Syndicate content

Nghề báo

Bàn về khái niệm “Glocalization” trong chương trình “truyền hình thực tế” tại Việt Nam

Tóm tắt: 

Làm thế nào để các chương trình truyền hình trong đó có các chương trình truyền hình thực tế thật sự trở thành những món ăn tinh thần vừa bổ ích vừa thúc đẩy hội nhập văn hóa toàn cầu?

Toàn cầu hóa hiện nay không còn là một xu thế mà đã trở thành một hiện thực đang ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia, làm giảm đi độ khép kín và đưa tất cả vào chung một hệ thống bao gồm những phân hệ gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau cả về kinh tế, công nghệ và văn hóa trong một “ngôi làng toàn cầu”.

Truyền hình là một trong những phương tiện của quá trình toàn cầu hóa đồng thời là một trong những biểu hiện rõ nét của toàn cầu hóa trong lĩnh vực văn hóa và truyền thông.

Gần đây, khi hàng loạt các chương trình truyền hình thực tế (THTT)  có định dạng (format) từ các chương trình reality show gốc từ nước ngoài được phát sóng khá nhiều trên hệ thống truyền hình Việt Nam trong đó có Đài Truyền hình TP. HCM (HTV), thu hút một số lượng đông đảo khán giả thì dư luận cũng đã bắt đầu nhắc lại những nguy cơ về mất bản sắc. Có phải toàn cầu hóa trong lĩnh vực truyền hình chỉ đem đến những thách thức cho văn hóa bản địa? Làm thế nào để các chương trình truyền hình trong đó có các chương trình THTT thật sự trở thành những món ăn tinh thần vừa bổ ích vừa thúc đẩy hội nhập văn hóa toàn cầu?

Để trả lời những câu hỏi đó thì việc nghiên cứu truyền hình, đặc biệt là nghiên cứu những thể loại truyền hình mới có định dạng từ các nước phương Tây trong bối cảnh toàn cầu hóa là một việc làm cần thiết vì sẽ đem lại sự hiểu biết toàn diện và khách quan đối với những hiện tượng văn hóa mang tính thời đại, góp phần đưa công chúng Việt nam tiếp cận với những thành tựu về văn hóa, nghệ thuật của toàn thế giới. Mặt khác, việc xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa giao lưu, hội nhập với bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc sẽ mở đường cho văn hóa phát triển (Nguyễn Chí Bền (Cb) 2010: 138), vừa đáp ứng được nhu cầu của công chúng Việt Nam vừa có cơ hội vươn xa ra thế giới trong môi trường toàn cầu hóa đa chiều. Khái niệm mới “glocalization” trong nghiên cứu truyền thông thế giới tỏ ra thích hợp hơn hết với tình hình phát triển truyền hình ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

 Glocalization (“bản địa hóa”) trong mối tương tác với Globalization (toàn cầu hóa)

Toàn cầu hóa là một quá trình mang tính quy luật cho nên những quan điểm biện chứng về tính hiện thực của toàn cầu hóa trong lĩnh vực văn hóa nói chung và truyền thông đại chúng nói riêng của Chủ nghĩa Mác-Lê nin và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại và tương đồng với những quan điểm tích cực của các học giả tiên phong trên  thế giới trong nghiên cứu khía cạnh toàn cầu hóa của truyền thông đại chúng.

Một trong những người góp phần quan trọng trong việc hình thành khái niệm khoa học cho xu hướng toàn cầu hóa và sau đó là khái niệm “Glocalization” là nhà xã hội học Roland Robertson người Scotland. Robertson đã áp dụng khái niệm Glocalization trong marketing vào nghiên cứu toàn cầu hóa truyền thông và dùng khái niệm này để chỉ việc sản xuất mang tính toàn cầu của một sản phẩm truyền thông xuất phát từ một địa phương nào đó và việc bản địa hóa một sản phẩm đã được toàn cầu hóa, theo đó trong bất cứ trường hợp nào, sự nhấn mạnh vào tính dị biệt và đa dạng có thể được hiểu như là sự biểu hiện tính toàn cầu đang gia tăng. “Điều đó có nghĩa là việc mong muốn bày tỏ bản sắc luôn gắn liền với quá trình toàn cầu hóa” (Robertson 1992: 175).

Khái niệm “glocalization” được ghép từ “globalization” (toàn cầu hóa) và “localization” (địa phương hóa) được các nhà kinh tế học Nhật Bản sử dụng trong thập niên 1980 để chỉ sự gia tăng yếu tố địa phương trong các sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng thế giới. Tại Nhật Bản, khái niệm này xuất phát từ việc áp dụng các kỹ thuật canh tác tiên tiến trên thế giới phù hợp với điều kiện Nhật Bản và được người Nhật gọi là dochakuka.

Roland Robertson là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “glocalization” (trong kinh doanh có nghĩa là “tầm nhìn toàn cầu được áp dụng cho các điều kiện địa phương”) vào lĩnh vực nghiên cứu xã hội học truyền thông. Ông cho rằng yếu tố địa phương vốn gắn chặt với quá trình toàn cầu hóa và được nhận ra một cách chính xác thông qua các biểu hiện đặc biệt (thường được gọi là bản sắc). Do Robertson phát triển khái niệm “glocalization” trước khi THTT bước vào thời hoàng kim nên ông chủ yếu thiên về các chiến lược đa dạng của các công ty đa quốc gia giới thiệu các sản phẩm toàn cầu của họ với các đặc điểm văn hóa của địa phương mà sản phẩm hướng tới. Tuy nhiên thuật ngữ này sau đó đã được khu biệt chủ yếu trong việc nghiên cứu truyền thông và được sử dụng khi đề cập đến hoạt động mua bán các định dạng chương trình truyền hình.

Ở khía cạnh này, Silvio Waisbord cũng cùng chung quan điểm với Robertson khi giải thích sự phổ biến của một định dạng THTT nào đó trên thế giới là do tính chất kép của nó khi kết hợp giữa công nghệ và chiến lược sản xuất toàn cầu với những nét dị biệt của thị hiếu công chúng địa phương. Theo Waisbord, “sự phổ biến rộng rãi của các định dạng truyền hình thể hiện một xu hướng luôn luôn cần những sản phẩm đỉnh cao và mong muốn làm theo. Nó bộc lộ hai hướng phát triển chủ đạo trong truyền hình đương đại: sự toàn cầu hóa phương thức kinh doanh truyền hình và nỗ lực của các nhà sản xuất chương trình quốc tế cũng như nội địa nhằm gắn kết với các nền văn hóa quốc gia”[Waisbord 2004: 360]. Đó chính là bản chất của glocalization.

Trong khi các định dạng truyền hình nổi tiếng gần như thoát khỏi các đặc trưng văn hóa để để tăng tính toàn cầu thì các phiên bản được làm lại ở các nước thường được “đổ khuôn” bằng các đặc trưng văn hóa gắn liền với bản sắc dân tộc. Và như vậy, các định dạng truyền hình toàn cầu có thể giữ một vai trò năng động trong quá trình kết nối các yếu tố bản sắc dân tộc, cung cấp chỗ đứng cho các nền văn hóa quốc gia và có lẽ quan trọng hơn là tạo cơ hội cho khán giả tự nhận ra vai trò thành viên của mình trong cộng đồng dân tộc (Waisbord 2004: 372).

 Vấn đề “bản địa hóa” (glocalization) các chương trình truyền hình thực tế trên sóng HTV

Thuật ngữ “glocalization” vẫn chưa có từ tiếng Việt tương đương nên trong bài viết này chúng tôi xin đề xuất từ “bản địa hóa” mà một số tác giả đã dùng để chuyển ngữ khái niệm này trong việc thay đổi và bổ sung cho các định dạng THTT nhằm phù hợp với văn hóa Việt Nam. Trong khi nghiên cứu việc thay đổi và bổ sung này đối với các định dạng THTT được mua bản quyền để sản xuất và phát sóng trên HTV, với vai trò thẩm định, chỉnh lý và bằng phương pháp quan sát tham dự, chúng tôi nhận thấy các lưu ý về khác biệt văn hóa sau đây đóng vai trò chính trong quá trình bản địa hóa các phiên bản Việt Nam: ý thức tập thể đối lập với tự do cá nhân, tư tưởng dân chủ ở phương Đông khác với tư tưởng dân chủ kiểu phương Tây, quan điểm xem truyền hình là công cụ giáo dục định hướng hơn là phương tiện giải trí thuần túy, thái độ chia sẻ của cộng đồng với khó khăn của các cá nhân...

