
Viễn thông
Xử lý tin nhắn rác qua kinh nghiệm của một số nước
Submitted by nlphuong on Tue, 27/08/2013 - 06:45(ICTPress) - Tin nhắn rác đang là một vấn nạn nghiêm trọng đối với các thuê bao điện thoại di động (ĐTDĐ) ở nước ta…
![]() |
Mặc dù Chính phủ đã ban hành các Nghị định 77/2012/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 90/2008/NĐ-CP về chống thư rác và Nghị định 83/2011/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực viễn thông và Bộ thông tin và Truyền thông đã có nhiều cố gắng trong mặt quản lý, thanh tra các hoạt động, nhưng tin nhắn rác vẫn đang hoành hoành trên các mạng ĐTDĐ của nước ta.
Theo BKAV trung bình mỗi ngày có có tới 9,8 triệu tin nhắn rác được gửi đến ĐTDĐ của người dùng ĐTDĐ ở nước ta và các nhà mạng thu gần 3 tỷ đồng từ tin nhắn rác [1]. Nhiều người dùng ĐTDĐ bị buộc phải thanh toán hàng triệu đồng cước phí “bất ngờ” từ những thủ đoạn gian lận để tính cước của các tin nhắn rác này…
Đặc biệt đầu năm 2013, Bộ đã nghiêm khắc xử phạt 4 doanh nghiệp Tinh Vân Telecom, Hà Thành, Lạc Hồng, E-WAY gần 2 tỷ đồng vì hành vi phát tán tin nhắn rác, tin nhắn lừa đảo, có nội dung đồi trụy [2]. Một số nhà mạng cũng đã tích cực sử dụng nhiều biện pháp ngăn chặn thư rác dù bị giảm doanh thu đáng kể, trong đó nổi bật là Viettel nhờ chính thức áp dụng hệ thống kiểm soát dịch vụ dựa trên quản lý cú pháp cung cấp dịch vụ với tất cả đầu số ngắn đang cung cấp nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng nên trong 2 tháng đầu năm 2013 số lượng khách hàng phản ánh về tin nhắn rác giảm đáng kể. Trước đó trung bình mỗi tháng Viettel nhận được 8000 cuộc gọi của khách hàng thì 2 tháng đầu năm nay chỉ còn khoảng 1500 cuộc.
Vấn nạn tin nhắn rác không phải chỉ có ở Việt Nam mà hầu như có ở tất cả các nước đang có các mạng ĐTDĐ. Tìm hiểu kinh nghiệm xử lý tin nhắn rác ở một số nước để nghiên cứu, áp dụng cho nước ta cũng là một con đường nhanh nhất và khá hiệu quả để xử lý triệt để hơn vấn nạn tin nhắn rác này [3].
Trước tiên chúng ta hãy xem xét một vụ kiện phát tán thư rác và cách xử lý của luật pháp Mỹ. Tháng 3/2012, Nhà mạng có uy tín của Mỹ AT&T nộp đơn đề nghị khởi tố các công ty phát tán tin nhắn rác đã sử dụng 14 số điện thoại phát tán trên 20 triệu tin nhắn rác và cuộc gọi cho các thuê bao điện thoại của AT&T. Theo lý thuyết mà nói thì trên 20 triệu tin nhắn rác đó đem lại cho AT&T không ít doanh thu, tại sao AT&T lại đâm đơn kiện? Nguyên do là ở chỗ: Đối với AT&T, VeriZon và các nhà mạng của Mỹ, tin nhắn rác là “con dao 2 lưỡi” vì ý thức pháp luật của dân chúng Mỹ khá mạnh, có thói quen kiện tụng; Nguyên nhân thứ 2 là vì trong một số gói cước của các thuê bao, khi nhận tin nhắn cũng phải nộp thêm cước phí, có những tin nhắn tính cước lên tới 20 cent, đương nhiên thuê bao sẽ liên tục khiếu nại. Và khi thuê bao thông qua điện thoại quy định của nhà mạng khiếu nại về tin nhắn rác, nhà mạng phải tốn chi phí khá cao cho mỗi cuộc điện thoại khiếu nại đó, thậm chí có lúc lên tới 5 - 50 USD. Năm 2011, lượng tin nhắn rác ở Mỹ tăng 45%, gây bức xúc lớn cho các thuê bao di động. Cả nhà mạng và thuê bao điện thoại đều là người bị hại. Việc nhà khai thác khởi kiện các công ty phát tán tin nhắn rác đã phát sinh trong bối cảnh đó.
Kinh nghiệm xử lý tin nhắn rác ở các nước nổi lên 5 giải pháp chính sau đây:
Tăng cường giáo dục về Luật pháp, hướng dẫn thuê bao trước tiên phải biết tự bảo vệ mình
Tháng 6/2003, Ủy ban Thương mại Liên bang Mỹ thiết lập “Danh sách các thuê bao không nhận quảng cáo qua điện thoại toàn nước Mỹ”. Tháng 12 năm đó, Chính phủ Mỹ ban hành luật chống thư rác đầu tiên trên cả nước. Luật này quy định: Các thuê bao điện thoại cố định và di động có thể thông qua đường dây nóng hoặc cổng thông tin điện tử của Chính phủ miễn phí đăng ký số điện thoại của mình vào danh sách “các thuê bao toàn nước Mỹ không nhận tin quảng cáo” và từ sau đó sẽ không bị các tin quảng cáo hoặc tin nhắn rác gây phiền hà.
Ở Singapore, dân chúng có thể đăng ký vào “Danh sách các thuê bao không nhận tin nhắn”. Bất cứ cơ quan, công ty hoặc cá nhân nào cũng không được gửi các tin nhắn rác vào các thuê bao đã đăng ký đó.
Ở Hồng Kông, chính quyền đặc khu liên tiếp ban hành các văn bản “quy định về các thông tin điện tử không mời mà đến và “quy tắc về các thông tin điện tử không mời mà đến”. Các văn bản này một mặt khắc chế việc phát tán các tin nhắn rác, mặt khác cũng đưa ra các yêu cầu đối với dân chúng bao gồm: Nếu không muốn tiếp tục nhận các thông tin quảng cáo điện tử cần phải phát thông tin cự tuyệt tiếp nhận đến bên phát tin; nếu không muốn tiếp nhận tất cả các tin quảng cáo điện tử (Trừ một số tin quảng cáo đã được chấp thuận) cần phải đăng ký số điện thoại và số Fax của mình vào danh sách cự tuyệt nhận tin mà chính quyền đã quy định; nếu công ty phát tán không thực hiện quy định, tiếp tục gửi tin thì thuê bao phải báo cáo lên Cục quản lý Viễn thông để tiến hành khởi tố v.v...
Phân rõ trách nhiệm, tăng nặng hình phạt đối với các hành vi phát tán phi pháp
Sau khi Luật pháp về bảo hộ thông tin cá nhân đã được hoàn thiện, ở nhiều nước khi xử lý thông tin rác đã có căn cứ luật pháp rõ ràng, trong các văn bản luật lệ liên quan không những làm rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan, mà còn đưa ra những hình phạt nặng nề đối với các hành vi phi pháp một cách rõ ràng.
Điểm đáng nói nhất là do pháp luật đã được kiện toàn, nhiều nước khi xử lý tin nhắn rác đã có chủ thể chấp pháp rõ ràng. Ví dụ, ở Singapore, Chính phủ thành lâp Sở bảo hộ thông tin cá nhân phụ trách xử lý các việc liên quan đến tin nhắn rác. Cục bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Ủy ban thương mại Liên bang Mỹ có riêng một đội công tác đặc biệt tiến hành điều tra các sự việc liên quan đến máy ĐTDĐ và xử lý các khiếu kiện về phát tán tin nhắn rác. Chính phủ Đức và các cơ quan giám sát thành lập Trung tâm xử lý các tin nhắn của máy ĐTDĐ phụ trách xử lý các vi phạm và trả lời các khiếu nại của thuê bao.
Đối với các nhà khai thác viễn thông, xuất phát từ chính sách bảo hộ quyền tự do thông tin và bí mật thông tin, hầu hết các nước đều không cho phép các nhà khai thác này tiến hành che lọc các tin nhắn. Tuy nhiên, ở Ấn Độ mỗi năm Chính phủ yêu cầu nhà mạng báo cáo chính thức bằng văn bản việc ngăn chặn phát tán tin nhắn rác, cho phép nhà khai thác dùng từ gốc lọc che các tin nhắn rác, đồng thời yêu cầu nhà mạng cấm chỉ việc phát tán cùng lúc trên quy mô lớn cho nhiều khách hàng, tước bỏ quyền truy nhập mạng của máy di động của kẻ tán phát tin nhắn rác.
Đối với các doanh nghiệp, hầu hết các nước đều cho phép phát tin nhắn quảng cáo, tuy nhiên có sự hạn chế nghiêm ngặt đối với các hành vi quảng cáo của họ. Nói chung, luật pháp đều quy định rõ việc gửi tin quảng cáo phải được bên nhận chấp thuận và có sự hạn chế nhất định về thời gian. Thí dụ, ở Cộng hòa Liên bang Đức “Pháp lệnh liên bang về chống phát tán thư rác” năm 2003 quy định: gửi tin giới thiệu sản phẩm và dịch vụ đến khách hàng phải được khách hàng chấp thuận bằng văn bản và việc phát tin quảng cáo từ 21h00 hôm nay đến 08h00 sáng hôm sau lại phải được khách hàng chấp thuận. Nhà quảng cáo khi đã được khách hàng chấp thuận, khi phát quảng cáo phải có 2 chữ: “Quảng cáo” và ghi rõ tên và địa chỉ, số điện thoại của đơn vị phát quảng cáo. Luật pháp của Anh, Hàn Quốc cũng tương tự.
Ngoài ra, các văn bản pháp luật liên quan của nhiều nước cũng quy định công khai và rõ ràng về các hình phạt nghiêm khắc đối với hành vi phát tán tin nhắn rác, tạo nên sự răn đe của pháp luật. Chẳng hạn luật pháp Đức quy định, kẻ phát tán tin nhắn rác bừa bãi, nặng nhất phải phạt tới 50.000 euro, nếu phát tán tin nhắn sex và các tin không bình thường đều bị liệt vào tội có hành vi phi pháp và bị truy tố hình sự.
