng như các vấn đề về bảo mật và riêng tư về dữ liệu. “Nghịch lý về Dữ liệu” này phát sinh do khối lượng, tốc độ và sự đa dạng của dữ liệu vượt trội so với khả năng của các DN, công nghệ, nhân lực và quy trình.

 Những phát hiện này dựa trên khảo sát với sự tham gia của 4.000 người có quyền ra quyết định tại 45 quốc gia, và nghiên cứu Bảng Chỉ số Chuyển đổi số của Dell Technologies - một khảo sát đánh giá sự trưởng thành về số hóa của các DN trên toàn cầu. Bảng Chỉ số CĐS gần đây cho thấy vấn đề “Không thể trích xuất các thông tin chi tiết từ dữ liệu và/hoặc quá tải thông tin” chiếm vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng toàn cầu về rào cản chuyển đổi số, tăng 11 bậc so với năm 2016.

Nghịch lý về Nhận thức

73% người tham gia khảo sát từ Việt Nam cho biết DN của họ hoạt động dựa trên dữ liệu và “dữ liệu chính là mạch máu của công ty”. Nhưng chỉ có 18% cho thấy họ xem dữ liệu là yếu tố cốt lõi và sử dụng chúng xuyên suốt hoạt động của DN.

Để làm rõ về nghịch lý này, nghiên cứu đã phác thảo những thước đo khách quan về sự sẵn sàng về dữ liệu của DN.

Những kết quả cho thấy 91% các DN vẫn chưa phát triển đủ công nghệ và quy trình về dữ liệu, cũng như/hoặc văn hóa và kỹ năng về dữ liệu. Chỉ 9% DN được xếp hạng Data Champion: Những công ty thỏa mãn cả hai điều kiện trên (về công nghệ/quy trình và văn hóa/kỹ năng).

Nghịch lý “Mong muốn vượt xa Khả năng”

Theo nghiên cứu cho thấy, 76% DN cho biết họ thu thập thông tin nhanh hơn khả năng phân tích và sử dụng, tuy vậy, 67% DN cho rằng họ cần nhiều dữ liệu hơn khả năng hiện tại.

54% DN bảo vệ một lượng lớn dữ liệu của họ ở các trung tâm dữ liệu mà họ sở hữu hoặc kiểm soát, cho dù có nhiều minh chứng về lợi ích của việc xử lý dữ liệu tại vùng biên (nơi dữ liệu được thu thập)

Lãnh đạo chưa chú trọng vào dữ liệu: 74% DN cho rằng ban giám đốc vẫn chưa có những động thái hỗ trợ cụ thể để phục vụ cho chiến lược dữ liệu và phân tích của DN.

Chiến lược CNTT chưa phù hợp: 49% DN đang tập trung vào các hồ dữ liệu (data lake) mà chưa xem xét đến việc chuẩn hóa những gì đang có

Do vậy, sự bùng nổ của dữ liệu đang khiến công việc của nhiều DN trở nên khó khăn thay vì ngược lại: 71% DN than phiền họ sở hữu nhiều dữ liệu đến mức không thể đáp ứng các yêu cầu về bảo mật và quy định, trong khi đó 70% cho rằng các đội nhóm làm việc đang quá tải bởi lượng dữ liệu đang có.

Ông Vũ Trần, Giám đốc Điều hành, Dell Technologies Việt Nam cho biết: “Trong thời điểm các DN đang phải chịu áp lực lớn trong việc CĐS để tăng tốc dịch vụ khách hàng, họ cần phải kết hợp hài hòa giữa việc thu thập thêm dữ liệu, đồng thời khai thác những dữ liệu hiện hữu. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, 39% doanh nghiệp cho rằng dịch bệnh đang gia tăng lượng dữ liệu họ cần thu thập, lưu trữ và phân tích. Trở thành một doanh nghiệp hoạt động dựa trên dữ liệu là một chặng đường dài và họ sẽ cần đến những chỉ dẫn trong suốt cuộc hành trình này”.

Paradox Nghịch lý “thấy nhưng không làm”

Trong 18 tháng qua, lĩnh vực theo yêu cầu (on-demand) đã và đang mở rộng, từ đó bắt đầu cho một làn sóng mới của các DN sử dụng dữ liệu, dữ liệu ở bất kỳ đâu. Tuy nhiên, số DN đã chuyển phần lớn ứng dụng và cơ sở hạ tầng sang mô hình Như một Dịch vụ (as-a-Service) vẫn chiếm rất ít (24%). Mặc dù: 72% DN nhìn thấy cơ hội mở rộng để thay đổi nhu cầu của khách hang; 56% tin rằng việc này sẽ thúc đẩy doanh nghiệp phát triển nhanh hơn; 54% dự đoán các DN sẽ có thể cung cấp các ứng dụng nhanh chóng và đơn giản (chỉ bằng một nút nhấn)

Mô hình theo yêu cầu sẽ giúp 78% các DN hiện đang vướng phải với một trong hai hoặc tất cả các rào cản sau đây để nắm bắt, phân tích và có hành động tốt hơn trên dữ liệu như: Chi phí lưu trữ cao; kho dữ liệu chưa được tối ưu hóa; hạ tầng CNTT lạc hậu; các quy trình quá thủ công để đáp ứng nhu cầu của DN.

Chuyển đổi gánh nặng dữ liệu thành lợi thế

Mặc dù hiện nay các DN đang gặp nhiều khó khăn, nhưng rất nhiều DN đã có những kế hoạch để tạo ra một tương lai tươi sáng hơn: 53% dự định triển khai máy học ML để tự động hóa quá trình phát hiện dữ liệu bất thường, 54% mong muốn chuyển sang mô hình dữ liệu như một dịch vụ (data-as-a-service) và 38% dự định xem xét sâu hơn về hiệu suất của các tủ đĩa để tái cấu trúc cách họ xử lý và sử dụng dữ liệu trong vòng 1 đến 3 năm tới.

Theo đó, Dell khuyến nghị ba cách các DN có thể chuyển đổi gánh nặng dữ liệu thành lợi thế, đó là: Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng CNTT để đáp ứng được yêu cầu của dữ liệu tại vùng biên. Sự kết hợp này mang hạ tầng và ứng dụng của doanh nghiệp đến gần hơn nơi dữ liệu cần được thu thập, phân tích và đưa ra quyết định hành động – đồng thời tránh tràn dữ liệu bằng cách duy trì mô hình hoạt động đa đám mây đồng nhất; Tối ưu hóa “ống” dẫn dữ liệu để dữ liệu có thể “chảy” tự do và an toàn trong khi được tăng cường bởi công nghệ AI/ML.