Hầu hết các chương trình THTT khi được bản địa hóa để sản xuất và phát sóng trên HTV ít nhiều đều có chú ý đến những khác biệt văn hóa vừa kể. Có thể dẫn chứng hàng loạt chương trình THTT được phát sóng trên HTV trong thời gian qua đã được “bản địa hóa” theo đúng xu thế của toàn cầu hóa và đáp ứng được yêu cầu định hướng của báo chí cách mạng Việt Nam. Sau đây là những trường hợp nổi bật khi một số chương trình THTT được bản địa hóa theo từng nội dung cụ thể.

* “Bản địa hóa” dựa trên ý thức về quyền lợi tập thể vượt lên trên tự do cá nhân

Một trong những giá trị văn hóa đặc trưng của các nước châu Á trong đó có Việt Nam, là “quyền lợi tập thể được đặt trên quyền lợi cá nhân, hỗ trợ nỗ lực tập thể cần thiết để phát triển nhanh” . Giá trị văn hóa truyền thống này của người Việt Nam được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc và đặc biệt được đặt làm tiêu chí xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng theo tinh thần nhiệm vụ thứ nhất trong phần II về phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, Nghị quyết lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) là “có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung”.

Xuất phát từ các nước phương Tây vốn có hệ tư tưởng dân chủ đề cao giá trị và quyền lợi của cá nhân, các định dạng THTT, nhất là các chương trình tìm kiếm tài năng như Pop Idol, X-Factor, The Voice, So you think you can dance… hay thử thách sức chịu đựng con người như Big Brother, The Survivor… đều hướng khán giả đến chủ nghĩa tự do cá nhân, đề cao giá trị bản thân, cổ vũ cho dân chủ kiểu phương Tây (thể hiện qua những lời nhận xét không khoan nhượng của giám khảo dành cho thí sinh và những đối đáp mang tính phản kháng của thí sinh khi bị nhận xét). Thế nhưng khi được du nhập vào các nước châu Á, những điểm nhấn này vốn tạo nên sức thu hút cho chương trình ở các nước phương Tây lại trở nên khá xa lạ với truyền thống văn hóa của phương Đông mặc dù có thể hấp dẫn những khán giả trẻ tuổi thường có tâm lý hướng ngoại và ham thích điều mới.

Riêng các chương trình THTT được mua bản quyền từ nước ngoài và phát sóng trên HTV7, vấn đề “bản địa hóa” được đặc biệt coi trọng bằng cách bổ sung thêm các đặc điểm văn hóa của người Việt Nam, trong đó ý thức về cộng đồng luôn được chú ý bên cạnh các yếu tố mang tính cá nhân thường thấy trong các chương trình THTT. Điển hình là chương trình “Hành trình kết nối những trái tim” (từ 2008) được phát sóng vào lúc 22g00 thứ ba hàng tuần trên HTV7. Đây là chương trình THTT dạng docu-soap (thể loại tường thuật người thật, việc thật kéo dài nhiều tập) được chuyển nhượng bản quyền từ hãng truyền hình Fuji, Nhật Bản. Format gốc của chương trình có tên Love bus tường thuật hành trình tìm kiếm tình yêu của các bạn trẻ đi chung một chuyến xe buýt ngang dọc khắp nước Nhật. Khi được giới thiệu để triển khai phiên bản Việt Nam, bộ phận thẩm định của HTV đã yêu cầu bổ sung thêm một nội dung vào chương trình về công tác từ thiện và giúp đỡ cộng đồng tại các địa phương mà chuyến xe có dịp đi qua. Ngoài mục đích đi tìm một trái tim để kết nối tình yêu nam nữ, các bạn trẻ còn có nhiều cơ hội để “kết nối trái tim” với tình yêu quê hương, đất nước và đồng bào, nhất là được thể hiện tình cảm với những địa phương và con người ở các vùng còn nhiều khó khăn.

Yếu tố bổ sung được bản địa hóa này đã thật sự tìm được sự đồng cảm nơi người tham dự và khán giả, tạo sức hấp dẫn cho chương trình. Bằng cách thu hút khán giả trẻ đến với chương trình, mục tiêu định hướng thẩm mỹ cho giới trẻ đã được lồng ghép một cách hài hòa với các yếu tố mang tính giải trí.

 * Bản địa hóa bằng sự thông cảm với những cá nhân vượt qua hoàn cảnh khó khăn để vươn lên

Khi được giới thiệu với khán giả Việt Nam vào năm 2005 trên HTV7, chương trình truyền hình thực tế Vượt lên chính mình ngay lập tức đã chiếm được tình cảm của đông đảo khán giả. Đây là một định dạng xuất phát từ Thái Lan với tên gọi tiếng Anh là Freedom (Tự do), được xây dựng nhằm tạo ra cơ hội cho các hộ gia đình nghèo có thể nhận được một khoản tài chính đủ để xóa nợ vay ngân hàng và được cấp thêm vốn để thoát khỏi cảnh nghèo và đổi đời. Điều kiện bắt buộc là họ phải chứng minh được nghị lực vượt khó và kỹ năng nghề nghiệp của mình thông qua những thử thách trong chương trình.

Thành công vượt trội của chương trình có được nhờ sự đóng góp không nhỏ của bản địa hóa mà việc đổi tên chương trình cho phù hợp với tâm lý và tình cảm của người Việt Nam là điểm then chốt. Nếu tên gọi “Tự do” là một khái niệm quá rộng có thể làm liên tưởng đến những điều nằm ngoài nội dung của chương trình và dễ làm cho người tham dự lẫn người xem có cảm giác người tham dự “được trả tự do” khi được xóa nợ, thì Vượt lên chính mình đã đặt vấn đề xóa nợ cho chính người tham dự chương trình phải giải quyết và do đó hoàn toàn có thể tự hào về nỗ lực của chính mình. Tên gọi Vượt lên chính mình đã trở thành một thành ngữ phổ biến trong xã hội khi đề cập đến những trường hợp vượt qua những trở ngại chủ quan từ bản thân để đạt được mục tiêu phấn đấu. Qua việc đặt tên tiếng Việt cho chương trình, văn hóa ứng xử “của cho không bằng cách cho” của người Việt Nam đã được vận dụng hết sức thành công trong việc bản địa hóa một định dạng THTT có nguồn gốc nước ngoài.

* “Bản địa hóa” bằng cách sử dụng các thể loại truyền hình ăn khách làm công cụ giáo dục định hướng

Theo ý kiến của chúng tôi, khi khán giả nhất là khán giả trẻ bị hấp dẫn bởi chương trình truyền hình thì đó là một dấu hiệu tốt, bởi vì khi họ bỏ thời gian xem truyền hình thì sẽ không tốn thời gian vào các phương tiện truyền thông khác nằm ngoài sự kiểm soát, hoặc những sinh hoạt không lành mạnh khác. Việc tận dụng các chương trình ăn khách để lồng váo đó các nội dung mang tính giáo dục thẩm mỹ, định hướng nhận thức là cách làm hiệu quả bên cạnh các chương trình mang tính giáo dục và định hướng truyền thống của ngành truyền hình Việt Nam.

Trong quá trình thẩm định format nước ngoài để tìm các yếu tố khả thi cho việc xây dựng định dạng Việt Nam, HTV rất chú trọng đến vấn đề này nên đã đạt được một số thành công nhất định trong việc phát sóng THTT so với mặt bằng chung của thể loại này tại Việt Nam. Ngay khi mùa thứ thất của chương trình “So you think you can dance - Thử thách cùng bước nhảy” lên sóng HTV7 vào năm 2012, công luận hầu như hoàn toàn đồng tình với cách làm của HTV và đánh giá đó là chương trình THTT hiếm hoi tại Việt Nam được “bản địa hóa” một cách thành công.

Chương trình "Thử thách cùng bước nhảy" (Ảnh: phunuonline.com.vn)

So với định dạng gốc, HTV đã yêu cầu nhà sản xuất đưa thêm vào chương trình những chi tiết chuyên môn để làm nổi bật bốn vấn đề: Một là các giám khảo chuyên môn sẽ nhiều lần nhắc tới tính nghệ thuật và sự lao động sáng tạo trong nghệ thuật múa, hai là các thí sinh sẽ tập trung trình bày quan điểm của mình theo hướng khẳng định con đường nghề nghiệp mình đã chọn và phấn đấu đạt đỉnh cao trong nghề nghiệp bằng đam mê nghệ thuật và lao động nghệ thuật chân chính; ba là nói không với bất cứ “chiêu trò” thu hút dư luận và bốn là thống nhất quan điểm không cay cú ăn thua trong thí sinh, loại bỏ tính từ “tài năng” ra khỏi danh hiệu quán quân và thay bằng tính từ “được yêu thích nhất”.

Nhận xét về chương trình, nhà báo Hồng Trang của Báo Nhân Dân đã viết: “Năm 2012, Thử thách cùng bước nhảy được xem là chương trình lặng lẽ nhất vì không có bất kỳ sự điều tiếng nào, nhưng cũng là chương trình được công chúng tán thưởng nhất. Người xem không chỉ cảm nhận được tình yêu, đam mê, lao động nghệ thuật của thí sinh, mà còn được theo dõi một cuộc chơi công bằng trên tinh thần cống hiến”.