Pháp luật của Anh cho rằng phát tán tin nhắn rác là một loại tội phạm, khi bị khiếu kiện ở tòa án địa phương, kẻ phát tán nặng nhất có thể bị phạt tới 5000 bảng Anh. Nếu ở tòa án có đoàn bồi thẩm tham dự khoản phạt sẽ không bị hạn chế.
Bộ Thông tin tình báo của Hàn Quốc quy định: nếu như thuê bao ĐTDĐ không muốn nhận các tin ngắn nào đó, cước điện thoại phát sinh sẽ do bên phát tán gánh chịu và được miễn phí thông qua máy điện thoại 080 báo cáo sự việc cho nhà quản lý, đồng thời kẻ phát tán bừa bãi tin nhắn rác có thể bị phạt tới 8500 USD.
Năm 2000, Nhật Bản xây dựng và ban hành “Luật giao dịch các thương vụ đặc biệt” và “Luật về Bưu kiện điện tử đặc biệt” đều quy định: Một khi thuê bao đã cự tuyệt chấp nhận gửi tin ngắn đến thì cấm chỉ việc phát tán lần nữa. Nếu không sẽ bị xử lý với tội danh cản trở việc thông tin bưu kiện điện tử.
Luật “Bảo hộ thông tin cá nhân” mà Singapore sắp thực hiện thậm chí quy định: Một khi phát hiện có hành vi phát tán phi pháp, Sở bảo hộ thông tin cá nhân có quyền xử phạt lên mức cao nhất 1 triệu đô la Singapore, trong đó mỗi lần phát một tin nhắn hoặc gọi một cuộc điện thoại đến thuê bao đã đăng ký trong danh sách không nhận tin quảng cáo thì bị phạt có thể lên tới 10.000 đô la Singapore/mỗi tin.
Đăng ký đúng tên và địa chỉ, dễ dàng truy xét căn nguyên
Nhằm ngăn chặn các phàn tử tội phạm sử dụng ĐTDĐ phát tin ngắn lừa đảo hoặc tiến hành các hoạt động phi pháp, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore và nhiều nước khác đều tiến hành cơ chế đăng ký thuê bao đúng tên đúng địa chỉ. Một khi phát hiện có tin nhắn rác sẽ dể dàng truy tìm căn nguyên.
Ở Mỹ, khi thuê bao ký hợp đồng với nhà mạng đều phải điền vào mã an toàn xã hội. Hàn Quốc thì sử dụng chế độ đăng ký số thuê bao để truy cập mạng. Năm 2000, Nhật Bản quy định các thuê bao trả trước mới tham gia mạng phải cung cấp đầy đủ các thông tin cá nhân cho nhà khai thác. Nhà khai thác mang máy di động đến tận địa chỉ của người xin tham gia mạng, xác nhận đúng địa chỉ mới được chính thức truy nhập mạng. Đối với các thuê bao đã tham gia mạng từ trước thì yêu cầu gọi đến thuê bao đó, yêu cầu cung cấp đầy đủ các thông tin cá nhân: địa chỉ, số điện thoại, v.v... Từ năm 2005, ở Singapore bắt đầu áp dụng phổ cập hệ thống quét xác nhận thẻ chứng minh cá nhân ở các điểm công cộng và trên các phương tiện giao thông, qua đó bắt buộc những người sử dụng thẻ di động trả trước phải đăng ký các thông tin cá nhân.
Nghiên cứu triển khai các công nghệ mới, nhà khai thác phải chủ động tấn công
Tin nhắn rác gây tổn thất không nhổ cho các nhà khai thác vô tuyến ở Mỹ; vì vậy, với sự tổ chức của Hội Vô tuyến điện và Hội Internet Mỹ, các nhà khai thác thông tin vô tuyến của Mỹ tăng cường hợp tác, bỏ ra hàng trăm triệu USD nghiên cứu phát triển các phần mềm mới để chống tin nhắn rác, tạo nên một thị trường phần mềm triệt tin nhắn rác sôi động.
Ở các nước khác cũng không thiếu các nhà khai thác có các hành động tương tự. Các nhà khai thác viễn thông của Nhật từng đưa thiết bị mới vào, để thuê bao chủ động che lọc các tin nhắn rác có khối lượng phát tán quá 200 lần/ngày; thuê bao còn có thể tự phát tín hiệu không chấp nhận tin ngắn gửi đến ngay trên máy cầm tay của mình.
Hàn Quốc cũng đã cải tiến chức năng của máy cầm tay, cho phép thiết lập danh sách các tin ngắn không chấp thuận ngay trên máy của mình; Công ty Vodafone của Anh phát minh ra phương pháp báo cáo tự động: khi hệ thống giám sát phát hiện có tin nhắn rác thì máy cầm tay tự động phát tín hiệu báo cáo được miễn phí cho nhà khai thác và cơ quan công an. Tất cả những biện pháp nói trên đều nâng cao ý thức tự bảo vệ quyền lợi của mình của thuê bao và có tác dụng chống thư rác một cách tích cực.
Thay đổi tư duy, tìm tòi mô hình kinh doanh mới
Nghiên cứu các văn bản luật pháp của các nước liên quan đến xử lý thư rác, có thể phát hiện một điểm chung của các văn bản luật pháp này là đem quyền xử lý thư rác trước tiên trao vào tay thuê bao. Nếu thuê bao không muốn nhận bất cứ tin nhắn quảng cáo nào thì chỉ việc báo số điện thoại của mình cho cơ quan giám quản nhà nước và sẽ không bị phiền hà. Nếu thuê bao nhận thấy một số thông tin quảng cáo còn có ích cho mình và chọn lọc để tiếp nhận, thì người phát tin vẫn phải được sự chấp thuận bằng văn bản của thuê bao, nếu không sẽ bị xem là phát tán thư rác phi pháp.
Đi sâu nghiên cứu vấn đề này có thể nhận thấy “tin nhắn rác” thực ra cũng chỉ là một dạng quảng cáo như các quảng cáo trên truyền hình, trên báo chí, trên đài phát thanh v.v..., chỉ khác nhau ở cách truyền dẫn mà thôi. Vì vậy, cần đổi mới tư duy, làm cho các thuê bao vui vẻ tiếp nhận một phần các tin quảng cáo có ích cho họ và xem đây là một phương thức kinh doanh để tìm ra một mô thức kinh doanh hiệu quả, hấp dẫn, không gây phiền hà cho thuê bao. Ở một số nước, nhà khai thác viễn thông hoặc nhà phát tin quảng cáo ký hợp đồng với thuê bao điện thoại quy định nếu thuê bao nhận một số tin quảng cáo thì được giảm một phần cước phí hoặc được cấp thêm một thời gian đàm thoại nhất định. Trong mô thức kinh doanh này, thuê bao điện thoại đã trở thành người có lợi khi nhận tin quảng cáo, vì vậy mà họ không hề khó chịu hoặc khiếu nại.
Tóm lại, để xử lý thư rác cần có sự đồng tâm hiệp lực của các cơ quan lập pháp, cơ quan công an, cơ quan thương mại, cơ quan quản lý và giám sát thông tin, các nhà khai thác và các thuê bao điện thoại. Đối với các hành vi phát tán thư rác phi pháp phải kiên quyết tấn công kịp thời, còn đối với các thông tin quảng cáo thương mại, cần đổi mới tư duy của khách hàng, dùng mô thức kinh doanh thích hợp làm cho nó trở thành những thông tin có ích trong kinh doanh được thuê bao điện thoại vui vẻ chấp nhận.
Nguyễn Ngô Hồng
Tài liệu tham khảo :
[1]. www.dantri.com.vn/suc-manh-so/bkav-nha-mang-thu-gan-3-ty-dong-moi-ngay-tu-tin-nhan-rac-657525.htm
[2]. www.infonet.vn/cong-nghe/nha-mang-ra-tay-xu-CSP-tin-nhan-rac-giam-manh/71486.info
[3]. www.cnii.com.cn ngày 4/6/2013: Hiểu Nha: Làm thế nào để trừng trị tin nhắn rác.
4 yếu tố cốt lõi giúp nhà mạng cạnh tranh với OTT
Submitted by nlphuong on Tue, 20/08/2013 - 08:00(ICTPress) - Như chúng ta biết, xu hướng OTT đã ảnh hưởng đến hầu hết mọi nhà mạng trên thế giới, từ nhỏ đến lớn nhất như China Mobile, AT&T hay Vodafone.
![]() |
Do mức độ thâm nhập OTT vào cuộc sống tự nhiên và nhanh, nên một số nhà mạng chủ quan, nhận diện hời hợt và chậm chuyển mình ứng phó. Chỉ khi nguy cơ hiện rõ thì các nhà mạng mới bắt đầu tìm giải pháp.
Bài viết đề cập đến những yếu tố cốt lõi mà các nhà mạng lớn trên thế giới thường xây dựng và phát triển để cạnh tranh trước thay đổi môi trường kinh doanh, cụ thể cạnh tranh với xu hướng OTT.
Thực trạng nhà mạng quốc tế
Ảnh hưởng của "bão" OTT
Dự báo từ nhà mạng China Mobile thì đến năm 2018, doanh thu thoại và tin nhắn của họ có thể sẽ giảm xuống mức dưới 50%. Với dự báo này, những nhà mạng có cấu trúc doanh thu chủ yếu dựa vào thoại và nhắn tin sẽ khó khăn sâu trong thời gian tới và các nhà mạng cần nhanh chóng mở rộng lĩnh vực kinh doanh để bù đắp khoản doanh thu bị hao hụt. Hầu hết các nhà mạng lớn đều có các mảng doanh thu bù đắp, bên cạnh thoại và tin nhắn, các nhà mạng đã đầu tư vào lĩnh vực sức khỏe, y tế, giáo dục, quảng cáo, truyền hình, dịch vụ CNTT, tivi, thiết bị di động, M2M… Tuy nhiên, không thể làm tất cả cùng lúc mà phải hiểu rõ địa ngành để chọn cái nào phù hợp nhất đầu tư.
Ngoài ảnh hưởng mạnh về doanh thu, nhà mạng còn bị ảnh hưởng về vị thế kinh doanh. Trước đây, nhà mạng làm chủ thị trường Viễn thông, từ khách hàng, đối tác đến nhà cung ứng nội dung, thiết bị đều ở thế bị động khi liên kết với nhà mạng… thì nay nhà mạng đang dần thay đổi vị thế đúng mức hơn, cùng song hành với các bên hữu quan để tìm phương án phát triển bền vững.