ND

Nền kinh tế số sẽ đóng góp 1.000 tỷ USD cho GDP ASEAN

Cuộc khủng hoảng Covid-19 đã đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ số. ASEAN dự đoán nền kinh tế số sẽ đóng góp 1.000 tỷ USD cho GDP khu vực. Dữ liệu của bên thứ ba cho thấy 132% dân số ở Đông Nam Á có kết nối di động, 463 triệu người sử dụng Internet. 

 

Tại Diễn đàn Nikkei-ISEAS về thương mại kỹ thuật số ở Đông Nam Á và ASEAN tập hợp các nhà lãnh đạo trong khu vực bao gồm Bộ Điều phối các Vấn đề Kinh tế, Indonesia, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), ISEAS, Công ty tư vấn Honey và Huawei, ông Choi Shing Kwok, Giám đốc kiêm CEO, ISEAS - Viện Yokof Ishak nhận định: "Thương mại kỹ thuật số là một động lực đầy hứa hẹn cho thương mại của ASEAN, vốn đi hàng đầu trong đại dịch COVID-19 và chúng tôi hy vọng sẽ thắng thế sau đại dịch. Bằng cách giảm chi phí thương mại và tăng năng suất, các công nghệ số như IoT, AI và in 3D có thể tăng tốc độ tăng trưởng của thương mại ở các nước đang phát triển, bao gồm cả trong khu vực ASEAN, với 2,5 điểm phần trăm mỗi năm hoặc 22,5 điểm phần trăm từ 2021 đến 2030.

Có rất nhiều thỏa thuận thương mại khác nhau kết nối khu vực. Tầm quan trọng của sự hợp tác xây dựng hệ sinh thái thương mại kỹ thuật số đã được các đại biểu công nhận tại diễn đàn này.

Là một nhà ban hành chính sách, TS. Rudy Salahuddin, Thứ trưởng Bộ Kinh tế Kỹ thuật số, Nhân lực và SME phối hợp, Bộ Kinh tế Indonesia, đã nêu rõ vai trò quan trọng của thương mại kỹ thuật số đang thúc đẩy nền kinh tế số, đặc biệt là trong việc phục hồi kinh tế. Ông cũng đề cập đến những thách thức của ASEAN trong khoảng cách cơ sở hạ tầng ICT và tỷ lệ ứng dụng ICT không đồng đều, trong đó các đối tác ICT bao gồm cả Huawei có thể hỗ trợ.

Ông Craig Burchell, Phó Chủ tịch cao cấp của các vấn đề thương mại toàn cầu của Huawei chia sẻ: "Thương mại kỹ thuật số tạo ra các cơ hội vàng để hỗ trợ các mục tiêu chung như phục hồi kinh tế khu vực và giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu". Ông đã đề cập đến bản báo cáo về "Chi phí đảo ngược toàn cầu hóa thế giới thương mại" như là một tín hiệu cảnh báo về việc tách rời tương quan, và kêu gọi sự hợp tác mạnh mẽ hơn cùng chính sách "Công nghệ cho Tất cả" để tối ưu hóa các dịch vụ số, như 5G, Cloud và AI, để cho phép các cơ hội kinh doanh mới.

Cần có những phát triển hơn nữa trên mặt trận thống kê để phát triển một thước đo có ý nghĩa về thương mại kỹ thuật số, Annabelle Mourounege, Trưởng bộ phận thương mại và năng suất tại OECD, cho rằng, "Điều này sẽ hỗ trợ phân tích dựa trên bằng chứng và thông báo các lựa chọn đầu tư của công ty và chính sách. Tất cả các nhân tố, bao gồm các nhà cung cấp dịch vụ công nghệ và CNTT, cần phải tham gia vào trong môi trường thay đổi rất nhanh này. Sách trắng về Thương mại số của Huawei trong vấn đề này có rất nhiều sự đóng góp hữu ích cho cuộc tranh luận này.

Stephanie Honey, Giám đốc của Công ty Tư vấn Honey, lưu ý rằng mặc dù Đông Nam Á có cộng đồng kinh doanh kỹ thuật số và thị trường tiêu dùng sôi động, các quy tắc thương mại phân mảnh trong khu vực và bên ngoài đã khiến các doanh nghiệp không thể nhận ra tiềm năng đầy đủ của nền kinh tế số. Sẽ rất cần có sự hợp tác, linh hoạt và sự tham gia đa bên trong việc phát triển các quy tắc thương mại kỹ thuật số mới và để tích hợp các phương pháp tiếp cận trên nhiều nền kinh tế càng tốt. Có rất nhiều thỏa thuận sáng tạo trong khu vực có thể được sử dụng như là mô hình, trong đó có Hợp tác kinh tế số giữa Singapore, New Zealand và Chile.

Tập trung các quy định xuyên suốt để tạo điều kiện cho nền kinh tế số

Tại diễn đàn, ý tưởng thúc đẩy hơn nữa các chính sách thương mại kỹ thuật số mở, toàn diện đã được các diễn giả công nhận. Theo TS. Rudy Salahuddin, các nhà hoạch định chính sách được đề xuất trên toàn khu vực nên tập trung vào các quy định xuyên suốt để tạo điều kiện cho nền kinh tế số và đảm bảo chia sẻ công bằng lợi ích của thương mại số, với các chính sách bao gồm việc tạo thuận lợi cho thương mại, quản lý dữ liệu, bảo mật, hậu cần và an ninh mạng.

Với sự khác biệt về cách tiếp cận giữa các nền thương mại lớn nhất thế giới trên một số chủ đề kỹ thuật số, Craig Burchell nhấn mạnh: "Cần có sự hợp tác mạnh mẽ hơn về các quy định mới và quản trị tốt hơn của hệ sinh thái kỹ thuật số toàn cầu, điều này sẽ được hưởng lợi từ cách tiếp cận toàn diện nhằm theo đuổi sự tồn tại đồng thời và khả năng tương tác hơn là hội tụ".