* Đưa các nét riêng của Việt Nam vào các định dạng đã toàn cầu hóa

Nói theo cách khác, việc đưa các nét riêng của Việt Nam vào các định dạng đã toàn cầu hóa chính là làm cho yếu tố bản sắc nổi bật trên nền hiện đại của chương trình. Các bản sắc văn hóa được dịp thể hiện trong một cấu trúc chương trình hiện đại sẽ có cơ hội vươn ra khỏi tầm ảnh hưởng bản địa để đến với thế giới khi có điều kiện. Ở mùa thứ hai của So you think you can dance - Thử thách cùng bước nhảy, một lần nữa HTV đã yêu cầu nhà sản xuất bổ sung thêm, trong đó yêu cầu đưa các điệu múa dân gian Việt Nam vào chương trình thi đấu của các thí sinh.

Rõ ràng sự thay đổi theo kiểu “bản địa hóa” này đã gây được chú ý nơi các biên đạo nước ngoài. Họ hoàn toàn kinh ngạc trước sức cuốn hút từ sự mềm mại của các thí sinh nữ trên nền bản dân ca quan họ Bèo dạt mây trôi và phấn khích trước điệu Lý ngựa ô khi so sánh với Gangnam style của Hàn Quốc gây sốt thế giới trong năm 2012. Qua các chuyên gia quốc tế cộng tác sản xuất chương trình ở nhiều nơi, chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng về sự lan tỏa của bản sắc Việt Nam khi các định dạng THTT toàn cầu hóa được nâng cấp theo kiểu tổng hợp các yếu tố dị biệt sau khi nó đã đi qua nhiều nước khác nhau trên thế giới.

Thay lời kết

Truyền hình thực tế cũng là một sản phẩm của toàn cầu hóa khi nó có đầy đủ các yếu tố cấu thành từ công nghệ sản xuất, phương tiện quảng bá, phương thức kinh doanh, chuyển nhượng đến địa bàn tiêu thụ và tâm lý tiêu thụ. Những người ủng hộ toàn cầu hóa thì thấy ở THTT những cơ hội để làm phong phú làn sóng truyền hình Việt Nam, phục vụ nhu cầu thưởng thức văn hóa của khán giả ở cấp độ toàn cầu và khả năng giới thiệu bản sắc Việt Nam ra thế giới khi trình độ chế tác THTT của Việt Nam được nâng lên tầm cỡ quốc tế. Những người e ngại toàn cầu hóa thì chú ý đến những bất lợi mà THTT đem đến với lo lắng về một “chủ nghĩa đế quốc văn hóa” có thể làm xói mòn các giá trị văn hóa dân tộc.

THTT trên sóng truyền hình Việt Nam đang gây ra những cơn sốt về số lượng khán giả cũng như doanh thu quảng cáo nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ về làm lệch nhận thức thẩm mỹ cũng như ảnh hưởng không tốt đến văn hóa ứng xử trong giới trẻ. Tuy nhiên, sự phổ biến của THTT là một hiện thực tuân theo lô gic phát triển của ngành truyền hình mà dù muốn hay không chúng ta cũng phải chấp nhận để tận dụng những hệ quả tốt đẹp cũng như cùng nhau giải quyết những tồn tại do nó mang lại để xây dựng sự nghiệp truyền hình Việt Nam phát triển bền vững với những lợi ích thiết thực đem lại cho khán giả. Đài Truyền hình TP.HCM cũng đang góp phần vào sự nghiệp chung của các đất nước cùng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà các hoạt động “bản địa hóa” các chương trình THTT là một trong những trọng tâm hàng đầu.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Chí Bền, cb, (2010),Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Robertson, R. (1995), Glocalization: Time-Space and Homogenity - Heterogenity. In: M. Featherstone, S. M. Lash & R. Robertson, eds. Global     Modernities, Sage,  London 24-44.

3. Waisbord, S. (2004), McTV: Understanding the Global Popularity of  Television Formats, Television & New Media, 5(2), 359-383.

                                                                                                                Trương Văn Minh

Trưởng Ban Chương trình Đài Truyền hình TP.HCM (HTV)

Nguồn: Tạp chí Người làm báo

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Giúp báo chí đưa tin chính xác

Tóm tắt: 

Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ có trách nhiệm để báo chí tiếp cận nguồn tin chính xác, đầy đủ nhất để có thông tin nhanh nhạy hơn.

Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ có trách nhiệm để báo chí tiếp cận nguồn tin chính xác, đầy đủ nhất để có thông tin nhanh nhạy hơn.

Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son trả lời chất vấn vào chiều 20-11

Chiều 20-11, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (TT-TT) Nguyễn Bắc Son đã đăng đàn trả lời chất vấn về việc quản lý báo chí, các trang mạng và tăng cước 3G.

Đẩy mạnh thông tin cho báo chí

Nêu thực tế thông tin tràn ngập trên mạng và thiếu kiểm soát, đại biểu (ĐB) Nguyễn Thị Bích Nhiệm (Yên Bái) chất vấn: “Trang thông tin điện tử giật gân, câu khách xuất hiện nhiều, Bộ TT-TT có giải pháp gì?”.

Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son nhìn nhận trên mạng có nhiều thông tin chưa xác minh đầy đủ. Bộ TT-TT đã tham mưu cho Chính phủ ban hành các quy định để quản lý dịch vụ internet. Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son cho rằng khi phát hiện thông tin sai, đơn vị liên quan phải báo ngay cho cơ quan chức năng, đồng thời bác bỏ các thông tin sai trái đó. Cùng với đó, mỗi người phải có ý thức tự phòng tránh thông tin độc hại trên internet.

ĐB Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng) băn khoăn các vấn đề giải quyết tranh chấp dân sự ở địa phương, báo chí trong nước thường đưa tin chậm so với các trang mạng khiến dư luận đồn thổi. “Vì sao có hiện tượng đó, trách nhiệm và giải pháp của Bộ TT-TT?” - ĐB Vinh chất vấn.

Về việc này, Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son giải thích: “Các trang mạng đưa tin nhanh nhưng nội dung nhiều khi không chính xác. Những trang này chỉ nghe tin phong thanh là đưa ngay, trong khi báo chí phải xác định nguồn tin, bảo đảm chính xác nên mất nhiều thời gian hơn”. Theo Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son, thực tế còn do một số địa phương cũng chưa thực hiện đầy đủ quy định của Chính phủ về việc cung cấp thông tin cho báo chí từ người phát ngôn... “Đây là việc cũng cần khắc phục. Cần đẩy mạnh hơn nữa việc cung cấp thông tin chính thống cho báo chí” - Bộ trưởng Son đề nghị.

ĐB Lê Như Tiến (Quảng Trị) đặt vấn đề trách nhiệm của Bộ TT-TT trong quy hoạch mạng lưới báo chí và quan điểm của bộ trưởng đối với đề nghị sửa Luật Báo chí theo hướng quy định báo chí phải có trách nhiệm cung cấp nguồn tin cho cơ quan chức năng, Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son cho biết báo chí đã có nhiều đóng góp với đất nước nhưng cũng còn hạn chế. “Bộ sẽ có trách nhiệm để báo chí tiếp cận nguồn tin chính xác, đầy đủ nhất. Nhà báo cũng phải tiếp cận với việc phê phán mặt trái xã hội nhưng không nên đưa nhiều khiến tâm lý xã hội hoang mang. Cơ quan chủ quản báo chí cũng cần nêu cao vai trò, trách nhiệm của mình” - Bộ trưởng Bộ TT-TT nói.

Cước 3G tăng một phần vì OTT

Đi vào vấn đề mà người tiêu dùng chưa đồng tình trong thời gian qua là việc tăng cước 3G, ĐB Nguyễn Thanh Hải (Hòa Bình) đề nghị làm rõ: Cước 3G vừa tăng có phải là giải pháp chống thất thu của nhà mạng trước sự bùng nổ của OTT - dịch vụ điện thoại, nhắn tin miễn phí trên internet? Bộ trưởng Bộ TT-TT thừa nhận việc nhà mạng tăng cước 3G là phù hợp với quy định hiện hành như Luật Viễn thông, Luật Giá…

Theo Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son, trong một thời gian dài, các nhà mạng đã duy trì giá 3G tương đối thấp, chưa bằng 50% giá thành. Ngoài ra, việc tăng cước 3G còn phù hợp với lộ trình cam kết quốc tế của Việt Nam.