Phản ứng của nhà mạng
Tùy vào đặc điểm của mỗi quốc gia mà nhà mạng có những phản ứng khác nhau. Nhìn chung các nhà mạng thường có khuynh hướng ngăn chặn các nguy cơ trước khi tìm giải pháp thích ứng và vượt qua. Ví dụ các nhà mạng Hàn Quốc, ban đầu cũng tận dụng sự hỗ trợ từ chính phủ để chặn các dịch vụ của KaKao-Talk, nhưng do việc chặn ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng nên họ buộc phải ngừng chặn và tìm giải pháp thích ứng với OTT. Hiện hầu hết các nhà mạng lớn như AT&T, Vodafone, China Mobile và SK Telecom đều tung các gói cước thích ứng với OTT.
Song song với phương pháp điều chỉnh gói cước, các nhà mạng cũng đưa ra các giải pháp "đáp trả" OTT bằng cách cùng liên minh xây dựng các nền tảng dịch vụ truyền thông hợp nhất đặc sắc. Điển hình là nền tảng RCS được hiện thực bởi hệ ứng dụng Joyn, cho phép người dùng có thể chat, chia sẻ nội dung và trao đổi mạng xã hội thuận tiện hơn các OTT đơn lẻ hiện nay. Nền tảng RCS/Joyn là một điển hình ứng phó tích cực của các nhà mạng, tuy nhiên yếu tố thời gian và sự hợp nhất sâu rộng giữa các nhà mạng ở quy mô toàn cầu sẽ quyết định tính hiệu quả của RCS.
Thường các nhà mạng lớn rất chú trọng công tác R&D. Nhờ đầu tư bài bản vào R&D, nhà mạng rất linh hoạt và chủ động đưa yếu tố CNTT tích hợp hài hòa vào Viễn thông một cách nhanh chóng khi môi trường kinh doanh biến đổi. Nhờ vậy, họ có nhiều thuận lợi khi đối mặt với OTT. Họ nhanh chóng đưa ra nhiều nền tảng mới, mô hình kinh doanh mới và các dịch vụ độc đáo phù hợp bản địa kịp thời.
Giải pháp nào cho nhà mạng trong nước
Sự khác biệt và tương đồng giữa nhà mạng trong và ngoài nước
Cơ bản thì các nhà mạng trong nước cũng bị ảnh hưởng giống nhà mạng quốc tế, đều bị tụt giảm doanh thu thoại và tin nhắn. Đây là xu hướng toàn cầu!. Tuy nhiên, do đặc thù ngành ICT Việt Nam, nên mức độ ảnh hưởng của các nhà mạng trong nước có vẻ vẫn chưa đáng kể dù lượng thuê bao 3G đạt gần 20 triệu. Điều này cũng hơi ngạc nhiên!.
Vừa rồi, Apple đã tung nền tảng iOS 7 tích hợp tính năng thoại miễn phí. Đây được xem là dấu hiệu cho thấy các tính năng cơ bản như gọi và nhắn tin sẽ được tích hợp sẵn vào các nền tảng (Android, iOS, Window Phone, Tizen) trong tương lai, khi đó người dùng sẽ không cần phải cài các ứng dụng riêng lẻ như Viber để gọi miễn phí. Xu hướng này ắt hẳn khiến doanh thu của nhà mạng trong nước tụt giảm nhanh hơn trong thời gian tới.
Có người đã hỏi tại sao nhà mạng Việt Nam không áp dụng cách tính cước giống nhà mạng nước ngoài (miễn phí thoại và tin nhắn, tính cước theo lưu lượng data)? Rất khó cho các nhà mạng trong nước nếu áp dụng cách tính cước theo data vì cấu trúc doanh thu của nhà mạng nước ta chủ yếu dựa vào thoại và tin nhắn. Ngoài ra, thói quen tiêu dùng data của người Việt chưa cao mà đa phần chỉ tập trung vào thoại, nhắn tin và duyệt Web, chất lượng data thấp nên khó kích thích nhu cầu sử dụng data và tốc độc 3G còn chập chờn… vì vậy nếu nhà mạng áp dụng cách tính cước theo data thì e doanh thu tụt giảm rất nhanh, doanh thu từ data chưa thể bù đắp kịp.
Nhà mạng cần gì để cạnh tranh với OTT?
Xu hướng di động bùng nổ, cùng sự phát triển nhanh của các công nghệ big data, cloud và mobility khiến môi trường kinh doanh hiện nay rất cạnh tranh và đa dạng. Nhà mạng cần bảo đảm chuyển mình đủ nhanh để kịp thích ứng với xu hướng mới. Đối thủ của nhà mạng giờ không chỉ có các nhà mạng cùng ngành, mà còn có nhà cung cấp dịch vụ OTT (Google, Facebook, Viber), nhà sản xuất thiết bị (Apple, Samsung) và cả các lập trình viên …
Quan sát, có thể nhận thấy có 4 yếu tố trọng yếu nền tảng mà các nhà mạng lớn trên thế giới thường có:
Về hạ tầng mạng lưới: năng lực mạng lưới là yếu tố cạnh tranh duy nhất mà chỉ nhà mạng mới có. Tuy nhiên, mạng lưới phải đủ rộng lớn và nhanh để đáp ứng nhu cầu data ngày càng tăng cao. Ngoài hạ tầng mạng Viễn thông, tùy vào chiến lược kinh doanh của mỗi nhà mạng mà họ cần thêm các Data Center, Call Center và Logistic tương ứng. Hạ tầng ICT là yếu tố nền tảng cốt lõi để có thể khai thác tốt xu hướng công nghệ Big Data, Cloud và Mobility.
Nổi bật cho năng lực này là nhà mạng AT&T, họ đã và đang triển khai mạng 4G, có khoảng 38 IDC khắp toàn cầu, và doanh thu năm 2012 khoảng 126 tỷ USD. Một số OTT cũng bắt đầu nghiên cứu giải quyết vấn đề hạ tầng mạng lưới cho mình, điển hình như dự án Google Loon, cho phép người dân toàn cầu kết nối WiFi miễn phí.
Về năng lực R&D: nghiên cứu và làm chủ công nghệ là một trong những yếu tố then chốt giúp mở rộng và tăng trưởng doanh thu bền vững. Không đầu tư bài bản R&D, đồng nghĩa với hạn chế trong việc cung ứng dịch vụ sản phẩm mới, độc đáo đến người tiêu dùng kịp thời.
Minh chứng điển hình về đầu tư R&D là nhà mạng China Mobile. Ngay từ năm 2010, China Mobile đã làm chủ và tự triển khai dự án “Big Cloud” ở cấp quốc gia với năng lực Cloud đáp ứng lên đến 5.000 chip và 3.000 TB.
Về năng lực quản trị: các nhà mạng lớn nhất hiện nay đều có hệ thống quản trị hiện đại. Với hệ thống CNTT hiện đại, họ nhanh chóng nhận biết được xu hướng kinh doanh thay đổi, rủi ro trong ngoài tổ chức để kịp thời điều chỉnh cải tiến kinh doanh phù hợp. Việc ứng dụng CNTT tốt, còn giúp tăng cường khả năng quản trị minh bạch, tự động hóa bán buôn và kiểm soát tốt mọi hoạt động chi phí, đầu tư mua sắm.
China Mobile, AT&T và Vodafone đều là những nhà mạng đại chúng hàng đầu thế giới, họ luôn hướng đến sự minh bạch trong quản trị.
Về trách nhiệm xã hội cộng đồng: muốn phát triển lớn mạnh và bền vững, phải biết lấy cộng động và xã hội là nguồn cội cho sự phát triển. Nhà mạng chỉ thật sự trường tồn nếu biết đặt quyền lợi khách hàng lên trên quyền lợi của chính mình, biết dựa vào chính cộng đồng xã hội để làm tiền đề cho sự phát triển.
Ví dụ, nhà mạng AT&T tạo điều kiện hỗ trợ việc làm cho những người lính hoàn thành nghĩa vụ. Hay nhà mạng China Mobile ưu tiên đô thị hóa nông thôn, cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho người khuyết tật và vùng xâu vùng xa.
Nếu xây dựng và duy trì tốt 4 yếu tố nền tảng trên, các nhà mạng sẽ tự nhận biết được nên cần làm gì để kiến tạo những giá trị cạnh tranh mới khi môi trường kinh doanh thay đổi.
Phạm Văn Việt - VietPace
Cisco chuyển hướng chiến lược trung tâm dữ liệu sang các ứng dụng
Submitted by nlphuong on Sat, 03/08/2013 - 23:10(ICTPress) - Cơ sở hạ tầng - lấy Ứng dụng làm trung tâm, cùng với Insieme; Tự động hóa chuyển mạch động, cho phép quản lý và cấp phát tài nguyên Trung tâm dữ liệu một cách dễ dàng hơn, và thiết bị chuyển mạch mới Nexus 7700 là những công nghệ mới nhất mà Cisco vừa chính thức cho ra mắt.
Cơ sở hạ tầng lấy ứng dụng làm trung tâm
Mới đây, Cisco đã chính thức công bố một kiến trúc mạng trung tâm dữ liệu đột phá. Được thiết kế nhằm đẩy mạnh kỷ nguyên Cơ sở hạ tầng lấy Ứng dụng làm trung tâm, kiến trúc mạng của Cisco được xây dựng với mục đích chuyển đối các trung tâm dữ liệu nhằm giải quyết tốt hơn nhu cầu của những ứng dụng hiện tại và ứng dụng mới trong kỷ nguyên Điện toán đám mây.
![]() |
Mô hình Cơ sở hạ tầng lấy Ứng dụng làm trung tâm của Cisco |
Được tăng tốc với đầu tư của Cisco vào công ty Insieme Networks (đến 27/4/2013, Cisco đã sở hữu khoảng 85% Insieme), sự thay đổi cơ bản về cơ sở hạ tầng lấy Ứng dụng làm trung tâm này sẽ cho phép ngành CNTT có khả năng cung cấp các ứng dụng kinh doanh tới người sử dụng một cách nhanh chóng với mô hình hoạt động đơn giản hơn. Cơ sở hạ tầng bảo mật có khả năng mở rộng với mức chi phí tối ưu. Thay đổi này đòi hỏi cần có một cơ sở hạ tầng mở, có khả năng lập trình và tự động hóa để sẵn sàng xử lý những thách thức từ các mô hình triển khai điện toán đám mây và các dữ liệu lớn (Big Data) hiện nay.