ND

TikTok - Kể chuyện thương hiệu theo cách riêng

Người dùng trở thành nhà sáng tạo nội dung. Video gần gũi, chân thực khiến người xem "quên" rằng mình đang xem quảng cáo... TikTok đang kể những câu chuyện thương hiệu theo một cách riêng như thế!

Biểu tượng TikTok. Ảnh THX/TTXVN

Đứng đầu về lượt tải cả trên App Store và Google Play, TikTok chưa bao giờ hết "hot" tại Việt Nam, nhất là với đối tượng thuộc thế hệ gen Z (những người sinh sau năm 1995). Với lượng phủ sóng từ những người nổi tiếng, đến các chị nội trợ, dân văn phòng, học sinh, sinh viên…, TikTok đã khẳng định thành công với những chiến lược marketing độc đáo.

Bình dân hóa marketing

Theo đại diện TikTok, nền tảng này từng có clip quảng cáo đạt nửa tỷ view (lượt xem) chỉ trong vòng 2 tuần. Đây là một con số đáng gờm đối với các chiến dịch quảng bá thương hiệu trên mạng xã hội. Với TikTok, phải những cá nhân hoặc doanh nghiệp nào đã từng trải nghiệm thì mới biết khả năng lan tỏa của các video thú vị hay "hashtag challenge" (hashtag thử thách - một hình thức marketing chỉ xuất hiện trên TikTok) ấn tượng đến mức nào.

TikTok dường như ghi điểm tuyệt đối với gen Z, một thế hệ ưa thích sự sáng tạo và thể hiện cá tính bản thân trên mạng xã hội. Từ những đoạn nhạc bắt tai cùng kho hiệu ứng thú vị, TikTok tạo ra một nơi để mọi người thoải mái chia sẻ video ngắn về bản thân, sở thích cá nhân, thậm chí chỉ là những điều ngớ ngẩn.
Được ưu ái hơn cả trong số các mạng xã hội hiện nay cũng bởi TikTok đã đánh trúng tâm lý “thích xem lười đọc” của đại đa số người dùng. Các video ngắn chỉ từ 15 đến 30 giây (nay có thể mở rộng tới 3 phút) đủ giữ chân người xem giải trí, ngay cả những người "cả thèm chóng chán".

TikTok dường như ghi điểm tuyệt đối với gen Z, một thế hệ ưa thích sự sáng tạo và thể hiện cá tính bản thân trên mạng xã hội. Nguồn: TikTok

Chưa dừng lại tại đó, TikTok còn cho phép người dùng tạo ra những video tương tác cùng bạn bè và cả thần tượng, người nổi tiếng. Đây là cách mà "hashtag challenge" vận hành. Nhãn hàng khởi động hashtag challenge với video nhạc bắt tai do những người nổi tiếng dẫn đầu tạo trào lưu và kêu gọi người dùng tham gia thử thách.
Bằng những công cụ hết sức đơn giản, từ trẻ nhỏ tới người lớn, từ những người công nhân tới dân văn phòng đều có thể tự sáng tạo nội dung và thực hiện thử thách với hashtag challenge. Các video như vậy thường gần gũi, chân thực khiến người tiêu dùng không còn nghĩ rằng họ đang xem quảng cáo, kéo về hàng triệu lượt theo dõi, tương tác cho nhãn hàng, giúp tăng độ nhận diện thương hiệu, tạo hiệu ứng tốt mà không tốn quá nhiều chi phí.

Chiến lược "bình dân hóa" marketing này của TikTok đã thu lại kết quả đáng kinh ngạc với độ phủ lớn tại thị trường Việt Nam và trên thế giới.

Thử thách hashtag #donnghiepthoate - “dọn nghiệp thoát ế” được TikTok và Sunsilk tung ra vào dịp Tết Nguyên đán 2019. Nguồn: Tik Tok

Nhìn lại một trong những hashtag challenge từ thời đầu TikTok mới xuất hiện tại Việt Nam, đó là thử thách hashtag #donnghiepthoate - “dọn nghiệp thoát ế” được TikTok và Sunsilk tung ra vào dịp Tết Nguyên đán 2019. Nội dung thử thách nhằm khuyến khích người dùng “dọn dẹp" xui xẻo, cầu mong may mắn và đón chào năm mới tươi sáng. Thực hiện thử thách này, người chơi sẽ sử dụng sticker và đoạn nhạc “Dọn nghiệp” để tạo ra những video “Thoát ế” độc đáo cho riêng mình.

Tại thời điểm đó "ế" hay "nghiệp" đều là những từ khóa quen thuộc của giới trẻ trên mạng. Nhờ đó, chiến dịch đã thu được khoảng 9 triệu lượt hiển thị trong vòng một tuần, gấp 2 lần so với con số trung bình khi tiếp cận qua kênh quảng cáo truyền thống. Sunsilk đã phủ sóng hơn 30.000 video và 24 triệu lượt xem trên nền tảng TikTok với hashtag #donnghiepthoate.

Nhiều nhãn hàng khác ở Việt Nam cũng đã lấn sân qua TikTok với những chiến dịch nổi trội như #traoyeuthuong, #bikipthathinh, #duyendangaodai…

Tập trung vào "miếng bánh lớn" SME và Startup

Ra mắt vào giữa năm 2020, nền tảng dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) và doanh nghiệp khởi nghiệp (startup) Việt muốn quảng bá thương hiệu, sản phẩm TikTok For Business đã nhận rất nhiều ánh mắt nghi ngờ của giới làm kinh doanh. Bởi, trong suy nghĩ của nhiều người, TikTok là mạng xã hội dành cho các bạn trẻ gen Z, chỉ dùng để giải trí chứ không phải nơi buôn bán.

Tuy nhiên, chính gen Z lại dần trở thành đối tượng mà rất nhiều doanh nghiệp hướng tới. Thực tế, nhiều SME như Fika, Genify Studio, OKXE hay Zera Vietnam cũng bắt đầu tìm đến nền tảng này để quảng bá.