Chưa thỏa mãn với câu trả lời, ĐB Nguyễn Thanh Hải hỏi lại: “Việc tăng cước 3G có phải do sức ép OTT và việc tăng cước không cùng với nâng chất lượng?”. Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son giải thích: “ĐB hỏi có bị sức ép bởi OTT không thì xin nói là OTT đang “sống” trên hạ tầng các nhà mạng. Tuy nhiên, việc tăng cước 3G có một phần do OTT”. Ông Nguyễn Bắc Son cũng khẳng định hiện chất lượng 3G chưa cao và mới đầu tư khoảng 2 tỉ USD, vì thế sắp tới đây tăng giá cước để tạo điều kiện đầu tư hạ tầng nhằm nâng chất lượng.

ĐB Trần Quốc Tuấn (Trà Vinh) và Nguyễn Ngọc Phương (Quảng Bình) cùng đặt câu hỏi về trách nhiệm của Bộ TT-TT cũng như giải pháp đối với sim rác, tin nhắn rác. Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son cho biết tin nhắn rác, thư rác là quảng cáo siêu lợi nhuận. Đối với các nguồn phát tán từ internet, Bộ TT-TT đã phối hợp với các nhà mạng và đã quản lý được. Bộ cũng đã xử phạt các nhà cung cấp nội dung. Đồng thời, bộ có chỉ thị yêu cầu các nhà mạng bán sim phải kê khai thông tin cá nhân và không được bán sim kèm tài khoản có khuyến mãi lớn để người tiêu dùng “thay vì mua thẻ thì mua sim rác”…

Bài và ảnh: Thế Dũng

Nguồn tin: Theo nld.com.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Một bức ảnh xúc động của Việt Nam đoạt giải Nhất ảnh quốc tế

Tóm tắt: 

Năm 2013 thực sự là một năm thắng lợi của nhiếp ảnh Việt Nam ở nhiều cuộc thi, với nhiều đề tài.

Năm 2013 thực sự là một năm thắng lợi của nhiếp ảnh Việt Nam ở nhiều cuộc thi, với nhiều đề tài.

Nhiếp ảnh gia Trương Minh Điền đã vượt qua các nhiếp ảnh gia từ 91 quốc gia trên thế giới và giành giải Nhất cuộc thi Ảnh CGAP 2013 với tác phẩm gây xúc động lòng người “Chiều mưa”.

"Chiều mưa" - Trương Minh Điền"

Bức ảnh “Chiều mưa” được hội đồng ban giám khảo gồm 4 thành viên chọn từ 3.890 bức ảnh được các nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp và nghiệp dư từ 91 quốc gia gửi đến.

Bức ảnh mô tả một phụ nữ mang khoai ra chợ bán trong một cơn mưa lớn. Số tiền bán khoai này giúp đóng góp sinh kế cho cuộc sống gia đình gồm chồng và hai con của chị.

Ban giám khảo đánh giá cao bức “Chiều mưa” của Trương Minh Điền bởi cách thể hiện đầy suy tư về sự bền bỉ dễ thích ứng của những hộ kinh doanh thu nhập thấp tại Việt Nam. Ngoài câu chuyện lôi cuốn, bức ảnh cũng được đánh giá có kỹ thuật hoàn hảo.

Người chiến thắng được tặng phần thưởng trị giá 2.000 USD.

Bức "Người giấy" của nhiếp ảnh gia Md Farhad Rahman (Băng-la-đét), mô tả một người đàn ông kiếm sống hàng ngày bằng việc bán báo ở ga tàu, đã đoạt giải nhì.

"Người giấy" - Md Farhad Rahman (Băng-la-đét)

Trong khi đó "Hai đường cong" của nhiếp ảnh gia người Mali, Chi Keung Wong, đã đoạt giải ba nhờ mô tả thành công hai người đàn ông làm việc tại chợ đầu mối gạo Bamako.

"Hai đường cong" - Chi Keung Wong (Mali)

Bức “Nesma tài giỏi” của Mohamad Gouda từ Ai Cập đoạt giải Lựa chọn của công chúng. Bức ảnh  mô tả một phụ nữ dùng tiền vay từ nguồn tín dụng vi mô khởi tạo một doanh nghiệp vẽ tranh và thêu đã được công chúng lựa chọn. Bức ảnh được 1.236 phiếu chọn, hơn tác phẩm đứng sau nó gần 400 phiếu.

“Nesma tài giỏi” - Mohamad Gouda (Ai Cập)

Ban giám khảo cũng chọn các tác phẩm khác để trao giải khu vực, giải đặc biệt, dựa trên các tiêu chí về kỹ thuật, nội dung và nghệ thuật về chủ đề hỗ trợ tài chính. Bức “Công nhân làm gạch” của Moksumul Haque gửi đến từ Băng-la-đét đã đoạt giải khu vực Nam Á cũng là một điểm đáng chú ý. Bức ảnh chụp những viên gạch được ném trong không trung buộc người xem tự hỏi điều gì đã xảy ra ngay sau khi bức ảnh được chụp.

“Công nhân làm gạch” - Moksumul Haque (Băng-la-đét)

Một số bức ảnh lọt vào vòng chung khảo:

"Ta-lông mới" - Pauline Opmeer (Tanzania)
"Đời vàng" - Võ Chí Trung (Việt Nam)
"Tiệm sửa giầy" - Bulent Suberk (Thổ Nhĩ Kỳ)
"Nụ cười" - Oddvar Paulsen (Uganda)
"Người bán trứng rong" - Danilo Victoriano Jr. (Philppines)
"Ngày mới, lưới mới" - Trần Bảo Hòa (Việt Nam)
"Vẫy chào hạnh phúc" - Roger Alfonso (Thái Lan)

Đây là cuộc thi ảnh hàng năm do cơ quan CGAP (Consultative Group To Assist The Poor) tổ chức nhằm vinh danh các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp và nghiệp dư, những người đã mô tả và thể hiện được sự hỗ trợ tài chính trên toàn thế giới bằng nghệ thuật nhiếp ảnh.

CGAP đã thể hiện những cách thức khác nhau về quản lý tài chính của các hộ nghèo và cách thức mà những hỗ trợ tài chính này giúp nâng cao cuộc sống cho nhóm dân cư thu nhập thấp nhất trong nền kinh tế.

 Thảo Nguyên

 Nguồn: dantri.com.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Tạp chí Ấn Độ ra số đặc biệt về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ

Tóm tắt: 

Tạp chí NAM TODAY của nước này vừa phát hành số đặc biệt, gồm 32 trang ruột và bốn trang bìa màu rất ấn tượng.

Theo phóng viên TTXVN tại New Deli, nhân chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Ấn Độ (từ ngày 19-22/11/2013), tạp chí NAM TODAY của nước này vừa phát hành số đặc biệt, gồm 32 trang ruột và bốn trang bìa màu rất ấn tượng.

Bìa tạp chí NAM TODAY đăng nổi bật về chuyến thăm của Tổng Bí thư. (Ảnh: Minh Lý/Vietnam+)

Mặt trước của trang bìa đăng nổi bật quốc kỳ hai nước Việt Nam - Ấn Độ, dưới có tựa đề “Kỷ niệm 6 năm Đối tác chiến lược Ấn-Việt và tăng cường quan hệ Việt - Ấn,” cùng ảnh Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bắt tay Chủ tịch Hạ nghị viện Ấn Độ Meira Kumar trong chuyến thăm Ấn Độ năm 2010 trên cương vị Chủ tịch Quốc hội; mặt sau và mặt trong của các trang bìa đăng một số ảnh của các vị lãnh đạo cấp cao nước ta và Ấn Độ qua các chuyến thăm.

Sau lời mở đầu của Tổng biên tập Pramoda Patel; các trang tiếp theo đã giới thiệu tiểu sử của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; đăng toàn văn bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tân Dũng tại Đối thoại Shangri La hồi tháng 6 năm 2013; bài phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh về “Tăng cường quan hệ Việt Nam-Ấn Độ vì hòa bình và thịnh vượng tại Thái Bình Dương-Ấn Độ Dương” tại Hội đồng Ấn Độ về các vấn đề thế giới (ICWA) ở New Delhi hồi tháng 7;

Bài trả lời phỏng vấn phóng viên TTXVN tại New Delhi của Tham tán thương mại Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ Nguyễn Sơn Hà về “trụ cột kinh tế-thương mại trong Đối tác chiến lược Ấn - Việt;” cùng các bài viết của các học giả, nghị sỹ Quốc hội Ấn Độ về quan hệ hợp tác Ấn-Việt, như nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa của Việt Nam; Việt Nam trong chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ…cùng nhiều ảnh màu về phong cảnh đất nước con người Việt Nam.

Trong lời mở đầu với tiêu về “Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam và những vấn đề khu vực”, bà Pramoda Patel viết “Chúng tôi ra số đặc biệt NAM TODAY để kỷ niệm 6 năm quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam-Ấn Độ và trước thềm chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chúng tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng chuyến thăm Ấn Độ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ mở thêm một chương mới trong biên niên sử của quan hệ song phương Ấn-Việt./.