Những đặc tính quan trọng của kiến trúc mới này bao gồm:
Tốc độ triển khai ứng dụng (mọi dung lượng, mọi địa điểm): Thời gian triển khai ứng dụng sẽ được rút ngắn nhờ cơ sở hạ tầng mạng được hoàn toàn lập trình và tự động hóa.
Nền tảng mở chung cho cơ sở hạ tầng vật lý, ảo hóa và điện toán đám mây: Kiến trúc này sẽ cung cấp sự tích hợp hoàn toàn cho các ứng dụng ảo hóa và không ảo hóa thông qua việc chuẩn hóa truy cập của các thiết bị đầu cuối trong khi vẫn duy trì sự linh hoạt của phần mềm cùng với năng lực xử lý, hiệu năng cao, quy mô, khả năng nhận biết của phần cứng đối với các ứng dụng này, trong môi trường ảo hóa của nhiều nhà cung cấp, môi trường phân tán quy mô lớn hay điện toán đám mây.
Kiến trúc hệ thống: Một phương thức tiếp cận đơn giản hóa và tổng thể đối với sự tích hợp của cơ sở hạ tầng, các dịch vụ và bảo mật và khả năng mở rộng các dịch vụ trong tương lai.
Vận hành, Quản trị và Chính sách chung: Một khung quản lý chính sách và mô hình hoạt động chung điều khiển quá trình tự động hóa xuyên suốt hệ thống mạng, bảo mật và các ứng dụng, có khả năng mở rộng sang hệ thống điện toán và lưu trữ trong tương lai.
Các giao diện lập trình ứng dụng mở (APIs), Mã nguồn mở và Đa nhà cung cấp: sự hỗ trợ của cả mạng lưới đối tác rộng lớn đối với bộ các giao diện lập trình ứng dụng mở toàn diện đã được công bố.
Tận dụng thế mạnh của các con chip thiết kế và có sẵn: Một hướng tiếp cận cân bằng cung cấp khả năng đổi mới nhanh hơn cùng với sự tiếp nhận của khách hàng cũng nhanh hơn, đồng thời cho phép sự chuyển dịch có kiểm chứng sang cơ sở hạ tầng lấy ứng dụng làm trung tâm trong tương lai. Cách tiếp cận này có thể tối ưu giá thành, hiệu suất, mật độ, bảo mật và năng lượng, mà vẫn mang lại an toàn đầu tư cho những thiết bị cáp hiện tại thông qua những cải tiến về quang học. Khi người dùng ứng dụng giải pháp 40G hiện tại và 100G trong tương lai, cách tiếp cận này cho phép họ tối ưu hóa cả chi phí vốn và chi phí vận hành.
Chuyển mạch hợp nhất
Cải tiến quan trọng của Cisco trong danh mục các sản phẩm Chuyển mạch Hợp nhất là Công nghệ Tự động hóa Chuyển mạch động (DFA - Dynamic Fabric Automation). Công nghệ này cho phép tự động hóa việc cấp phát tài nguyên mạng, đơn giản hóa việc quản lý hệ thống chuyển mạch và tối ưu hóa hệ thống chuyển mạch này cho hiệu suất và quy mô cao hơn.
![]() |
Kiến trúc Tự động hóa Chuyển mạch động |
Tối ưu hóa cơ sở hạ tầng mạng nhằm nâng cao hiệu quả và quy mô: Tối ưu hóa mô hình mạng xương - lá (spine - leaf) với khả năng chuyển mạch mạnh mẽ, cơ chế điều khiển phân tán cùng với sự tích hợp mạng vật lý và mạng ảo cho phép kết nối ở mọi vị trí với khả năng truyền dẫn thông suốt cho các máy móc vật lý và máy ảo, và khả năng mở rộng mạng lưới. Điều này cũng mang lại khả năng phục hồi cao cùng với những miền quản trị lỗi nhỏ hơn và quy mô chia sẻ hạ tầng lên tới hơn 10.000 chủ thuê bao (tenants)/hệ thống mạng.
Đơn giản hóa quản lý mạng lưới với APIs mở để đơn giản hóa vận hành: Cisco Prime DCNM 7.0 cung cấp quy trình quản lý mạng tập trung, bao gồm việc cấp phát tài nguyên mạng tự động, điểm truy cập mạng chung, cùng với khả năng nhận diện máy chủ, hệ thống mạng và chủ thuê bao (tenant) tốt. APIs mở cho phép khả năng tích hợp tốt hơn với những công cụ đa dạng và tự động hóa, cùng với những nền tảng điện toán đám mây.
Phần mềm Prime Data Center Network Manager (DCNM) 7.0: Điểm quản trị tập trung thực hiện tự động hóa và đơn giản hóa việc triển khai cơ sở hạ tầng, cho phép cấp phát tài nguyên động phục vụ triển khai hệ thống máy ảo (VM) và cung cấp những công cụ xử lý sự cố.
Phần mềm Prime Network Service Controller 3.6: Triển khai linh hoạt các dịch vụ mạng, liên kết với VMware và Cisco Nexus 1000V, và truyền dữ liệu thích hợp đến DCNM.
Cấp phát tài nguyên mạng tự động giúp tăng độ nhạy bén: Cho phép tự động hóa và cấp phát tài nguyên mạng một cách linh động giúp đơn giản hóa việc triển khai các máy chủ vật lý và máy ảo, cũng như thực hiện việc chuyển dịch các thiết bị này trong hạ tầng chuyển mạch. Dựa trên những mẫu hồ sơ kết nối, các chính sách mạng được tự động thiết lập và áp dụng vào các điểm truy nhập khi hệ thống quản trị máy chủ cấp phát kết nối cho máy vật lý và máy ảo. Do các máy ảo di chuyển trong toàn hệ thống chuyển mạch, chính sách mạng được áp dụng tự động lên các bộ chuyển mạch truy nhập.
Sự kết hợp những tính năng trên đem lại những lợi ích đáng kể so với những cách tiếp cận ảo hóa mạng thuần túy phần mềm hoặc các hệ thống mạng vật lý riêng biệt.
Các Bộ chuyển mạch và thiết bị Nexus 7700 mới
Cisco đang cung cấp những cập nhật cho danh mục sản phẩm Nexus hiện tại, phát triển nền tảng chuyển mạch hợp nhất đảm bảo hệ thống mạng hoàn thiện hơn về quy mô, sự linh hoạt, và khả năng quản lý. Những cập nhật này bao gồm việc cấp phát tài nguyên đơn giản hơn, quy trình quản lý tốt hơn, và những bộ chuyển mạch mới.
![]() |
Việc mở rộng danh mục các sản phẩm Nexus 7000 với bộ chuyển mạch Nexus 7700 mới và mô-đun I/O dòng F3 cung cấp khả năng mở rộng năng lực chuyển mạch với giao tiếp 40G/100G - dẫn đầu ngành công nghiệp, cùng với đó là bộ tính năng toàn diện nhất dành cho hệ thống chuyển mạch trong trung tâm dữ liệu.
Cisco mở rộng danh mục các sản phẩm Nexus 7000 với những bộ chuyển mạch Nexus dòng 7700 và các modun I/O dòng F3 mới, bao gồm:
Các bộ chuyển mạch Nexus dòng 7700, bao gồm sản phẩm Nexus 7710 (10-slot) và Nexus 7718 (18-slot) thân thiện với môi trường.
Các modun I/O dòng F3 mới, được hỗ trợ bởi cả bộ chuyển mạch dòng 7000 và 7700, sẽ cung cấp mật độ kết nối 40G/100G cao, nâng cao hiệu quả sử dụng điện năng tới 60%, và hỗ trợ một loạt các tính năng chuyển mạch trung tâm dữ liệu đã được kiểm chứng.
Với những cải tiến này, sản phẩm Nexus 7718 cung cấp số lượng giao tiếp kết nối 40G và 100G cao nhất hiện nay, lên đến 384 cổng 40-Gpbs và 192 cổng 100-Gbps. Nexus 7718 được thiết kế nhằm cung cấp năng lực chuyển mạch lên đến 83 Tbps.
Các Bộ chuyển mạch Nexus dòng 7700 mới dự kiến sẽ có mặt trên thị trường vào tháng 7/2013 và các modun I/O dòng F3 mới sẽ được ra mắt vào nửa cuối năm 2013.
Minh Thiện
Bộ xử lý smartphone: đôi khi ít hơn lại là nhiều hơn
Submitted by nlphuong on Mon, 29/07/2013 - 06:55(ICTPress) - Tim McDonough, Phó Chủ tịch Bộ phận Marketing, Qualcomm CDMA Technologies, vừa công bố một bài viết trên trang blog của Qualcomm về tầm quan trọng của chất lượng các lõi so với số lượng lõi trong bộ vi xử lý của smartphone.
![]() |
Tim McDonough |
Liệu có phải nhiều hơn lúc nào cũng đồng nghĩa với tốt hơn không?
Jimmy Fallon cho là như vậy. Nhưng liên quan đến các bộ xử lý di động, đôi khi ít hơn lại là nhiều hơn.
Để bổ sung thêm sức mạnh xử lý một cách nhanh chóng là nhồi nhét nhiều lõi (hay các "bộ não" của máy tính cá nhân) vào một con chip duy nhất. Điều đó nghe có vẻ hợp lý phải không? Nếu một bộ não đã tốt, thì theo lẽ thường, tám bộ não nhất định phải tốt hơn.
Nhưng bạn cũng cần phải đánh giá xem các lõi xử lý mạnh mẽ đến mức độ nào. Những ai đã từng phải tham dự một cuộc họp lộn xộn sẽ hiểu rõ điều đó, bởi vì việc phải cố gắng giải quyết một vấn đề khó khăn bằng nhiều bộ não kém thông minh lại có thể là một quá trình khó khăn và không hiệu quả.
Thay vì nhồi nhét rất nhiều lõi xử lý vào trong một con chip, điều quan trọng là phải phát triển được những lõi xử lý mạnh mẽ nhất trên trái đất. Và sau đó chúng ta sẽ xác định sốlượng lõi xử lý tối ưu để tạo ra “tốc độ ấn tượng”.