Theo đại diện TikTok, thị trường quảng cáo trực tuyến đang chào đón hàng loạt SME và startup với sự đột phá trong tư duy tiếp thị. Trong đó, video dạng ngắn trở thành điểm sáng của những chiến dịch marketing hiện đại. Với TikTok, SME có thể phát triển trên thị trường nhờ nội dung quảng cáo đảm bảo đúng 3 yếu tố ngắn, nhanh và thu hút mà không cần sở hữu một đội ngũ sản xuất hùng hậu hay kỹ thuật quay dựng phức tạp.
Bên cạnh việc tạo ra một nền tảng tiềm năng cho truyền thông sáng tạo, TikTok trong cả năm qua đã "thực chiến" cùng doanh nghiệp khi đưa ra cơ hội tạo chiến dịch quảng cáo với ngân sách chỉ từ 200.000 đồng. Đối với nhiều doanh nghiệp, chính sách này là điều kiện thuận lợi nếu họ còn hạn chế về vốn đầu tư và cách thức tìm kiếm khách hàng.
Tại Việt Nam, SME là "xương sống" của nền kinh tế khi chiếm đến 97% số doanh nghiệp, đóng góp 45% vào tổng GDP năm 2020 và thu hút hơn 85% lực lượng lao động tính trong năm 2020. Tuy nhiên, theo thống kê của VCCI vào tháng 3/2021, 87,2% SME tại Việt Nam bị ảnh hưởng tiêu cực bởi đại dịch COVID-19.
Những nội dung quảng cáo sáng tạo, gần gũi nhưng sở hữu lượt tương tác "khủng" của SME Việt Nam. Nguồn: Tik Tok

Theo đại diện TikTok, thị trường quảng cáo trực tuyến đang chào đón hàng loạt SME và startup với sự đột phá trong tư duy tiếp thị. Trong đó, video dạng ngắn trở thành điểm sáng của những chiến dịch marketing hiện đại. Với TikTok, SME có thể phát triển trên thị trường nhờ nội dung quảng cáo đảm bảo đúng 3 yếu tố ngắn, nhanh và thu hút mà không cần sở hữu một đội ngũ sản xuất hùng hậu hay kỹ thuật quay dựng phức tạp.

Bên cạnh việc tạo ra một nền tảng tiềm năng cho truyền thông sáng tạo, TikTok trong cả năm qua đã "thực chiến" cùng doanh nghiệp khi đưa ra cơ hội tạo chiến dịch quảng cáo với ngân sách chỉ từ 200.000 đồng. Đối với nhiều doanh nghiệp, chính sách này là điều kiện thuận lợi nếu họ còn hạn chế về vốn đầu tư và cách thức tìm kiếm khách hàng.

Tại Việt Nam, SME là "xương sống" của nền kinh tế khi chiếm đến 97% số doanh nghiệp, đóng góp 45% vào tổng GDP năm 2020 và thu hút hơn 85% lực lượng lao động tính trong năm 2020. Tuy nhiên, theo thống kê của VCCI vào tháng 3/2021, 87,2% SME tại Việt Nam bị ảnh hưởng tiêu cực bởi đại dịch COVID-19.

Tháng 4/2021, TikTok đã chính thức ký hợp tác chiến lược với Hiệp hội Thương mại Điện tử Việt Nam (VECOM) nhằm hỗ trợ nâng cao kỹ năng tiếp thị video dạng ngắn cho các doanh nghiệp thành viên của VECOM, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế số tại Việt Nam.

Bước đi này nhằm hiện thực 1 trong 3 trọng tâm phát triển của TikTok. Theo đó, năm 2021, TikTok đầu tư nguồn lực hỗ trợ SME thông qua 3 trọng tâm là hợp tác chiến lược với các trung tâm, tổ chức uy tín; đầu tư nguồn tài nguyên để trao quyền cho SME chủ động tìm hiểu thông tin và biết cách sử dụng tính năng tự quảng cáo trên TikTok for Business và đầu tư nâng cao năng lực, nhân 3 số lượng đội ngũ chuyên gia người Việt của TikTok tại Việt Nam so với năm 2020 để có thể hỗ trợ SME nhanh nhất./.

Nguồn: Lê Phương (Tổng Hợp)/bnews.vn

https://bnews.vn/tiktok-ke-chuyen-thuong-hieu-theo-cach-rieng/206364.html

COVID-19 làm tăng nhu cầu về mua sắm điện tử trong hoạt động bảo trì, sửa chữa và vận hành

Tác động từ đại dịch Covid-19 và sự khủng hoảng về con người lên các tổ chức và người dân Việt Nam cũng như các đối tác, nhà cung cấp và khách hàng của họ trên toàn thế giới, và cả nền kinh tế quốc gia sẽ còn tiếp diễn và kéo dài trong thời gian tới. Các tổ chức ở Việt Nam đã và đang phải chuyển sang các mô hình kinh doanh mới nhằm giải quyết một mặt là nhu cầu tăng đột biến, mặt khác là tình trạng suy giảm đơn đặt hàng.

Nhìn chung, giãn cách xã hội đồng nghĩa với việc mọi người phải làm quen với những thay đổi tại nơi làm việc và các trang thiết bị bảo vệ cá nhân như khẩu trang, kính chắn giọt bắn và găng tay, hiện đang được sử dụng rộng rãi. Thậm chí trong làn sóng covid gần đây nhất, chúng ta đã chứng kiến các khu lều trại được dựng lên bên trong các nhà máy thiết yếu để giảm nguy cơ tiếp xúc với nguồn lây nhiễm cho người lao động.

Các chuỗi cung ứng đang phải chịu áp lực chưa từng có từ việc đóng cửa biên giới, gián đoạn ngành hàng không và tình trạng khó khăn của nhà cung cấp. Việc các tỉnh thiết lập các trạm kiểm soát trong thời gian gần đây cũng làm gián đoạn giao thông giữa các cảng và nhà máy. Những thách thức này đã tạo động lực mới và thúc đẩy việc áp dụng công nghệ kỹ thuật số và cùng với việc giải quyết các vấn đề trước mắt, sẽ mang lại lợi ích lâu dài cho hoạt động mua sắm Bảo trì, Sửa chữa và Vận hành trong tương lai.

Trên khắp các ngành công nghiệp ở Việt Nam, đội ngũ chuyên viên thu mua đang tạo dựng mối quan hệ bền chặt hơn với các nhà cung cấp, hợp tác và khai thác kiến thức của họ để mang lại giá trị cho tất cả các bên. Các công cụ mua sắm số cũng giúp tiết kiệm đáng kể thời gian và tiền bạc.