Nguồn: Theo vietnamplus.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Phạt đến 20 triệu đồng nếu xúc phạm danh dự, nhân phẩm nhà báo

Tóm tắt: 

(ICTPress) - Phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng đối với một trong các hành vi: uy hiếp tính mạng nhà báo, phóng viên...

(ICTPress) - Thủ tướng Chính phủ vừa ký ban hành Nghị định số 159/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản.

Ảnh: T. Hải

Phạt đến 20 triệu đồng xúc phạm nhân phẩm nhà báo

Theo Điều 6 của Nghị định cho biết sẽ phạt tiền từ 5 - 10 triệu đồng đối với mạo danh nhà báo, phóng viên để hoạt động báo chí; Lợi dụng tư cách nhà báo, phóng viên can thiệp, cản trở hoạt động đúng pháp luật, của tổ chức cá nhân và đối với hành vi lợi dụng tư cách nhà báo, phóng viên để trục lợi.  

Điều 7 của Nghị định cũng quy định phạt đối với các hành vi cản trở trái pháp luật hoạt động báo chí sẽ phạt tiền từ 5 - 10 triệu đồng đối với hành vi cản trở trái pháp luật hoạt động nghề nghiệp của nhà báo, phóng viên. Đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phóng viên khi đang hoạt động nghề nghiệp Nghị định sẽ xử phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng.

Phạt tiền từ 20 - 30 triệu đồng đối với một trong các hành vi: uy hiếp tính mạng nhà báo, phóng viên; hủy hoại, cố ý làm hư hỏng phương tiện, tài liệu hoạt động báo chí của nhà báo, phóng viên; Thu giữ trái phép phương tiện, tài liệu hoạt động báo chí của nhà báo; phóng viên.

Điều 9 của Nghị định nêu quy định về việc vi phạm quy định về cung cấp thông tin cho báo chí và sử dụng thông tin của cơ quan báo chí. Phạt từ 200 đến 500 nghìn đồng đối với việc cản trở việc cung cấp thông tin cho báo chí của tổ chức, cá nhân; Không thực hiện phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí theo quy định; Thực hiện không đúng các quy định về đăng, phát lời phát biểu của tổ chức, cá nhân có liên quan đến tác phẩm báo chí.

Đối với việc thể hiện sai ý của người trả lời phỏng vấn trên báo chí hoặc không đúng nội dung thông tin do người phát ngôn của cơ quan hành chính nhà nước cung cấp; không thực hiện yêu cầu xem lại nội dung trả lời phỏng vấn của người trả lời phỏng vấn trước khi đăng, phát nội dung trả lời phỏng vấn trên báo chí sẽ bị phạt từ 3 - 5 triệu đồng.

Không viện dẫn nguồn tin phạt từ 200 - 500.000 đồng

Cụ thể, phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200 - 500.00 đồng đối với một trong các hành vi: Không viện dẫn nguồn tin hoặc viện dẫn sai nguồn tin khi đăng, phát trên báo chí; không ghi rõ họ, tên thật hoặc bút danh của tác giả, nhóm tác giả của tin, bài khi sử dụng để đăng, phát trên báo chí; sử dụng tin, bài để đăng, phát trên báo chí nhưng không biết rõ tên thật, địa chỉ của tác giả, nhóm tác giả.

Đối với một trong các hành vi: Đăng, phát thông tin sai sự thật nhưng chưa gây ảnh hưởng nghiêm trọng; minh họa, rút tít không phù hợp nội dung thông tin làm cho người đọc hiểu sai nội dung thông tin; tiết lộ bí mật đời tư khi chưa được sự đồng ý của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; công bố tài liệu, thư riêng của cá nhân khi chưa được sự đồng ý của chủ sở hữu hợp pháp tài liệu, bức thư đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; đăng, phát ảnh của cá nhân mà không được sự đồng ý của người đó, trừ các trường hợp pháp luật có quy định khác thì sẽ bị phạt tiền từ 1 - 3 triệu đồng.

Phạt đến 20 triệu đồng nếu đăng, phát bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia

Theo Điều 8, đăng, phát bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia; đăng, phát thông tin xuyên tạc, vu khống nhằm xúc phạm danh dự, uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì sẽ bị phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng.

Phạt nặng hành vi phát thông tin gây hại đến lợi ích quốc gia

Nghị định nêu rõ sẽ phạt tiền từ 5 - 10 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau đây: Đăng, phát thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng nghiêm trọng; miêu tả tỷ mỉ hành động dâm ô, chém, giết, tai nạn rùng rợn trong các tin, bài, ảnh; đăng, phát tin, bài, ảnh kích dâm, khoả thân, hở thân thiếu thẩm mỹ, không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam; đăng, phát thông tin truyền bá hủ tục, mê tín, dị đoan..

Đối với một trong các hành vi: Đăng, phát các tác phẩm đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu; đăng, phát thông tin gây phương hại đến lợi ích quốc gia hoặc gây mất đoàn kết dân tộc thì sẽ bị phạt tiền từ 70 - 100 triệu đồng.

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2014.

Mai Nguyễn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Phóng viên Việt cạnh tranh quyết liệt tại Philippines

Tóm tắt: 

Reuters, CNN, BBC... dựng trường quay tại chỗ. Tuy nhiên, phóng viên Việt không thể nhờ vả họ, nhất là wifi vì tính cạnh tranh của họ rất cao. Giúp mình tức là giúp đối thủ - họ quan niệm thế.

Reuters, CNN, BBC... dựng trường quay tại chỗ. Tuy nhiên, phóng viên Việt không thể nhờ vả họ, nhất là wifi vì tính cạnh tranh của họ rất cao. Giúp mình tức là giúp đối thủ - họ quan niệm thế.

Người dân chen chúc ở sân bay chờ đi nhờ máy bay quân sự sang Cebu.

Dưới đây là tường trình của phóng viên về hành trình tác nghiệp tại vùng đất đang hứng chịu nhiều mất mát và đau thương của đất nước Philipines.

Từ Hà Nội đi Tacloban chỉ có chuyến bay thẳng của Cebu Pacific. Nhưng một tuần chỉ có ba chuyến, khởi hành lúc 1h sáng ở HN, nên tôi bay vào SG, từ đó bay xuống Cebu, rồi bay tiếp vào Tacloban. Nói chung là phải mất đến hai ngày chỉ bay và ngồi vạ vật ở các sân bay.
 
Tại thời điểm tôi bay từ Cebu vào Tacloban, hành trình tương đối khó (Giờ thì bay dễ hơn hôm tôi vào một chút vì Cebu Pacific đã nối lại chuyến bay, sân bay đã dọn dẹp xong đường băng). Còn toàn bộ nhà ga, cảng hàng không đều đã tan nát.

Tuy nhiên, tôi không có cách nào rời khỏi Tacloban để quay trở lại Cebu trước 22/11 vì đi đường bộ mất hơn 100 km đến Ormoc (hiện giờ cũng tan nát như Tacloban, chỉ có số người chết ít hơn), sau đó đi phà biển 45 km về. Nhưng đi đường bộ rất nguy hiểm vì là đường độc đạo, cũng không có xe. Muốn thuê xe ra tốn tới gần 300 USD mà có thể gặp cướp bóc, đồng thời lại phải chen chúc để chờ phải mất khoảng 2 ngày.

Hiện có khoảng 600.000 người trên đảo muốn rời sang Cebu mà không có phương tiện đường bộ và cũng không có xăng. Ở đây người ta chỉ bán mỗi lần 500 peso tiền xăng. Xăng hiện giờ rất đắt. Tối qua theo thông báo, xăng đã lên khoảng 120 peso/lít mà cũng không có để mua.

Trong khi chờ đợi ở Cebu, mọi người dân, taxi, bán hàng đều hỏi ở đâu đến, định đi đâu? Nghe nói đi Tacloban, lập tức họ hỏi luôn: Phóng viên à? Giờ vào Tacloban chỉ có PV và các tổ chức cứu trợ thôi. Vì vậy, khi ở sân bay, tôi bị trễ một chuyến nhưng bay chuyến sau, các nhân viên Cebu Pacific không những không bắt mua vé mới mà còn không thu thêm đồng phí nào. Hành lý cũng được đem thoải mái. Tôi đem theo 20 lít nước, 5kg táo ăn thay rau để dùng đến 22/11. Phải dùng hết sức dè sẻn. 

Tại Tacloban: Đổ nát, hoang tàn vẫn như cũ nhưng người dân yên tâm hơn vì không còn cảm giác bị bỏ rơi do các PV quốc tế đến rất đông. Các chuyến bay vào Talcoban hiện chỉ có PV và các tổ chức cứu trợ. Đặc biệt, họ yên tâm vì máy bay trực thăng Mỹ bay liên tục trên bầu trời từ sáng đến đêm để đến các địa điểm hẻo lánh phát lương thực và chở người di tản.