Hãy quan sát biểu đồ dưới đây, trong đó minh họa về hiệu năng của bộ xử lý Snapdragon S4 Pro lõi tứ của chúng tôi được Qualcomm Technologies, Inc. công bố vào năm ngoái. Bên cạnh đó là kết quả hiệu năng của bộ xử lý mới nhất của chúng tôi, bộ xử lý Snapdragon 800, cũng có 4 lõi xử lý.
Số lượng lõi không thay đổi, nhưng bộ xử lý Snapdragon 800 đã được kiến trúc lại đạt được mức gia tăng hiệu năng ở mức độ ấn tượng là 170%.
![]() |
Kết quả hiệu suất CPU (chuẩn Quadrant) (Nguồn: Engadget) |
Đây là một cách khác để nhìn nhận về điều đó. Nếu bạn muốn biến chiếc xe của mình trở thành một cỗ xe đua hiệu suất cao, bạn sẽ không gắn tới 8 động cơ ở dưới nắp ca-pô. Bạn chỉ cần đặt 1 động cơ phù hợp ở bên trong, tương ứng với hiệu suất mà bạn muốn tạo ra và quãng đường mà bạn muốn đi qua.
Điều quan trọng là phải nhớ rằng, mặc dù động cơ có vai trò rất quan trọng, nó mới chỉ là một phần của chiếc xe. Phải cần đến nhiều linh kiện có chất lượng cao nữa mới có thể phát triển một chiếc xe tuyệt vời mà bạn yêu thích. Điều này cũng đúng với các bộ vi xử lý di động. Các lõi xử lý chỉ chiếm từ 15 đến 20% các chipset Qualcomm Snapdragon. Phần còn lại bao gồm các thành phần quan trọng khác, bao gồm bộ xử lý đồ họa (GPU), bộ xử lý tín hiệu số (DSP), LTE modem mạnh mẽ, hiệu quả, vv...
Chính nhờ các thành phần này được tích hợp trên một đế silicon duy nhất, chúng phối hợp làm việc với nhau một cách liền mạch để đạt được hiệu suất tối ưu. Điều đó hỗ trợ những tính năng khác biệt như cảm biến máy ảnh có độ trễ màn trập bằng không, tính năng quay và phát lại Video Ultra HD, âm thanh vòm 7.1, và duyệt web thông qua kết nối LTE Advanced tốc độ cao, lên đến 150 Mbps.
Bạn có thể đọc thêm về các tính năng này trong bộ xử lý Qualcomm Snapdragon 800 tại đây.
Chuông cửa thông minh cho phép bạn trả lời khi không ở nhà
Submitted by nlphuong on Tue, 23/07/2013 - 07:45(ICTPress) - Nếu bạn đang đợi một bưu kiện nhưng lại đang đi đâu đó, bạn có muốn thông báo từ xa với bưu tá để lại bưu kiện ở cửa nhà mình?
![]() |
Tin hay không, thì chuông cửa có khả năng WiFi sẽ cho phép bản tải video trực tiếp xem ai đang đứng trước cửa nhà bạn và cho phép bạn chat với họ qua một ứng dụng, thậm chí khi bạn không ở nhà.
Phiên bản DoorBot mới nhất vừa được tung ra sẽ cho phép bạn có được chuông cửa thông minh. Tương tự với các model trước, sản phẩm này có thể treo ngoài cửa trước nhà bạn như chuông cửa thông thường khác (có thể gắn trên chuông hiện tại) và có một camera ở phía trước.
Khi ai đó bấm chuông, DoorBot sẽ gọi đến smartphone của bạn và truyền đi một video trực tiếp qua WiFi lắp trong các hình ảnh DoorBot thấy. Nó hiển thị qua một ứng dụng DoorBot miễn phí.
Sản phẩm này giờ có kích thước nhỏ hơn - 5,68 (cao) x 2,39 (rộng) - với một pin sạc lithium polymer bên trong, có thể dùng trong 1 năm. Tấm bề mặt cũng mỏng hơn và được thiết kế chắc chắn hơn, do đó thiết bị không thể dễ dàng bị đánh cắp.
Người sử dụng cũng có thể bổ sung dịch vụ gọi là Lockitron cho thiết bị, để khóa và mở cửa trước từ xa bằng smartphone. Tổng giá tiền của DoorBot khoảng 349 USD.
QM
Open Mesh - giải pháp phủ Wi-Fi ở những vùng rộng
Submitted by nlphuong on Wed, 15/05/2013 - 13:29(ICTPress) - Open Mesh được phát triển trên nền tảng công nghệ Mesh và được quản lý theo điện toán đám mây với mức chi phí thấp nhưng mang lại hiệu quả cao, đáp ứng sát nhu cầu thực tế của người dùng.
![]() |
Các sản phẩm Open-Mesh được hàng triệu NSD sử dụng trên hơn 35.000 mạng được quản lý trên toàn thế giới mỗi ngày. |
1. Tổng quan về Open-Mesh
Mesh là một trong những kiến trúc mạng đang được sử dụng rỗng rãi, sẽ kết nối các điểm truy cập Wi-Fi (Access Point - AP) với nhau thông qua sóng vô tuyến chỉ cần một hoặc vài node mạng được nối dây để làm Gateway các AP còn lại sẽ chỉ cần cắm nguồn là có thể kết nối đến Gateway đó.
Đây là một cách kết nối sử dụng phù hợp cho các tình huống triển khai mà gặp khó khăn trong việc đi dây đến các thiết bị và mở rộng vùng phủ sóng một cách linh động, dễ dàng. Việc cần tính toán ở đây là có bao nhiêu thiết bị để phủ sóng cho một khu vực nào và sau đó chỉ cần Plug-and-Play.
Sử dụng mã nguồn mở được cộng đồng phát triển, tích hợp quản lý thông qua công nghệ đám mây, tính năng Mesh tự động, chuẩn kết nối tốc độ cao 802.11n, hỗ trợ cả trong nhà và ngoài trời, bảo mật cao, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và nâng cao, Open-Mesh phù hợp để triển khai ở những môi trường có sự thay đổi thường xuyên về người sử dụng (NSD) (user) truy cập như: Khách sạn, sân bay, sân vận động, các địa điểm thu hút khách du lịch, khu dân cư, quán café, bến đậu du thuyền.
Sử dụng tối ưu các công nghệ mới nhất đem lại những lợi ích đáng ngạc nhiên mà một thiết bị nhỏ bé có thể đáp ứng, vì thế Open-Mesh được triển khai rộng rãi với các ưu điểm như: Triển khai nhanh chóng; Lắp đặt nhỏ gọn không ảnh hưởng đến thẩm mỹ của công trình; Hỗ trợ chứng thực NSD truy cập thông qua quản lý đám mây; Quản lý cấu hình, cảnh báo, giám sát tập trung tại server đám mây Cloudtrax.com; Tính năng Mesh tự động và tối ưu và hỗ trợ chứng thực; Quản lý sử dụng server AAA bên ngoài.
![]() |
Hình 1. Tổng quan Mesh |
2. Các giải pháp triển khai Open-Mesh
Giải pháp 1: Cung cấp Internet
Giải pháp này sử dụng hoàn toàn các thiết bị Open-Mesh để triển khai dịch vụ Internet cơ bản cho người dùng. Các thiết bị Open-Mesh được quản lý và cấu hình đồng bộ thông qua một tài khoản trên Cloudtrax.com. Tài khoản này sẽ cấu hình chung cho toàn bộ các thiết bị Open-Mesh của khách hàng như SSID và mật khẩu truy cập AP (WPA, WPA2). Roaming của thiết bị Open-Mesh sẽ đáp ứng hoàn hảo cho những người sử dụng thường xuyên di chuyển trong khu vực phủ sóng của các AP này và có thể tận dụng các AP cũ để lắp đặt ở những vị trí sóng yếu còn lại. Tuy nhiên, việc cấu hình sẽ riêng biệt với các AP của Open-Mesh và cũng không có roaming cũng như các tính năng Splash Page, Redirect Page.
![]() |
Hình 2. Giải pháp 1 |
Với mô hình trên NSD sau khi đăng nhập password (mật khẩu) Wi-Fi thì có thể truy cập Internet. Nhà quản trị mạng có thể cấu hình các Option có sẵn trên CloudTrax nếu muốn như trang hiển thị, trang định hướng trở lại (Splash Page, Redirect Page). Để sau khi truy cập Web thì trang đầu tiên khách hàng gặp là trang Splash Page rồi đến Redirect Page để quảng cáo những gì mà nhà quản trị mạng mong muốn đến NSD của mình. Với công suất phát cao 26dBm thiết bị có thể phủ sóng cho nhiều lầu hoặc nhiều phòng của một tòa nhà. Như mô hình trên, việc đi dây chỉ thực hiện đến các thiết bị làm Gateway và các thiết bị khác để cùng lầu hoặc các phòng gần đó có thể sử dụng mesh để kết nối đến Gateway. Một thiết bị sẽ có thể phủ sóng cho 2 tầng và 3 hoặc 4 phòng tùy vào cấu trúc vật liệu mà công trình sử dụng (bê tông dày, gỗ, kim loại…). Do đó việc khảo sát trước luôn được yêu cầu trước khi triển khai.
Giải pháp 2: Cung cấp Internet theo thời gian (Voucher)
Ở giải pháp này, NSD truy cập Internet cần phải được cung cấp bởi một Voucher code của nhà quản trị mạng. Tính năng này tính hợp sẵn trên thiết bị và nó hoàn toàn miễn phí trên CloudTrax (Đối với các thiết bị khác phải thuê server AAA và trả một khoảng chi phí hàng tháng mới sử dụng được tính năng Voucher code cũng như Redirect Page). Voucher code sẽ được nhà quản trị mạng tạo ra với thời gian giới hạn cho NSD truy cập Internet. Sau thời gian đó NSD sẽ tự động ngắt kết nối và phải yêu cầu renew lại Voucher code hoặc được cung cấp Voucher code mới bởi nhà quản trị mạng. Trên trang website yêu cầu NSD nhập Voucher code nhà quản trị có thể sử dụng những template sẵn có và sửa chữa theo ý muốn bằng HTML hoặc WYSIWYG với mục đích quảng cáo, hướng dẫn hay bất cứ gì mà nhà quản trị muốn. Sau nhập Voucher code NSD cũng có thể được Redirect đến bất kỳ trang trang web nào (Đây là tùy chọn có thể sử dụng hoặc không).