Ngoài ra, trong hoàn cảnh giãn cách xã hội và làm việc từ xa như hiện nay, các công cụ này cũng cho phép người mua tìm kiếm và truy cập một cách thuận tiện vào nhiều loại sản phẩm và hệ thống đặt hàng hợp lý.

Xử lý kém hiệu quả

Theo Báo cáo năm 2020 về Mua sắm gián tiếp - Hướng đi cho MRO, do RS Components và Viện Chartered về Mua sắm & Cung ứng (CIPS) soạn thảo, một trong những thách thức lớn nhất trong việc kiểm soát hoạt động mua sắm là thiếu tính minh bạch trong chi tiêu (42%).

Chi phí gián tiếp là một phần tất yếu của hoạt động mua sắm. Thế nhưng chúng ta cũng cần xem xét đến cả khía cạnh thời gian phải bỏ ra để nghiên cứu sản phẩm, tìm kiếm nguồn cung sản phẩm, thương lượng giá cả và sắp xếp giao hàng. Tiếp đó là thời gian để xin phê duyệt nội bộ, gửi đơn đặt hàng và xử lý hóa đơn.

Eileen Yap, Giám đốc Quốc gia của RS Components phụ trách mảng Xuất khẩu khu vực Singapore và Đông Nam Á, cho biết “Các công ty có những thông lệ mua sắm đột xuất rất khác nhau. Có những doanh nghiệp (DN) đưa ra hàng trăm hoặc hàng nghìn đơn đặt hàng mỗi năm cho các sản phẩm giá trị thấp mà không thực sự hiểu hay thấy rõ rằng cách thức mua hàng này làm phát sinh khá nhiều chi phí ẩn.”

Tuy nhiên, vẫn có những cách để giảm đáng kể con số này. Dựa trên cái nhìn tổng thể về quy trình mua sắm gián tiếp, RS có thể đưa ra các giải pháp giúp tiết kiệm thời gian có thể định lượng được - và do đó, tiết kiệm tiền bạc.

Nhu cầu số hóa

RS có thể đề xuất các công cụ kỹ thuật số từ Hệ thống mua sắm điện tử eProcurement để giảm các chi phí này. Đơn cử, một nhà sản xuất bánh kẹo nổi tiếng đã tiết kiệm được hơn 40.000  USD mỗi năm cho chi phí mua sắm gián tiếp (tương đương với 3,7 tuần làm việc) khi áp dụng một trong các giải pháp mua sắm kỹ thuật số của RS.

Bà Yap tin rằng đại dịch COVID-19 đã có tác động đáng kể đến số lượng doanh nghiệp đang tìm kiếm các giải pháp mua sắm điện tử: “Chúng tôi đã chứng kiến sự gia tăng lớn về nhu cầu số hóa - các DN đến với chúng tôi vì chuỗi cung ứng hiện tại của họ không thể đáp ứng yêu cầu của chính họ do không có dịch vụ kỹ thuật số.”

Một trong những giải pháp mua sắm của RS là công cụ quản lý đơn hàng miễn phí dựa trên web có thể hợp lý hóa quy trình mua hàng mà không cần phải đầu tư nâng cấp hệ thống hoặc phần mềm CNTT. Đây là một hệ thống tự quản lý có thể được thiết lập nhanh chóng và không yêu cầu nhiều nỗ lực để đào tạo nhân viên.

Để phục hồi sau đại dịch COVID-19, Việt Nam sẽ cần đẩy mạnh áp dụng các phương pháp và công nghệ 5G và 4.0, và sự tiện lợi của các công cụ trực tuyến và dựa trên web sẽ ngày càng trở thành trọng tâm trong các quy trình mua sắm.

Giải pháp cho mọi loại hình kinh doanh

Cũng như việc tự động hóa các khâu chính của quy trình mua hàng, các giải pháp Mua sắm điện tử cho phép nhân viên ra đơn hàng, dưới sự kiểm soát đặc biệt, với một bộ công cụ báo cáo quản lý trực tuyến đầy đủ. Đây là một công cụ linh hoạt đáp ứng nhu cầu của nhiều loại hình kinh doanh khác nhau.

Các giải pháp đa năng có thể được thiết lập trong hệ thống của một doanh nghiệp nhỏ và có thể cung cấp những chức năng tương đương với việc DN đầu tư đáng kể vào một hệ thống mua hàng tốn kém. Các giải pháp này cũng có thể được sử dụng trong hệ thống của một doanh nghiệp lớn trên nhiều địa điểm cho người dùng cuối ở khắp mọi nơi, cung cấp khả năng truy cập nhanh tới hơn 500.000 hạng mục tại RS theo cách thân thiện với người dùng và cho phép loại bỏ nhiều lớp quy trình.

Trong tình hình giãn cách xã hội và làm việc từ xa như hiện nay, các giải pháp mua sắm của RS và dịch vụ thuê ngoài đang giúp các tổ chức và DN ở khắp nơi trên thế giới hợp lý hóa các quy trình tại chỗ hoặc từ xa.

Các chức năng báo cáo nâng cao cho phép người dùng thực hiện phân tích chi tiêu, ở bất kỳ bộ phận nào trong DN. Điều này cung cấp hiểu biết về các xu hướng nổi bật cũng như hiệu quả hoạt động của DN.

Ví dụ, một công ty tiện ích lớn ở miền nam nước Anh với nhiều người dùng từ xa thực hiện việc mua hàng hóa giá trị thấp thông qua mạng lưới quầy giao dịch đã hợp tác với RS Components để chuyển đổi hoạt động mua sắm MRO của mình. Công ty giành lại quyền kiểm soát trong hoạt động mua sắm các mặt hàng có giá trị thấp, luân chuyển nhanh thông qua các công nghệ và giải pháp của RS, thậm chí trong một số trường hợp không cần sử dụng đến máy tính.

Yap cho biết nhiều công ty đang tìm cách số hóa các hoạt động mua sắm như thế này. Cô nói: “Họ nhận ra rằng giờ là lúc để xem xét các giải pháp có thể giúp nhân viên tập trung vào việc duy trì hoạt động kinh doanh, thay vì lo lắng về việc sẽ mua mấy con ốc vít từ đâu”.

Các giải pháp kỹ thuật số này đang tạo ra sự khác biệt cho các DN trên thế giới và là những đổi mới mà Việt Nam có thể hướng tới. 