Không điện, không nước là điều đương nhiên. Mấy hôm nay, các PV Việt Nam ở đây chỉ ăn lương khô. Các PV nước ngoài có điều kiện, họ dựng lều, mang theo máy phát điện, chảo vệ tinh... Hiện có hàng trăm PV quốc tế ở đây. Các hãng lớn như Reuters, CNN, BBC... còn dựng cả trường quay mini tại chỗ. Tuy nhiên, không thể nhờ vả họ, nhất là wifi vì tính cạnh tranh của họ rất cao, họ giúp mình tức là giúp đối thủ - họ quan niệm thế.

Tacloban hoang tàn, đổ nát

Không có bất cứ nơi nào bán thực phẩm nên các PV, kể cả Tây cũng đều phải đi kiếm củi, bắc bếp nấu mỳ ăn ngay trên bãi cỏ trước nơi mình ở. Tôi may mắn được ở ké một phòng hầm do các PV trước đã đến ở để giảm bớt chi phí. Tất nhiên tầng hầm này cũng không có điện.

Cảm xúc của tôi ở thời điểm hiện tại đó là: Tacloban thực sự là địa ngục.  Thực ra thì tôi nghĩ, họ cũng giống dân miền Trung của mình, biết khổ mà không biết đi đâu vì không có tiền mà đi. Tacloban là thành phố nghèo, dù đối diện Thái Bình Dương nhưng nhà cửa hết sức tạm bợ, phần lớn nhà gỗ, mái tôn, hoặc nhà gạch tường 10 nên bay sạch. Nếu cơn bão này đổ vào Bắc bộ thì chưa chắc đã thấm gì. 

 Nguyễn Thành Lân

Tổng thư ký Toà soạn báo Người đưa tin

Nguồn: Theo nguoiduatin.vn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Báo chí trong vòng xoáy kinh tế

Tóm tắt: 

Câu chuyện cơ quan chủ quản của tờ Thế giới mới xin giải thể tờ tạp chí này vì khó khăn tài chính đã gián tiếp đặt ra nhiều vấn đề cho nền báo chí Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nhất là ở góc cạnh kinh tế.

Câu chuyện cơ quan chủ quản của tờ Thế giới mới xin giải thể tờ tạp chí này vì khó khăn tài chính đã gián tiếp đặt ra nhiều vấn đề cho nền báo chí Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nhất là ở góc cạnh kinh tế.

Nhìn vào bất kỳ sạp báo nào, không khỏi lo lắng cho tương lai thể loại tạp chí nói riêng và báo chí nói chung. Đã có thời trên sạp báo hay trên quầy báo trong nhà sách hay bưu điện, chúng ta thấy nổi bật các tạp chí chuyên ngành về văn học, nghệ thuật, vừa phong phú về đề tài vừa có giá trị về mặt thông tin.

Hầu như ngành nào cũng có tạp chí riêng từ hội họa đến điện ảnh, từ văn học nước ngoài đến nghiên cứu lịch sử. Nay các tạp chí như thế dần biến mất.

Hiện nay các tờ báo nghiêm túc, dù không nhận đồng xu nào từ ngân sách nhà nước và phải tự xoay xở như một doanh nghiệp về mặt tài chính, về mặt nguyên tắc, vẫn còn bị ràng buộc bởi cái gọi là "cơ chế tự chủ tài chính" trong việc trả lương cho nhân viên nên dần dần mất người bỏ sang làm việc cho các doanh nghiệp tư nhân hay công ty nước ngoài.

Thay vào đó là hàng loạt, hàng loạt tạp chí giải trí in lòe loẹt mà chính măng sét cũng là tiếng nước ngoài.

Không lẽ nền văn hóa Việt Nam không còn gì để viết nên nhiều cơ quan báo chí mua lại nội dung báo nước ngoài để dịch và "nội địa hóa" tại Việt Nam?

Trong một bài viết ngắn không thể nào bao quát để lý giải vì sao các tạp chí đứng đắn, cần thiết cho đời sống tinh thần của một xã hội bình thường lại biến mất, vì sao loại tạp chí giật gân "đắt tiền" lại chiếm ưu thế.

Nhưng những người có trách nhiệm không thể không lên tiếng về tình trạng này; không thể không tìm cách cân bằng trở lại giữa loại tạp chí giải trí đơn thuần và tạp chí phục vụ chuyển tải kiến thức, phản ánh đời sống tinh thần, sinh hoạt văn hóa của một xã hội.

Đáng tiếc, xu hướng ngược lại là xin giải thể các tờ báo như Thế giới mới chủ yếu cũng vì lý do kinh tế.

Một số tạp chí có măng sét bằng tiếng nước ngoài tại sạp báo

Thế giới mới là tờ báo của ngành giáo dục với cơ quan chủ quản là Nhà xuất bản Giáo dục. Đây là một mô hình có nhiều bất cập, khó lòng để cho Thế giới mới nhảy vào các vấn đề tiêu cực đang nóng của ngành giáo dục, đang được các báo khác đề cập một cách đậm nét.

Lý do ai cũng hiểu là không lẽ một tờ báo của ngành giáo dục lại đăng bài phê phán chính ngành mình! Mà một tờ báo của ngành lại không nói gì về ngành đó cả (nói theo nghĩa bàn cho cặn kẽ các vấn đề nổi lên) thì chắc chắn trước sau gì độc giả cũng quay lưng.

Đã vậy không trông mong gì Thế giới mới có bài khách quan về hoạt động của Nhà xuất bản Giáo dục!

Đây không phải là hiện tượng riêng lẻ với Thế giới mới mà xảy ra với đa phần các tờ báo hiện nay. Một tờ báo của Bộ Y tế khó lòng nêu lên những yếu kém của bộ máy quản lý ngành; một tờ báo của Hà Nội khó lòng làm phóng sự về những lỗ hổng trong quản lý đô thị tại thủ đô.

Thật ra đã có thời báo thuộc bộ, ngành nhưng vẫn lên tiếng mạnh mẽ về mặt trái của bộ, ngành đó vì lãnh đạo nơi đó biết sử dụng tờ báo làm kênh phản hồi thông tin giúp công tác quản lý nhà nước và đặc biệt là giúp giám sát bộ máy bên dưới của mình.

Và cũng có tờ báo thuộc bộ, ngành chọn hướng đi là diễn đàn để bàn sâu những vấn đề trong ngành, ngõ hầu tìm giải pháp. Chẳng hạn, tờ Thế giới mới hoàn toàn có thể mở diễn đàn để giáo viên khắp cả nước lên tiếng về vấn đề dạy thêm - nên như thế nào cho trọn vẹn đôi đường.

Nói sao thì nói, tiền ngân sách rót cho các tờ báo của ngành, của địa phương mà ngành và địa phương chỉ xem báo như công cụ để đánh bóng cho bản thân ngành đó thì ngân sách đã bị lãng phí.

Cách hay nhất là chấm dứt mọi sự trợ cấp của ngân sách cho báo chí, chuyển các tờ báo cho các hội đoàn quản lý với cơ chế tài chính tự chủ - tự khắc nhiều vấn đề của làng báo sẽ được giải quyết.

Hoặc số đầu mối làm cơ quan chủ quản báo chí phải giảm mạnh đồng thời cho phép nơi trực tiếp làm ra tờ báo đứng tên chịu trách nhiệm, ít nhất là về mặt tự chủ tài chính.

Đã có thời việc liên kết với nhà xuất bản bị coi là chuyện trái phép, có làm thì cũng chỉ làm chui - nhưng sau một thời gian bên liên kết đã được chính thức thừa nhận, được đứng tên một cách đàng hoàng trên bìa sách như một pháp nhân độc lập.

Báo chí cũng nên được khuyến khích đi theo con đường đó với lộ trình từng bước, rõ ràng, ví dụ báo giải trí, báo khoa học kỹ thuật, báo kinh tế làm trước.

Chuyện quan trọng hơn là khía cạnh tài chính trong hoạt động báo chí. Thiết nghĩ mọi hình thức trợ cấp ngân sách cho hoạt động báo chí đều không đem lại hiệu quả.

Một khi độc giả đã quay lưng thì rót bao nhiêu tiền cũng không đem lại hiệu quả mong muốn. Với các tạp chí cần thiết cho xã hội nhưng người đọc quá ít như nghiên cứu chữ Nôm chẳng hạn thì phải được trợ cấp nhưng phải xem đó là trường hợp hãn hữu, có đề án rõ ràng, minh bạch.

Trong thực tế đơn vị báo chí cũng là doanh nghiệp. Hàng ngày, hàng giờ, cơ quan báo chí cũng phải đối diện với những câu hỏi y như của doanh nghiệp là làm sao chi trả lương, thưởng, nhuận bút ở mức độ thu hút được các cây bút giỏi, nhà báo có tay nghề.