![]() |
Hình 3. Giải pháp 2 |
Giải pháp 3: Sử dụng kết hợp AAA bên ngoài để thêm các tính năng nâng cao
Để sự dụng các tính năng nâng cao như gửi Voucher code thông qua SMS, tính tiền theo dung lượng sử dụng, đăng nhập username + password… hay bất cứ tính năng gì bạn yêu cầu thì phải thuê các server AAA của bên thứ 3 hoặc bạn phải cấu hình một AAA server trên nền Linux chẳng hạn. Hạn chế của giải pháp này là phức tạp và tốn kém chi phí nhưng ưu điểm của nó là với những thiết bị nào hỗ trợ chứng thực AAA đều có thể sử dụng chung với nhau được. Khi đó nhà quản trị có thể tận dụng những AP cũ để dùng lại.
![]() |
Hình 4: Giải pháp 3 |
Giải pháp 4: cho các nhà cung cấp dịch vụ ở cấp 2
Ví dụ nếu bạn là nhà cung cấp dịch vụ Internet cấp 2. Bạn mua các gói dịch vụ Internet từ ISP của bạn mua các thiết bị Open-Mesh và cung cấp cho khách hàng của mình. Và khách hàng của mình ở đây không phải là NSD cuối cùng mà khách hàng của bạn là người có địa điểm mà địa điểm đó có thể cung cấp Internet cho người dùng.
![]() |
Hình 4. Giải pháp 4 |
Với mô hình trên, CloudTrax cũng sẽ có phân cấp quản lý cho từng vị trí khác nhau để quản lý hệ thống bao gồm:
Tài khoản chính của Nhà cung cấp dịch vụ cấp 2: Ở tài khoản này nhà quản trị có thể cấu hình, xem băng thông, tốc độ của NSD, cấp xem Voucher và mọi tính năng mà Cloudtrax cung cấp cho từng mạng riêng. Như nhà quản trị có thể cấu hình SSID #1 cho mạng của công ty A và công ty B khác nhau.
Tài khoản mạng: Với tài khoản cũng có quyền tương tự như tài khoản chính nhưng mọi thiết lập và xem chỉ được áp dụng cho mạng con mà tài khoản chính cung cấp. Tức là khi đăng nhập (login) vào tài khoản công ty A thì sẽ không cấu hình và xem được của cấu hình của companyB.
Tài khoản mạng Lobby: Dùng để login vào website https://lobby.cloudtrax.com/lobby.php
Ở tài khoản này người đăng nhập chỉ có thể xem, tạo và sửa chữa Voucher cho mạng của mình. Ngoài ra không thể cấu hình bất cứ gì khác.
Khả năng ứng dụng giải pháp
Westin Grand Vancouver là một khách sạn 4 sao với 210 phòng nằm ở trung tâm thành phố Vancouver, Canada, giữa các cửa hàng, nhà hát, câu lạc bộ sôi động về đêm và hàng chục nhà hàng đẳng cấp thế giới trên đường Robson.
Mặc dù có vị trí và sự phục vụ đẳng cấp thế giới, Mark Abbott, Giám đốc CNTT của khách sạn, nhận thấy dịch vụ Internet của khách sạn ngày càng giảm sút so với mong đợi của khách hàng. Hệ thống hiện có tốc độ chậm, vùng phủ sóng chắp vá, việc truy cập, đăng nhập hệ thống chậm và không an toàn mang gây cho khách hàng một trải nghiệm ban đầu khó chịu.
Đối mặt với nguồn chi phí vốn đầu tư lớn để mở rộng hay sửa chữa hệ thống hiện có, Abbott tìm đến Liveport, nhà cung cấp dịch vụ WiFi cho khách sạn.
Liveport thay thế hệ thống thiết bị lỗi thời của Westin bằng thiết bị Access point Open-Mesh 802.11n và CloudTrax điều khiển mạng đám mây của Open-Mesh. Có khoảng 40 điểm truy cập có dây nối với các gateway, và thêm vào đó là 15 repeater công suất được dùng để lấp đầy đủ sóng cho những vị trí cáp không thể có mặt. Các thiết bị này tự tổ chức để cung cấp một hệ thống mạng không dây hoàn chỉnh cho tất cả các phòng khách, phòng hội nghị và các khu vực chung. Liveport cũng cài đặt một thiết bị Open-Mesh để quản lý các chứng thực lưu lượng mạng có dây và chỏm băng thông trong các phòng khách.
![]() |
Được tích hợp vào thiết bị, công nghệ Mesh mở rộng cho phép loại bỏ việc đi dây phức tạp. |
Không cần phải đi các đường dây mới hay nâng cấp các máy chủ và bộ chuyển đổi, Abbott cho biết rằng các bộ chuyển đổi đã tiết kiệm khách sạn trong năm đầu tiên với chi phí lên tới 65.000 USD và nhận thấy sự gia tăng mạnh mẽ trong việc sử dụng như vùng phủ sóng được cải thiện và tình trạng nghẽn mạch được loại bỏ. Số lượng cuộc gọi nhờ hỗ trợ giảm 75% và sự khiếu nại của khách hàng gần như không còn.
Abbott đầu tiên quan tâm tới giải pháp này bởi mức chi phí trọn gói thấp, nhưng sau đó nhận thấy cả phần cứng của Open-Mesh và trình điều khiển đám mây mang đến nhiều lựa chọn và chức năng hơn so với các hệ thống giá cao hơn và các nhà cung cấp dịch vụ khác mà Abbott được tham khảo.
Với trình điều khiển đám mây, Abbott có thể kiểm soát những gì đang diễn ra tại các điểm truy cập cá nhân và bao nhiêu người dùng đang truy cập toàn hệ thống vào bất cứ lúc nào muốn từ diện thoại hay laptop của Abbott. Abbott cũng có thể tách riêng biệt các thiết bị người dùng, cung cấp cho mỗi người dùng một đường đi an toàn ra Internet.
Với trình Điều khiển đám mây, Liveport có thể kích hoạt một trang Flash quảng bá nhãn hiệu được xác nhận của khách hàng - nhanh hơn nhiều so với hệ thống cũ - cho phép nhân viên tạo và quản lý các mã chứng từ. Với các mã, khách sạn có thể tạo ra nhóm mã khách hàng và thiết lập truy cập vào các khoảng thời gian xác định, các bậc tầng băng thông, và số lượng các dịch vụ. Các mã tương tự nhau có thể sử dụng cả hệ thống mạng có dây lẫn hệ thống mạng không dây.
“Khách hàng luôn mong đợi chất lượng dịch vụ mạng không dây tốt - đặc biệt là khi họ phải trả phí khi truy cập. Với thiết bị Open-Mesh, chúng tôi có thể đáp ứng tất cả các mong đợi đó, với một mức chi phí thật sự có ý nghĩa cho một khách sạn với bất kỳ quy mô nào”, Danny Bakker, Phó Chủ tịch của Liveport cho biết.
“Chất lượng của các lần trải nghiệm hệ thống mạng đã phù hợp với phần còn lại của toàn thời gian lưu trú và đang lên kế hoạch cho việc sử dụng hệ thống Open-Mesh cho tất cả các tài sản khác của mình”, Abbott cho biết.
Về khả năng áp dụng tại Việt Nam, ông Hân Hồ, Giám đốc công ty Mitel Distribution đánh giá giải pháp Open Mesh là công nghệ đón đầu cho xu hướng phát triển trong lĩnh vực WiFi trong tương lai. Theo dự đoán trong tương lại gần công nghệ Mesh và quản lý trên nền tảng đám mây của Open Mesh sẽ được sử dụng phổ biến không chỉ tại các khách sạn, khu nghỉ dưỡng (resort), trường học,… mà còn phổ biến trong hộ gia đình do yếu tố tiện lợi trong việc dễ dàng quản lý, công nghệ thông minh đảm bảo sóng ổn định với giá thành hợp lý.
“Công nghệ Open Mesh được kỳ vọng rất lớn sẽ thay thế toàn bộ công nghệ Access Point truyền thống đã lỗi thời và không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng”, ông Hân Hồ cho biết thêm.
An Vân
Tài liệu tham khảo:
[1]. www.openmesh.com
[2]. www.mitel.vn
4G làm thay đổi cuộc sống của bạn theo những cách nào
Submitted by nlphuong on Fri, 22/02/2013 - 08:25(ICTPress) - Với nhiều bước nhảy vọt về công nghệ di động, nên từ bỏ những cái không còn quan trọng là dễ dàng. Một máy ảnh siêu siêu pixel, một màn hình sáng hơn và các ứng dụng tốt hơn đều thật tuyệt vời nhưng khó đi đến việc đánh giá lại thế giới của bạn.
![]() |
Công bố EE, mạng di động 4G đầu tiên của Anh, ở nhà ga Battersea Power ngày 1/11/2012 ở London, Anh |
Nhưng với 4G bạn có thể trông đợi những thay đổi đáng kể trong cuộc sống. Một thế hệ mạng di động mới - đã được triển khai ở nhiều khu vực châu Á và Mỹ - 4G hứa hẹn đẩy mạnh các kết nối Internet di động ở khắp nước Anh và nhiều khu vực châu Âu trong năm tới.
Tốc độ là bản chất của 4G. Kể từ khi các mạng di động toàn cầu bắt đầu triển khai vào đầu những năm 1980, một thế hệ các máy cầm tay mới đã phát triển theo mỗi thập kỷ. Các tốc độ dữ liệu mới nhất, hứa hẹn tương đương kết nối Internet băng rộng chuẩn, được xem là thế hệ 4 - hay còn gọi là 4G.
Mặc dù 4G vẫn chưa được phủ rộng và một số người cho rằng 4G còn thách thức để đáp ứng được các yêu cầu tham vọng của các nhà mạng, có thể tạo nên sự khác biệt cho hàng triệu người khi đã đặt nhiều phần cuộc sống vào chiếc điện thoại di động (ĐTDĐ).
Một số người cho rằng không có cơ sở nào cho một sự thay đổi tốt hơn. Với hầu hết mọi khía cạnh (và trong một số trường hợp là chưa tốt) cuộc sống được trôi chảy nhờ những chiếc điện thoại, có lúc chúng ta ở vào tình trạng mất liên lạc với thế giới dù có các màn hình nhỏ.
Một số người khác cho rằng bằng cách gửi các gánh nặng cuộc sống vào chiếc điện thoại, bạn sẽ được giải phóng để có nhiều thời gian làm những gì muốn làm.