ND

Nền kinh tế số là cách để vượt qua sự gián đoạn do COVID-19

Những diễn giả tham gia hội thảo trực tuyến với chủ đề “Thúc đẩy nền kinh tế số để hội nhập toàn diện ở châu Á - Thái Bình Dương - Kết nối các ngành kỹ thuật số trong đại dịch” tổ chức ngày 29/7 đã kêu gọi tận dụng các cơ hội kỹ thuật số để xây dựng một hệ sinh thái hòa nhập và thúc đẩy hội nhập khu vực, là điều đặc biệt quan trọng trong khi vẫn chống lại đại dịch.

Kinh tế số thúc đẩy khả năng phục hồi trong bối cảnh đại dịch

 Nền kinh tế số ngày càng được coi là cách để vượt qua sự gián đoạn do COVID-19 gây ra. Các đại diện và các nhà lãnh đạo tư tưởng từ các lĩnh vực chính phủ, ngành và học thuật trên khắp Châu Á - Thái Bình Dương đã tham gia một buổi thảo luận trực tuyến do Huawei tổ chức để khám phá nhiều khía cạnh của nền kinh tế số, từ quan điểm thị trường, công nghệ, tính toàn diện và tính bền vững.

Đại sứ Indonesia tại Trung Quốc Djauhari Oratmangun đã chỉ ra trong bài phát biểu của mình rằng một nền kinh tế số mới đang định hình khu vực. “Chuyển đổi số đã được đẩy nhanh đáng kể trong thời kỳ đại dịch, đẩy nhanh các thay đổi trong kinh doanh. Indonesia nỗ lực mở rộng nền kinh tế số để phục hồi xã hội và chuyển đổi số.  Tôi rất muốn chứng kiến ​​cách Huawei gia tăng giá trị khi đối mặt với quá trình số hóa đang phát triển nhanh chóng,” ngài Đại sứ nói.

Dựa trên kiến ​​thức kỹ thuật số và cơ sở hạ tầng, nền kinh tế số đã hỗ trợ tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP khu vực và thúc đẩy khả năng phục hồi trong bối cảnh đại dịch. ASEAN dự báo nền kinh tế số sẽ đóng góp 1.000 tỷ USD vào GDP khu vực theo năm.

Các quốc gia trong khu vực đã đưa ra các lộ trình định hướng tương lai về việc gỡ bỏ các rào cản thương mại, cải thiện phạm vi phủ sóng kỹ thuật số và đảm bảo khả năng tiếp cận phổ biến đối với các dịch vụ số để tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai nền kinh tế số.

“Sự phát triển của hệ sinh thái kinh tế số là một quá trình có sự tham gia tích cực của nhiều bên liên quan, bao gồm cả những người từ các khu vực tư nhân. Chúng tôi hoan nghênh sáng kiến ​​của Huawei trong việc tổ chức cuộc đối thoại này để vận động thiết thực cho quá trình này ”, TS. Lê Quang Lan, Trợ lý Giám đốc Bộ phận CNTT và Du lịch, Ban Thư ký ASEAN cho biết khi đề cập đến việc tạo điều kiện cho một hệ sinh thái kinh tế số để đẩy nhanh quá trình phục hồi xã hội và hội nhập khu vực.

Là một phần của hệ sinh thái, Huawei cam kết thực hiện Kế hoạch tổng thể kỹ thuật số của ASEAN 2025 trong ba lĩnh vực chính, đó là kết nối ICT, trao quyền cho nhân tài và ươm tạo hệ sinh thái, theo Jay Chen, Phó Chủ tịch Huawei Châu Á - Thái Bình Dương. Nền kinh tế số đang hình thành trong khu vực sẽ giải quyết khả năng tiếp cận toàn diện với dịch vụ số, bối cảnh tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quy mô khởi nghiệp và một nền kinh tế tuần hoàn, bền vững.

 Số hóa không chỉ là về tiến bộ công nghệ

 TS. Tan Khee Giap, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Singapore về Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (SINCPEC), nhấn mạnh tầm quan trọng của những cân nhắc xã hội về số hóa nền kinh tế trong cuộc thảo luận giữa các chuyên gia.

“Số hóa không chỉ là về tiến bộ công nghệ, mà việc trao quyền về chất lượng của số hóa cho công chúng nói chung là điều tối quan trọng nếu muốn đạt được sự gắn kết rộng rãi. Vai trò của chính phủ là cung cấp năng lực kỹ thuật số như một hàng hóa công cộng, nó có thể được bổ sung bởi các công ty ICT khu vực tư nhân như Huawei với kết nối chất lượng.”

 TS. Alvin P. Ang từ Đại học Ateneo de Manila đồng ý với cách tiếp cận cởi mở về nâng cao kỹ năng cho công chúng với kiến ​​thức kỹ thuật số. “Hệ thống giáo dục phải đặt trong bối cảnh các yếu tố nền tảng của số hóa. Dù là ở trình độ học vấn cơ bản hay ở lứa tuổi trung niên hay những người đã đi làm, hãy cố gắng học hỏi và nâng cấp bản thân. Chúng ta phải đầu tư vào họ và tạo cơ hội cho các vùng nông thôn của chúng ta bắt kịp bằng cách ít nhất cung cấp cho họ những kỹ năng cơ bản để vượt qua xa lộ công nghệ,” ông Alvin nhấn mạnh.

Huawei từ lâu đã nhận ra tầm quan trọng của việc cung cấp cho tất cả mọi người các kỹ năng kỹ thuật số và không để ai bị bỏ lại phía sau khi các nền kinh tế số hóa. Trong những năm qua, Huawei đã triển khai nhiều chương trình để đào tạo hơn 100.000 người có năng lực ICT trong khu vực với sự hợp tác của các chính phủ, trường đại học và các tổ chức phi chính phủ.

Chia sẻ về quan điểm kinh doanh, GS. Jose Decolongon, COO & Giám đốc điều hành Corporate Foresight, Embiggen Consulting Philippines, cho biết: “Các doanh nghiệp (DN) siêu nhỏ, nhỏ và vừa cần hiểu biết về số hóa để nhận thức các cơ hội khi khám phá khía cạnh kỹ thuật số của DN. Những thách thức mà các DN đối mặt cũng giống như như các tổ chức lớn khác. Nó liên quan đến phạm vi phủ sóng và tốc độ của cơ sở hạ tầng số. Đây là nơi mà các công ty viễn thông như Huawei và các công ty địa phương của chúng ta có thể đóng một vai trò quan trọng."