Nhưng khó hơn doanh nghiệp, báo chí còn phải thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình chứ đâu thể chăm chăm vào chuyện tăng doanh thu để bị cuốn vào cơn lốc "lá cải hóa". Nếu báo chí "tự thu, tự chi" được thì cũng nên cho họ tự chủ thật sự về mặt tài chính như một doanh nghiệp.

Một nghịch lý hiện nay là các tờ báo nghiêm túc, dù không nhận đồng xu nào từ ngân sách nhà nước và phải tự xoay xở như một doanh nghiệp về mặt tài chính, về mặt nguyên tắc, vẫn còn bị ràng buộc bởi cái gọi là "cơ chế tự chủ tài chính" trong việc trả lương cho nhân viên nên dần dần mất người bỏ sang làm việc cho các doanh nghiệp tư nhân hay công ty nước ngoài.

Việc trả lương chưa thỏa đáng, không tương xứng với khả năng đã buộc nhiều nhà báo có tên tuổi bỏ ra làm cho các tờ báo giải trí thuần túy. Các tờ báo này thường cũng là một dạng liên kết xuất bản với bên ngoài dưới hình thức hợp đồng quảng cáo, thiết kế... nên không bị ràng buộc bởi cơ chế trả lương theo Nhà nước nhờ đó thu hút được người có tay nghề làm báo. Rõ ràng sự khủng hoảng về nguồn nhân lực đã và đang diễn ra trong làng báo.

Ngoài nỗi lo về mặt tài chính, làm sao để có doanh thu để tự trang trải chi phí và nuôi sống bộ máy một cách đàng hoàng, các cơ quan báo chí còn phải tìm con đường phát triển trong bối cảnh công nghệ thông tin đang có những bước tiến vũ bão và đang tác động mạnh vào hoạt động báo chí.

Nói gì thì nói, con đường phát triển đó đòi hỏi phải có đầu tư, cả về mặt con người lẫn cơ sở vật chất. Nếu vì cơ chế tài chính chưa thông thoáng báo chí đành lỡ mất những cơ hội theo kịp đà tiến của xã hội, để lại trận địa cho các mạng xã hội mà thôi.

Ai cũng đồng tình báo chí trong vai trò là công cụ cung cấp thông tin cả hai chiều, cả từ chính quyền đến người dân và từ người dân phản hồi trở lại cho chính quyền.

Nếu chỉ dừng lại một trong hai vế này đều không đầy đủ như rơi vào xu hướng xem nặng chiều tuyên truyền hay bỏ lơ những vấn đề quan trọng của xã hội. Nghệ thuật là sử dụng được cả hai kênh thông tin và đồng thời không tốn tiền ngân sách nhà nước!

Nguyễn Vạn Phú

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Quy chế tác nghiệp báo chí với ngành công an

Tóm tắt: 

cán bộ, chiến sĩ công an được phép cung cấp thông tin cho báo chí...

Đại tướng Trần Đại Quang - Bộ trưởng Bộ Công an đã ký Quyết định số 6163/QĐ-BCA ngày 12/11 về việc ban hành quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của ngành công an. Theo đó, cán bộ, chiến sĩ công an được phép cung cấp thông tin cho báo chí…

Bộ Công an ban hành quy chế cung cấp thông tin cho báo chí.

Theo quyết định, người phát ngôn cung cấp thông tin cho báo chí là Bộ trưởng Bộ Công an, Chánh văn phòng được Bộ trưởng giao nhiệm vụ phát ngôn, thường xuyên cung cấp thông tin cho báo chí, gọi là người phát ngôn. Người phát ngôn phải được công bố bằng văn bản về tên tuổi, chức vụ, số điện thoại, hồm thư điện tử…

Trong trường hợp cần thiết, Bộ trưởng có thể ủy quyền cho Thứ trưởng, Tổng cục trưởng, thủ trưởng cơ quan các đơn vị trực thuộc Bộ Công an, đây là người được ủy quyền phát ngôn. Người được ủy quyền chỉ áp dụng trong vụ việc cụ thể và thời hạn nhất định.

Trong trường hợp, người phát ngôn, người được ủy quyền phát ngôn không thể thực hiện việc phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí thì phải kịp thời báo cáo để Bộ trưởng chỉ định người có trách nhiệm thực hiện việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí.

Cùng theo quyết định này, cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng công an nhân dân được quyền cung cấp thông tin cho báo chí theo quy định của pháp luật và của ngành công an. Tuyệt đối không được nhân danh đơn vị và Bộ Công an. Không được tiết lộ bí mật điều tra, bí mật công tác, tài liệu mật và những và công việc nội bộ của ngành công an. Khi cung cấp thông tin cho báo chí phải trung thực và chịu trách nhiệm trước lãnh đạo, pháp luật về nội dung thông tin đã cung cấp. Cán bộ, chiến sĩ làm cộng tác viên cho các tờ báo phải báo cáo thủ trưởng đơn vị và thực hiện đúng các quy định của ngành về quản lý thông tin tuyên truyền.

Bên cạnh đó, Đại tướng Trần Đại Quang cũng yêu cầu Chánh văn phòng Bộ Công an phối hợp với thủ trưởng các đơn vị, địa phương cung cấp thông tin định kỳ cho báo chí về tình hình và công tác an ninh trật tự, xây dựng lực lượng hậu cần, kĩ thuật. Các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về những vấn đề liên quan đến công tác ngành công an. Nội dung các cuộc họp, hội nghị của ngành công an cần thiết phải tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân và những quan điểm, ý kiến giải quyết của lãnh đạo Bộ Công an về những vấn đề an ninh trật tự mà dư luận quan tâm.

Về hình thức cung cấp thông tin cho báo chí là bằng văn bản hoặc thông tin trực tiếp tại buổi họp giao ban báo chí hàng tuần do Ban Tuyên giáo trung ương, Bộ Thông tin truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam và trên cổng thông tin điện tử Bộ Công an.

Họp giao ban cung cấp thông tin cho báo chí định kỳ 3 tháng một lần, ngoài ra khi có sự kiện lớn quan trọng trong xã hội thuộc phạm vi quản lí nhà nước của Bộ Công an, cần thiết phải cung cấp thông tin cho báo chí để cảnh báo kịp thời, định hướng dư luận thì có thể phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí đột xuất bất thường.

Khi thấy cần thiết phải thông tin cho báo chí về các sự việc, vấn đề lớn thì người phát ngôn hoặc người được ủy quyền phải chủ động cung cấp thông tin cho báo chí. Đối với công an các đơn vị, địa phương, Bộ Công an yêu cầu cung cấp đầy đủ, chính xác, đúng thời hạn phục vụ việc phát ngôn thông tin cho báo chí theo yêu cầu người phát ngôn, người được ủy quyền phát ngôn.

Trường hợp có vụ việc phức tạp liên quan đến an ninh trật tự xảy ra ở địa phương, đơn vị thì cần phải có ngay thông tin cho báo chí. Nếu báo chí phản ánh sai về cán bộ, chiến sĩ thuộc đơn vị, địa phương nào thì thủ trưởng công an nơi đó phải có trách nhiệm chỉ đạo kiểm tra, kết luận sự việc, trả lời để định hướng báo chí. Trường hợp có căn cứ báo chí phản ánh đăng tải thông tin không đúng sự thật chưa đầy đủ về lĩnh vực ngành, địa bàn quản lí thì yêu cầu báo chí đó đăng tải ý kiến phản hồi, cải chính theo quy định của pháp luật.

T.M

 Nguồn: PetroTimes

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Bill Gates trở thành biên tập viên tạp chí

Tóm tắt: 

(ICTPress) - Gates cũng giúp Wired hoàn thành các câu chuyện đã từ lâu Tạp chí này theo đuổi.

(ICTPress) - Tạp chí Wired, tạp chí dành cho những người ham tìm hiểu về những xu hướng tiếp theo, vừa cho ra mắt số báo tháng 12 với một biên tập viên khách mời là Bill Gates, người đã giúp  cho số này tập trung vào sáng tạo để chữa trị bệnh tật, cứu sự sống và chấm dứt đói nghèo.

Bìa Tạp chí Wired số tháng 12/2013

Số Tạp chí này mà Gates bắt đầu làm việc bắt đầu vào mùa Xuân, đã xuất hiện trên quầy báo vào ngày 13/11.

Tạp chí Wired mà Gates biên tập có những công chuyện về chữa trị bệnh bại liệt, lập bản đồ các dự án và các giải pháp đào tạo “trường học trong một cái hộp” cho châu Phi. Bên cạnh tạp chí in, Gates đã xuất hiện trên một video trực tuyến cùng với cựu Tổng thống Bill Clinton.