Dù được hay chưa được, 4G đã và đang thay đổi thế giới chúng ta. Dưới đây là những lý do:
Xem chứ không phải đợi
Với mạng 3G người sử dụng tải video về vẫn chậm hay xem các chương trình trực tiếp phải đợi, các tốc độ dữ liệu cao của 4G có nghĩa là các bộ phim truyện dài có thể truy cập chỉ mất vài phút hay truyền hình không ngắt đoạn. Điều này cũng khả thi với các cuộc gọi video HD.
Khả năng cho tăng trưởng tivi di động là rất lớn. Khi ngày càng có nhiều người sử dụng ĐTDĐ như là phương tiện xem chủ yếu, những nhà làm phim và các nhà sản xuất chương trình truyền hình có thể nhận thấy họ đang phải đối mặt với việc cần phải tạo ra các chương trình truyền hình trên các màn hình nhỏ hơn khi các nhà quảng cáo chuyển sang di động.
Tuy nhiên, các khách hàng được khuyến nghị thay đổi thói quen xem với cảnh báo. Các tải video sẽ tiếp tục là một yêu cầu lớn nhất về các cho phép tải dữ liệu. Theo kịp với Kardashian cũng có thể tốn kém.
Kết nối với Internet mọi thứ
Thế hệ những chiếc ĐTDĐ đầu tiên khá lớn và có tiếng lạo xạo được biết đến như là những chiếc điện thoại ô tô. Phần lớn các cuộc gọi di động được thực hiện từ sự thuận tiện của chiếc ô tô bởi vì bạn cần một phương tiện để mang theo thùng đồ điện tử nặng, xấu giúp bạn kết nối.
Với sự xuất hiện của 4G, bạn có thể ra lệnh cho chiếc ô tô của bạn. Đây là một khái niệm được biết đến như là Internet của mọi thứ - "Internet of Things”, một trang web toàn cầu của mọi thứ mà sẽ thấy các cuốn sổ liên hệ sẽ sớm đi cùng các địa chỉ thư điện tử của các máy giặt, lò nướng bánh và lò vi sóng (hầu hết).
Một số việc hàng ngày, như các hộp truyền hình cáp TiVo, đã kết nối với Internet, cho phép người sử dụng lập trình chúng từ xa. Có dự đoán cho rằng phần lớn các hàng hóa điện tử cao cấp sẽ sớm được nhúng với khả năng giao tiếp qua Internet.
Những người lái xe có thể làm đóng băng những chiếc ô tô từ chiếc giường ấm áp của bạn. Tủ lạnh có thể nói cho bạn lúc nào bạn cần mua thêm sữa. Bình tưới cây sẽ tư vấn cho bạn lúc nào có cần được tưới nước.
Những giao tiếp như vậy sẽ ngày càng nhiều nhờ 4G, vì các mạng sẽ cung cấp thêm tốc độ và khả năng cần thiết để giải quyết sự gia tăng những giao tiếp điện tử.
Làm việc, làm việc, làm việc
Khi những chiếc điện thoại BlackBerry đầu tiên được dành cho những nhân viên tin cậy trong thập kỷ trước chúng đã làm cách mạng cách nhiều người chúng ta làm việc.
Sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống cũng như những đường biên giữa thời gian công việc và cá nhân trở nên mờ nhạt.
Bất ngờ, chúng ta giải quyết các thư điện tử của công ty trên tàu, trên xe bus và cả khi đi tắm. Nhiều người gắn chặt với chiếc bán phím nhỏ QWERTY. Một số mối quan hệ còn được giải quyết nhờ những chiếc BlackBerrys được mang lên cả giường ngủ.
Ngày nay nhiều người chúng ta mang theo một chiếc cổng kết nối văn phòng ở trong các túi quần áo của chúng ta. Chúng ta có thể kiểm tra chiếc điện thoại một cách ám ảnh, nhưng không còn nghiện trả lời ở thời gian thực.
Sự xuất hiện của 4G có thể làm rung chuyển mọi thứ lần nữa. Với một mạng di động mang tới các tốc độ và khả năng băng rộng, về mặt lý thuyết là có thể thực hiện mọi hoạt động trực tuyến sống động.
Các kết nối an ninh mà theo đó các nhân viên có thể truy cập phần mềm công ty nhiều dữ liệu trở nên khả thi. Điều này cũng tương tự đối với tải về hay tải lên các tệp dữ liệu lớn và hội nghị video.
Điều này sẽ làm cho cuộc sống dễ dàng hơn cho những người lao động mà công việc của họ luôn ở ngoài đường. Điều này cũng giải phóng nhiều người suốt ngày ngồi bên bàn làm việc.
Nhưng việc này cũng có thể dẫn tới một giai đoạn chuyển tiếp tinh tế khi hàng triệu người chúng ta điều chỉnh thích nghi với một thế giới mới mà ở đó hầu hết các khía cạnh cuộc sống văn phòng có thể được đẩy mạnh xung quanh những chiếc máy tính xách tay của chúng ta.
Giải trí, giải trí, giải trí
Kể cả khi 4G làm chúng ta kết nối chặt chẽ hơn với công việc, thì 4G cũng gắn chúng ta với giải trí.
Dù bạn đang nghe nhạc hay chơi game, 4G cũng mang trải nghiệm di động nhờ truy cập kho đám mây hay các server game.
2G hay không phải 2G
Dù bạn có thích hay không, 4G là tương lai của viễn thông di động (ít nhất là cho tới khi 5G hiện diện). Một số người có thể cho rằng các máy cầm tay 1G hay 2G cổ lỗ của mình là tất cả những gì họ cần nhưng họ sẽ phải sớm phải thay đổi.
Các nhà mạng 4G đã có thể tăng tốc độ mạng bằng cách tiếp cận một phổ tần số truyền dẫn rộng hơn. Những tần số này là đắt đỏ, với các nhà mạng thường xuyên phải tham gia đấu thầu cạnh tranh để đảm bảo có một phần rộng băng vô tuyến.
Khi nhu cầu 4G tăng, các mạng sẽ tìm cách dành nhiều tần số hơn để mở rộng sự phủ sóng. Điều này có nghĩa là phải sắp xếp lại các tần số mà hiện để đáp ứng 1G và 2G.
Và do đó sau nhiều thập kỷ đáp ứng dịch vụ, hàng triệu máy cầm tay màn hình LCD cũ kỹ sẽ buộc phải nhắn SMS lần cuối.
QM
5 "S” cho các nhà mạng Việt Nam
Submitted by nlphuong on Wed, 26/09/2012 - 07:43(ICTPress) - Dựa trên kinh nghiệm hỗ trợ các nhà mạng trên toàn thế giới trong việc triển khai và phát triển kinh doanh dịch vụ 3G trong bối cảnh thị trường đang chuyển dịch từ dịch vụ thoại sang dịch vụ số, Ericsson đã đúc kết ra 5 yếu tố then chốt căn bản đối với sự phát triển và mở rộng mạng lưới được viết tắt là 5 “S”.
![]() |
Ảnh minh họa |
Ericsson khuyến nghị các nhà khai thác mạng Việt Nam nên tập trung vào 5 yếu tố bao gồm: Thông minh (Smart), Đơn giản (Simple), Khả năng mở rộng (Scalable), Ưu việt (Superior) và Bảo mật mạng (Secure).
Phó Tổng giám đốc Ericsson Việt Nam Denis Brunetti cho biết trong suốt hai năm vừa qua, Ericsson luôn nhấn mạnh vai trò tối quan trọng của mạng viễn thông trong việc hiện thực hóa Xã hội kết nối. Để thu được đầy đủ lợi ích của “Xã hội kết nối”, các nhà khai thác mạng cần giải quyết thành công tất cả các yếu tố trên.
Bên cạnh việc tập trung vào 5 yếu tố then chốt nêu trên, để khai thác toàn diện tiềm năng của dịch vụ 3G, các nhà khai thác tại Việt Nam cũng nên quan tâm tới các yếu tố quan trọng khác ví dụ như sự phổ cập điện thoại thông minh (smart phone), sự phát triển phong phú về ứng dụng và nội dung trên điện thoại di động…
Ericsson cũng sẽ tập trung đưa ra các đề xuất đối với các nhà mạng tại Việt Nam để có thể khai thác một cách toàn diện tiềm năng của ‘Cuộc cách mạng 3G’ tại Việt Nam cùng những mô hình thành công tiêu biểu của các nhà mạng trên thế giới mà Ericsson đã hợp tác, để đưa ra mô hình tham khảo phù hợp tương tự cho các nhà mạng tại Việt Nam.
Chi tiết 5 “S” và các đề xuất khác cho các nhà mạng Việt Nam như trên được Ericsson cho biết sẽ trình bày tại tại Hội nghị quốc tế Mobile Vietnam 2012 từ ngày 18 đến 21/10/2012 tại Hà Nội.
Tại hội thảo bàn tròn trong khuôn khổ sự kiện Mobile Viet Nam, cùng với các nhà mạng và các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực CNTT&TT, Ericsson cũng sẽ tham gia thảo luận về chủ đề “Tương lai của thị trường di động Việt Nam trong những năm tới”.
Ngoài ra, Ericsson còn tham gia Ngày hội việc làm diễn ra tại Mobile Vietnam 2012, một trong những hoạt động thể hiện sự cam kết của Ericsson trong việc phát triển nguồn nhân lực CNTT&TT của Việt Nam.
HM
Đưa Internet về nông thôn - Giải pháp băng rộng không dây cố định giúp gì
Submitted by nlphuong on Fri, 14/09/2012 - 08:32(ICTPress) - Việt Nam có nhiều thách thức khi triển khai băng rộng.
Thứ nhất là do địa lý và số dân: 70% diện tích là đồi núi, vùng cao và địa hình khó khăn, 70% số dân là sống ở các vùng nông thôn, vùng xa mà hạ tầng giao thông và thông tin còn thấp kém, khó khăn trong các dịch vụ thông tin;
Thứ hai là khoảng cách số giữa đô thị và nông thông là là khá cao: 70% thuê bao băng thông rộng ở các thành phố lớn (Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh). Số người có máy tính: 47% là ở đô thị, 12% ở nông thôn; điện thoại cố định: 78% là đô thị, 56% ở nông thôn; di động: 91% ở đô thị, 76% ở nông thôn; Internet: 32% ở đô thị, 4% ở nông thôn.
Để giải quyết thách thức kết nối băng rộng ở nông thôn Việt Nam, theo Công ty Cambium Networks, công ty dẫn đầu về cung cấp giải pháp băng thông rộng không dây điểm nối điểm (PTP), điểm nối đa điểm (PMP) trên toàn cầu của Anh cho biết tại Hà Nội, giải pháp không dây cố định (Fixed Wireless) có thể đáp ứng, đó là:
- Các mạng truy nhập Canopy điểm-tới-đa điểm (PMP) để Truy cập riêng biệt, đáp ứng dịch vụ VoIP và Video, Thay thế đường thuê riêng (leased line), Giám sát video và Hạ tầng M2M.
- Các kết nối truy nhập và dặm cuối Orthogon Point-to-Point (PTP) có thể thay thế các đường thuê riêng, hạ tầng 4G/LTE và dặm cuối di động/an toàn công cộng.
Theo chuyên gia kỹ thuật của Cambium, kiến trúc mạng truy cập không dây cố định có những ích lợi sau: Thích hợp cho vùng phủ rộng lớn và khoảng cách xa, Hỗ trợ thoại (voice), video và dữ liệu, Không phải thi công phức tạp và cài đặt dễ dàng. Giải pháp của Cambium là những sản phẩm PMP và PTP với sự kết hợp của giá cả và băng thông, công nghệ cao, có thể hỗ trợ VoIP, VoP/NvoD và IPTV và có thể triển khai ngay.
Cambium cho biết là công ty này là một trong số ít các công ty mà ứng dụng và hiệu suất đã được chứng minh là hoạt động tốt Near/NLOS (Non-Line of Sight), vượt được các rào cản, được chứng nhận an toàn và khả năng chống chịu trong thời tiết khắc nghiệt ở nhiều nước hơn cả ở Việt Nam, như Malaysia, Australia, Ấn Độ…
![]() |
Hình này là ví dụ chi tiết có thể được tạo ra trong Link Planner qua Google Earth. Bạn có thể xem địa hình, các tòa nhà, chướng ngại vật và đường xá, cho phép bạn “đi bộ” ảo đường kết nối của bạn. |
Cambium cho biết công ty đã triển khai giải pháp này cho SMART Broadband, Phillipines; chính quyền của Noca Scotia, Canada; doanh nghiệp mạng văn phòng tư nhân PNG (Digicel Service Provider); tỉnh Xinijang, Trung Quốc; doanh nghiệp (DN) Nostracom, Granada và Macedonia.
Thách thức của SMART Broadband là công ty cung cấp dịch vụ không dây, có dây và công ty này muốn tăng doanh thu và mở rộng mạng lưới hệ thống để cung cấp các nối kết truyền data, voice mà nối kết cũ của họ chưa làm được.
Giải pháp Cambium cho SMART Broadband là chọn băng tần không cấp phép cho sự triển khai này và triển khai mạng băng thông rộng không dây Cambium điểm-điểm (PTP) và giải pháp điểm-đa điểm (MTP). Giá trị giải pháp là triển khai mạng không dây băng thông rộng lớn nhất thế giới giúp công ty SMART Broadband nắm những cơ hội mới và tăng doanh thu mới nhanh chóng. 25 thành phố đã được lắp đặt hệ thống trong vòng 1 năm. Từ năm 2005, nhờ giải pháp Cabium, SMART Broadband đã phục vụ 100 đến 1000 thuê bao.
Dự án thứ hai mà Cambium triển khai giải pháp là cho chính quyền của Noca Scotia, Canada. Chính quyền ở đây công nhận việc thiếu đường truyền Internet tốc độ cao là vấn đề xã hội và trọng điểm của kinh tế của nhiều khu vực nông thôn ở tỉnh.
Cambium khuyến nghị triển khai: Hạ tầng đường trục chính PTP, Mạng truy cập Canopy, Thiết kế, Thực hiện và dịch vụ quản lý. Kết quả là băng thông rộng được cung cấp đến 100% thành phố, được triển khai đúng quy trình, phù hợp với ngân sách hạn chế. Truy cập Internet tốc độ cao cung cấp cho 1000 doanh nghiệp và hộ dân ở nông thôn xuyên suốt tỉnh. Truy cập Internet đã làm thay đổi cuộc sống của hơn 200.000 người dân nông thôn ở Nova Scotians. Hiện nay, đã có hơn 40% người dân đã đăng kí dịch vụ và số lượng tăng theo từng ngày.
Đối với DN mạng văn phòng tư nhân PNG là DN mạng văn phòng tư nhân VPN, Digicel Business được phát triển để đáp ứng nhu cầu của khách hàng DN có các văn phòng chi nhánh khác nhau ở nhiều vùng, đặc biệt là những ứng dụng kinh doanh cần trung tâm lưu trữ và dịch vụ đặc biệt cung cấp đường VPN cho các văn phòng chi nhánh.
Cambium cung cấp giải pháp PMP 430 truy cập mạng với anten định hướng omni cung cấp kết nối cho các vùng cần băng thông rộng tốc độ cao. Kết quả khách hàng có thể tải với tốc độ 30Mbps và lên 10Mbps, đáp ứng yêu cầu ứng dụng video, data, voice đường truyền tốc độ cao.
Trong khi đó, thách thức đối với tỉnh Xinijang, Trung Quốc là thông tin liên lạc cách 56mi (90km) qua sa mạc lớn (Taklimakan), tốc độ cao với đường T1/E1 và yêu cầu chi phí rất khắt khe.
Giải pháp của Cambium cho tỉnh Xinijang là dùng dòng sản phẩm PTP 400 với anten được mở rộng thêm, anten phân tập không gian, Ethernet MUX 504 E1/T1. Giá trị đạt được của việc triển khai ở đây là phù hợp với yêu cầu khách hàng. Làng Aqiang, tỉnh Xinijang lần đầu tiên được kết nối mạng ra bên ngoài, tốc độ đạt được 43 Mbps với PTP 400.
Công ty Nostracom, Granada nổi tiếng với việc cung cấp kết nối tới các DN ở vùng vùng đô thị. Mong muốn của Nostracom là cung cấp cho khách hàng dân cư ở khu vực xa trung tâm, địa hình khó khăn nên việc mở rộng sử dụng dây là rất khó khả thi.
Giải pháp của Cambium là trục chính với Cambium PTP 600 và mạng truy cập kết nối nhanh tới khách hàng. Thành quả là Nostracom đã kết nối được 3000 khách hàng trong vài tháng đầu, mở rộng vùng phủ đến 31 làng ngoài và sẽ mở rộng cho 40.000 người sử dụng trong 2 năm.
Ở Macedonia, thách thức cho Cambium là cung cấp cho toàn bộ đất nước với đường truyền tốc độ cao giá cả phù hợp.
Cambium đã cung cấp hạ tầng đường trục PTP, mạng truy cập Canopy PMP. Thành quả là Macedonia có mạng không dây băng thông rộng tiên phong của thế giới, cung cấp nội dung Internet cho 360 trường tiểu học và 100 trường cấp 2 của Macedonia, 25 kí túc xá của trường cấp 2, 15 trường đại học và 15 khu vực khác, 1000 DN đã kết nối và dùng chung một hệ thống. Đây là một hệ thống có thể phủ 25.333 km2, cung cấp các ứng dụng video, dữ liệu, thoại.
QM
5 dấu hiệu “nghiện” game
Submitted by nlphuong on Wed, 08/08/2012 - 07:38(ICTPress) - Hàn Quốc có lẽ là quốc gia đi đầu thế giới về việc xác định và “chữa” nghiện chơi game và Internet. Sau khi kết nối toàn bộ quốc gia bằng hạ tầng băng rộng nhanh nhất thế giới, chính phủ Hàn Quốc đã chi nhiều triệu mỗi năm để xác định và chữa trị bệnh nghiện game và Internet.
![]() |
Khoảng 8% dân số nước này ở độ tuổi từ 9 đến 39 nghiện Internet hoặc chơi game, theo một nghiên cứu chính phủ vào năm 2010.
Một số người xem Hàn Quốc như là một cửa sổ vào tương lai: Có lẽ các nước khác, trong đó có Mỹ, sẽ chứng kiến một làn sóng nghiện Internet và chơi game khi hạ tầng cơ sở công nghệ của chúng ta theo kịp. Một số người cho rằng quá sớm để biết liệu nghiện game có thực sự là một bệnh rối loạn riêng.
Ở Mỹ, nghiện Internet và game chưa được liệt kê chính thức vào danh sách chẩn đoán và thống kê các bệnh về tâm thần. Trong một sửa đổi tiếp theo của danh sách này, tuy nhiên, Hiệp hội bệnh tâm thần Mỹ đã đề xuất “Rối loạn do sử dụng Internet” sẽ được liệt kê vào danh sách để thực hiện nghiên cứu tiếp tục.
Tuy nhiên, một số nhóm đã hướng tới việc chữa trị nghiện Internet và chơi game.
Một trong số những người đi đầu trong lĩnh vực này là TS. Han Doug-hyun, bệnh viện đại học Chung-Ang ở Seoul, Hàn Quốc. Phòng nghiên cứu của TS. Han chữa những người nghiện game sử dụng các kỹ thuật tương tự như những kỹ thuật được sử dụng để chữa người nghiện rượu, trong đó có hướng dẫn và liệu pháp thực tế ảo (virtual-reality).
TS. Han đã chia sẻ danh sách 5 cảnh báo hàng đầu để tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp cho người nghiện Internet và game.
Dưới đây là 5 dấu hiệu hàng đầu về nghiện Internet và chơi game:
1. Cuộc sống hàng ngày xáo trộn. Nếu một người chơi game suốt cả đêm và ngủ ngày, sẽ rất cần phải cảnh báo họ nên tìm sự trợ giúp của chuyên gia.
2. Người nghiện game hay Internet có khả năng mất việc, hoặc không đến trường để lên mạng hay chơi game số.
3. Cần sự ổn định lớn hơn. Người chơi game thường chơi trong một giai đoạn dài để đạt được sự thích thú từ trò chơi?
4. Cần cai nghiện. Một số người nghiện Internet và game trở nên dễ cáu kỉnh hay lo âu khi họ không thể kết nối, hoặc khi họ buộc phải làm việc.
5. Cảm giác thèm muốn. Một số người nghiện Internet hay game thường thèm muốn, cần chơi game hoặc mong muốn được trực tuyến khi họ bị tách khỏi thế giới số.
QM