Đối với một hệ sinh thái kinh tế số bền vững, các công nghệ mới như 5G, Internet vạn vật (Internet of Things) và Đám mây (Cloud) mang lại nhiều hứa hẹn về việc tăng cường khử carbon và nền kinh tế tuần hoàn. Tại Châu Á - Thái Bình Dương, Huawei đã tăng cường đầu tư vào các giải pháp xanh bền vững, tận dụng sản xuất điện sạch, giao thông vận tải điện và lưu trữ năng lượng thông minh.

Xu hướng bền vững này đang được nắm bắt tại Việt Nam. “Việt Nam đang ở giai đoạn bước ngoặt để bắt kịp cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nền kinh tế của chúng tôi rất cởi mở, tập trung hơn vào đổi mới sáng tạo và bền vững. Và chuyển đổi số ở Việt Nam gắn với hội nhập toàn diện ở ASEAN và Châu Á - Thái Bình Dương”, ông Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh nhấn mạnh.

 “Năm năm tới có thể chứng kiến ​​khu vực ASEAN đạt được những bước tiến khổng lồ hướng tới trở thành một xã hội kỹ thuật số và sự chuyển đổi sẽ cho phép các quốc gia thành viên phục hồi nhanh hơn sau đại dịch. Huawei, cùng với các đối tác ASEAN, cam kết thúc đẩy Kế hoạch Tổng thể Kỹ thuật số ASEAN 2025 và tạo ra giá trị mới cho cộng đồng kỹ thuật số và khối kinh tế hàng đầu”, ông Jay cho biết.

 ND

Mobile Money hướng tới bình dân hoá giữa bối cảnh Covid-19

Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, việc đẩy nhanh tốc độ triển khai Mobile Money để hỗ trợ cho phổ cập thanh toán không dùng tiền mặt đang được Chính phủ đặt mức ưu tiên cao.

Sau quá trình thẩm định và yêu cầu bổ sung hồ sơ, mới đây ngày 20/7/2021 Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã hoàn thành bổ sung và trình lại hồ sơ cho các cơ quan chức năng. Việc sớm đưa Mobile Money vào đời sống đang được kỳ vọng là giải pháp tích cực giúp thích ứng với tình hình dịch bệnh hiện nay tại Việt Nam.

Mobile money được tích hợp vào VNPT Pay

Quy trình thẩm định nghiêm ngặt

Chỉ với điện thoại di động, không cần tài khoản ngân hàng hoặc Internet, Mobile Money được kỳ vọng có thể trở thành công cụ hiệu quả giúp Chính phủ thúc đẩy phổ cập thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam.

Tuy nhiên, cũng chính bởi tính quan trọng và khả năng tác động tới đời sống được dự đoán là rất lớn của dịch vụ này, việc thẩm định hồ sơ đăng ký xin cấp phép Mobile Money của các doanh nghiệp (DN) được các cơ quan chức năng thực hiện rất thận trọng.

Cuối tháng 4/2021, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành hành Quyết định 316/QĐ-TTg phê duyệt thí điểm Mobile Money, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông chính thức ký quy chế phối hợp trong công tác quản lý nhà nước đối với việc thực hiện thí điểm dịch vụ Mobile Money. Do đây là dịch vụ mới tại Việt Nam nên để triển khai đảm bảo an toàn, hiệu quả, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều đơn vị chuyên môn nghiệp vụ của cả 3 cơ quan nói trên trong việc thẩm định, cấp phép, thanh tra, kiểm tra, giám sát theo đúng quy định tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Sau khi nộp hồ sơ lần 1, ba DN viễn thông là VNPT, Viettel và Mobifone đã được phản hồi, yêu cầu hoàn thiện thêm một số nội dung để trình Ngân hàng Nhà nước thẩm định lại. Tới hiện tại, VNPT là một trong những đơn vị đã hoàn thành nộp hồ sơ lần 2.

Chia sẻ về quá trình nộp đề án Mobile Money, ông Nguyễn Sơn Hải – Đại diện VNPT cho biết: “Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ và tuân thủ quy trình thẩm định nghiêm ngặt của Ngân hàng Nhà nước cũng như các Bộ, Ban, Ngành chức năng. Tuy chưa nhanh như mong đợi nhưng trên thực tế, các cơ quan chức năng đã chung tay, trực tiếp hoàn thiện cùng DN. Đây là việc cần thiết để Mobile Money khi đi vào thực tế có thể thuận lợi phát huy được những ưu thế của mình và giảm thiểu được những vấn đề phát sinh liên quan, qua đó đảm bảo quyền lợi và tính an toàn cho người dùng”.

Chuẩn bị kỹ lưỡng, sẵn sàng cho triển khai thực tế

Được biết, các DN viễn thông đã tiến hành chuẩn bị cho Mobile Money từ rất sớm. Trong suốt khoảng 2 năm trước khi Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định cho phép thí điểm Mobile Money, các DN VNPT, Viettel và Mobifone đã phối hợp cùng Cục Viễn thông (Bộ TT&TT) để chuẩn bị nội dungIồ sơ. Song song với đó là chuẩn bị sẵn sàng những phương án, điều kiện về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, công nghệ, nhân sự và các chính sách liên quan.

Trong Quý I/2021, VNPT đã triển khai thí điểm Mobile Money nội bộ với hơn 40.000 cán bộ, nhân viên của Tập đoàn trên toàn quốc. “Việc thí điểm nội bộ rất có ý nghĩa trong việc giúp chúng tôi diễn tập các kịch bản nghiệp vụ cũng như rà soát toàn trình và thử nghiệm mức độ thông suốt của hệ thống. Hiện tại, VNPT đã sẵn sàng để đưa Mobile Money ra thị trường chính thức, ngay khi được cấp phép” – Đại diện VNPT chia sẻ.

Có thể nói, sau quá trình làm việc tích cực và chuẩn bị kỹ lưỡng, hiện tại VNPT đã ở trạng thái sẵn sàng và đang rất trông đợi vào việc sớm có quyết định cấp phép triển khai Mobile Money từ Ngân hàng nhà nước.

Đẩy nhanh Mobile Money là nhu cầu cấp thiết nhằm thích ứng với dịch bệnh

Năm 2020, khi dịch Covid-19 có những dấu hiệu lan rộng, việc triển khai Mobile Money đã được xem là một nhu cầu cấp thiết cả trong ngắn hạn và dài hạn. Để giảm thiểu rủi ro lây lan dịch bệnh, Chính phủ nhiều nước đã nhanh chóng đưa ra các quyết sách nhằm hạn chế việc tiếp xúc và sử dùng tiền mặt. Tại Việt Nam, Chỉ thị 11 ngày 04/3/2020 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19 đã đưa ra nhiều chỉ đạo cụ thể, trong đó việc đẩy nhanh tiến độ triển khai thí điểm Mobile Money là một trong các nhiệm vụ trọng tâm.

Nhờ khả năng vận hành chỉ cần tới mạng viễn thông mà không phụ thuộc vào Internet hay tài khoản ngân hàng, Mobile Money không chỉ dễ dàng giúp thay thế tiền mặt trong các giao dịch nhỏ lẻ hàng ngày, mà còn là phương tiện phù hợp để Chính phủ giải ngân trực tiếp các khoản trợ cấp, hỗ trợ an sinh xã hội đến từng người dân thuộc nhóm yếu thế, chịu nhiều ảnh hưởng bởi dịch bệnh.

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối tháng 4 năm nay so với cùng kỳ năm 2020, lượng giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt có tăng trưởng ấn tượng tại tất cả các kênh: Internet tăng 65,9%; điện thoại di động tăng 86,3%; QR code tăng 95,7%. Tại Việt Nam, tỷ lệ người dùng tài khoản ngân hàng chưa cao, nhưng mật độ thuê bao di động thì đạt trên 100%. Như vậy nếu được chính thức triển khai, Mobile Money sẽ là cú hích quan trọng đối với tốc độ tăng trưởng của thanh toán điện tử tại Việt Nam.

Với những lợi ích nêu trên, Mobile Money hứa hẹn một tương lai mà việc tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính được “bình dân hóa” và trở nên dễ dàng hơn rất nhiều, đặc biệt đối với cộng đồng khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đó là viễn cảnh gần mà tất cả Chính phủ, doanh nghiệp và người dân đang cùng kỳ vọng.

ND

Công nghệ ICT giúp tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải trong các ngành khác

Các công nghệ ICT là những động lực quan trọng trong việc tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải trong các ngành khác.

Biến đổi khí hậu và các vấn đề môi trường đang trở thành thách thức toàn cầu. Mặc dù lượng khí thải carbon đã giảm trong năm qua do suy thoái kinh tế và tình trạng đóng cửa trên toàn thế giới, nhưng lượng khí thải đang nhanh chóng tăng trở lại khi các nền kinh tế mở cửa trở lại. Chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn và đạt được mục tiêu phát triển bền vững hiện là mục tiêu chung của tất cả các quốc gia.

Biến đổi khí hậu tiềm ẩn có tác động đáng kể đến khu vực với sáu trong số 20 quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới là các quốc gia thành viên ASEAN. ASEAN đã thực hiện các hành động để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu thông qua các hoạt động môi trường, kinh tế và xã hội khác nhau trong những năm qua. Điển hình như Thái Lan đã đặt mục tiêu đạt mức phát thải carbon cao nhất vào năm 2030 và sau đó đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2065.

Jeffery Liu, Chủ tịch Huawei Châu Á - Thái Bình Dương chia sẻ tại Diễn đàn trực tuyến Hợp tác và Phát triển Kinh tế ASEAN - Trung Quốc năm 2021 ngày 16/7 cho biết: “Trên toàn cầu, chúng ta cần có một cuộc cách mạng công nghiệp xanh với mục tiêu trung hòa carbon. Khi nền kinh tế số phát triển, việc tăng tốc giảm phát thải cũng có thể giúp các quốc gia quản lý rủi ro về các rào cản thương mại và đảm bảo các hiệp định thương mại tự do hơn”.

Các công nghệ ICT là những động lực quan trọng trong việc tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải trong các ngành khác. Ước tính rằng lượng phát thải carbon trong các ngành công nghiệp khác được hỗ trợ bởi công nghệ ICT sẽ giảm gấp 10 lần lượng carbon do chính ngành công nghiệp ICT thải ra.

“Huawei đã và đang tận dụng kinh nghiệm sâu rộng của mình trong lĩnh vực năng lượng số và lưu trữ năng lượng cũng như chuyên môn kỹ thuật về 5G, đám mây và các công nghệ đổi mới khác, để phát triển hoạt động kinh doanh năng lượng số và cung cấp các giải pháp năng lượng số cho các ngành khác nhau”, Chủ tịch Huawei Châu Á - Thái Bình Dương nhấn mạnh.

Để thúc đẩy năng lượng tái tạo, Huawei đã triển khai các giải pháp năng lượng số tại hơn 170 quốc gia và khu vực, phục vụ 1/3 dân số thế giới. Tính đến tháng 12 năm 2020, các giải pháp này đã tạo ra 325 tỷ kWh điện từ các nguồn tái tạo, và tiết kiệm tổng cộng 10 tỷ kWh điện. Những nỗ lực này đã giúp giảm 160 triệu tấn khí thải CO2.

Ví dụ, tại Singapore, Huawei FusionSolar Solution đã hỗ trợ Tập đoàn Sunseap, nhà cung cấp giải pháp năng lượng mặt trời, xây dựng một trong những trang trại mặt trời nổi ngoài khơi lớn nhất thế giới. Với 13.312 tấm pin mặt trời, 40 biến tần và hơn 30.000 phao nổi, nhà máy năng lượng mặt trời rộng 5 ha trên biển này ước tính sản xuất tới 6.022.500 kWh năng lượng mỗi năm, cung cấp đủ năng lượng cho 1.250 căn hộ nhà ở công cộng 4 phòng trên đảo và bù đắp ước tính khoảng 4.258 tấn carbon dioxide.

Ông Jeffery Liu cho biết. “Chúng tôi sẽ hợp tác với ASEAN để giảm thiểu lượng khí thải carbon bằng cách tận dụng sản xuất điện sạch, giao thông vận tải điện và lưu trữ năng lượng thông minh,  vì một xã hội carbon thấp tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường".

ND