"Bill đọc hầu hết mọi thứ trong số báo này nhiều lần và có những ghi chú về số báo”, Tổng Biên tập Tạp chí Wired Scott Dadich cho Mashable biết.

Số báo này có nội dung như danh sách kỳ nghỉ mong muốn của Gates, đó là mong muốn của Gates về 4 thiết bị thực tế chưa có và có khả năng giúp mọi người trên toàn thế giới. Các ý tưởng của Bill Gates sau đó đã được trình diễn cho các hãng thiết kế xây dựng các mẫu thử nghiệm sẽ là chủ đề của tạp chí.

Theo Dadich, Gates cũng giúp Wired hoàn thành các câu chuyện đã từ lâu Tạp chí này theo đuổi, đặc biệt là để cập kinh nghiệm của Gates về dập tắt các hàng trăm ca bại liệt.

“Bill là 1 trong 5 người quan trọng trên thế giới hiểu biết về bệnh bại liệt, do đó ông có đủ khả năng bình luận về việc này. Chúng tôi nghĩ số báo này có khả năng làm thay đổi một số tư duy”, Dadich cho biết.

Mai Nguyễn

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Sự trong sáng của tiếng Việt và nguy cơ bị "xâm lăng"

Tóm tắt: 

Với thực tiễn hiện nay, có thể nhận định rằng tiếng Việt đang bị “xâm lăng”, bị giảm bớt sự trong sáng bởi các ngôn từ, cách diễn đạt theo tiếng nước ngoài đang len lỏi trong giao tiếp, vào cả văn nói, văn viết hàng ngày của một bộ phận công chúng.

Với thực tiễn hiện nay, có thể nhận định rằng tiếng Việt đang bị “xâm lăng”, bị giảm bớt sự trong sáng bởi các ngôn từ, cách diễn đạt theo tiếng nước ngoài (tiếng Anh là chính) đang len lỏi trong giao tiếp, vào cả văn nói, văn viết hàng ngày của một bộ phận công chúng.

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người, luôn phát triển, không thể ngăn cản, nhưng không có nghĩa là phát triển bằng cách đưa ngôn từ, cách nói nước ngoài bừa bãi trong khi ngôn ngữ Việt có đủ từ, ngữ, năng lực thể hiện và diễn đạt.

Tiếng Việt rất đẹp, rất phong phú, là tiếng mẹ đẻ, cần bảo vệ sự trong sáng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn quan tâm tới việc bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, và thực sự là tấm gương về mặt này. Những bài nói, bài viết của hai nhà lãnh đạo tiền bối này luôn thuần khiết, chuẩn mực về tiếng Việt, là những áng văn hay.

Nói tiếng Việt “bị xâm lăng”, nghe ra có vẻ hơi quá, vì hiện tượng này mới diễn ra ở quy mô nhỏ, nhưng tiếc thay lại diễn ra mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh. Từ tiếng nước ngoài được sử dụng “vô tư”, không cần dịch nghĩa, giải thích. Đơn giản là những từ cửa miệng: Ok, No, Yes, Good, Very good; Sành điệu hơn là những từ hot, hotboy, hotgirl, diva, hit, chat…; Chính thức hơn là những thuật ngữ chuyên môn: GDP, IQ, ICOR v.v... Những danh từ tiếng Anh có từ tương đương trong tiếng Việt vẫn được sử dụng tràn lan như Showbiz, MC, Gameshow, Live Show, rocker, logistics, format, scandal, stress, PR, blogger, xêm xêm... Có cả những từ “trộn” Anh- Việt như Show diễn, sàn catwalk, các bài hit, tuổi teen… Rồi còn có cả những chương trình truyền hình tên tiếng Anh như Vietnam Idol, Vietnam Got Talent, Vietnam Next Top Model, The Voice v.v... Cứ như thế này thì tiếng Việt còn gì trong sáng và thuần Việt?

Ở lĩnh vực nào tiếng nước ngoài được “tôn vinh” nhất? Ở mọi lĩnh vực, nhưng nhiều nhất là trong ngành giải trí, giới nghệ thuật. Thật phản cảm khi người dẫn chương trình (MC), ca sĩ, diễn viên trên sân khấu nói một câu, một vài từ tiếng nước ngoài trước khi nói lại bằng tiếng Việt, hoặc ngược lại, nói từ tiếng Việt trước, dẫn từ tiếng Anh sau để diễn giải, cứ như tiếng nước ngoài mới là “chuẩn”. Rồi trong nhiều chương trình ca nhạc, nhiều ca sĩ “ưu tiên” chọn bài hát nước ngoài, say sưa diễn, biểu cảm. Đó là chưa kể một số ca sĩ vừa hát xong, phấn chấn hét lên “I love you”, giơ tay gửi chiếc hôn gió, gây khó chịu cho người nghe, người xem. Người Việt mấy khi bày tỏ “tình yêu công cộng” như thế? Nhiều ca sĩ có tuổi chỉ cúi đầu, nói “cám ơn” vừa đủ nghe.

Ngoài xã hội cũng có những biểu hiện sính ngoại, phổ biến như trương to tướng biển hiệu, tên cửa hàng, cửa hiệu, tên tòa nhà bằng tiếng nước ngoài. Nhiều biển hiệu viết chữ tiếng nước ngoài ở trên, to hơn tiếng Việt.

Trong báo chí thì sự trong sáng của tiếng Việt ít bị vi phạm hơn, nhưng bị “xâm hại” dưới dạng dùng lại những từ ngoại nhập như showbiz, tuổi teen, gameshow, live show của ngôn ngữ nói, và dùng cách viết, cách thể hiện đôi lúc đặc sệt phong cách nước ngoài, nhất là trong các tin, bài dịch từ báo chí nước ngoài. Gần đây trên báo chí còn xuất hiện xu hướng dùng nguyên tên nước, địa danh bằng tiếng nước ngoài, không phiên âm như thông lệ để phục vụ đông đảo bạn đọc. Trong thực tế, từ lâu đã hình thành một hệ thống tên nước phiên âm, Việt hóa dễ đọc, dễ nhớ như Mat-xcơ-va, Bắc Kinh, Mỹ… ai cũng đọc được, nghe là hiểu ngay. Ngày nay, những Egypt, Cypros, Maldives, Moscow, Jakarta, London v.v... được sử dụng khá phổ biến trên các báo, trừ một số báo chính thống như báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân.

Trong bối cảnh hội nhập thì dùng hạn chế tiếng nước ngoài ở một mức độ nào đó cũng có thể chấp nhận được, nhưng có lúc sự lạm dụng vượt quá ngưỡng cho phép của pháp luật. Cứ như chiến dịch “Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt” (tiếng Việt không phải là hàng), mở rộng ra lĩnh vực ngôn ngữ, thì tiếng mẹ đẻ cần phải được tôn trọng, ngoại trừ đối với một vài trường hợp như từ internet, là phát minh mới của loài người, cả thế giới đều dùng, chấp nhận dùng nguyên thể, dù dịch ra tiếng Việt cũng được.

Có thể khẳng định rằng mọi ngôn ngữ đều có thể chuyển ngữ được, kể cả sang tiếng Việt, và những từ riêng lẻ, dù khó đến mấy cũng không phải không có từ tương đương. Nói cách khác, có thể giữ được sự trong sáng của tiếng Việt, miễn là có ý thức về việc này. Nhiều người hài hước cho rằng người sính dùng (pha) tiếng nước ngoài là người hoặc rất giỏi, hoặc là người rất kém tiếng Việt, tiếng nước ngoài, vì không hiểu hết các sắc thái của ngôn ngữ, ngộ nhận sự hiểu biết của mình.

Vấn đề bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt cũng đã được nêu tại diễn đàn Quốc hội. Có đại biểu đã chất vấn Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo về việc trách nhiệm của một cơ quan quản lý nhà nước về việc này. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có lần phát biểu, đã chỉ ra trách nhiệm thuộc về viện nghiên cứu ngôn ngữ, thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo. Nhưng cho tới nay vẫn chưa có nỗ lực rõ rệt. Thiết nghĩ Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội là cơ quan có quyền lực có trách nhiệm giám sát, thúc đẩy công cuộc bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt.

Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, tiếng Việt của chúng ta được bổ sung nhiều từ ngữ, được Việt hóa. Tiếng Việt ngày nay có nhiều từ Hán Việt rất hay, gọn và lọn nghĩa. Một số từ tiếng Pháp, Anh cũng vậy, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học- kỹ thuật. May mắn thay, tiếng Việt vẫn thuần khiết, trong sáng, đẹp và giữ vững được bản sắc. Tuy nhiên, trước làn sóng hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, mong rằng các nhà báo hãy cùng tham gia, tham gia tích cực, có ý thức vào việc giữ gìn sự trong sáng, cái đẹp của ngôn ngữ Việt.

Hà Minh

Nguồn: Nhà báo và Công luận

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo