Tóm tắt:
Vấn đề ứng dụng CNTT chuyên sâu, hiệu quả, bền vững, hệ thống, thống nhất trong toàn ngành quân y đang là đòi hỏi có tính cấp thiết và đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.
Đến năm 2015, Bộ Y tế đặt ra mục tiêu, 100% các bệnh viện trực thuộc có mạng LAN và kết nối Internet tốc độ cao... Trong quân đội, theo đánh giá của Cục Quân y, hiện 80% bệnh viện có mạng nội bộ. Vấn đề ứng dụng CNTT chuyên sâu, hiệu quả, bền vững, hệ thống, thống nhất trong toàn ngành quân y đang là đòi hỏi có tính cấp thiết và đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.
Đa tác dụng
CNTT ngày càng có tầm quan trọng trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế-xã hội, là phương tiện đắc lực và có hiệu quả cao trong công tác quản lý, điều hành và tổ chức sản xuất, kinh doanh... Trong hoạt động y tế, CNTT là một tác nhân góp phần nâng cao chất lượng công tác khám, chữa bệnh (KCB) toàn diện, giúp cho quá trình chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng tốt hơn.
 |
Tàu bệnh viện HQ-561 được trang bị hệ thống công nghệ thông tin truyền hình ảnh, hỗ trợ chẩn đoán điều trị từ xa thuộc Dự án Telemedicine của Bộ Quốc phòng. Nguồn: QĐND Online. |
Bệnh viện Quân dân y miền Đông (Cục Hậu cần, Quân khu 7) xếp hạng 2, nhưng được đầu tư khá cơ bản về ứng dụng CNTT. Hiện bệnh viện này quản lý bệnh nhân bằng thẻ từ, giúp các bác sĩ theo dõi tình trạng sức khỏe người bệnh được liên tục, trong thời gian dài. Thượng tá, Bác sĩ Nguyễn Xuân Hùng, Phó giám đốc Bệnh viện Quân dân y miền Đông khẳng định: Khi ứng dụng CNTT vào trong công tác KCB sẽ thu được 3 tác dụng chủ yếu: Về mặt xã hội, giúp phục vụ người bệnh tốt hơn vì hạn chế tiêu cực, phiền hà, giảm thời gian chờ đợi của bệnh nhân; về mặt khoa học kỹ thuật, giúp nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, nhân viên bệnh viện, có điều kiện ứng dụng sâu hơn tiến bộ khoa học y khoa, giám sát hoạt động của bệnh viện hiệu quả; về mặt kinh tế, giúp tiết kiệm nhân lực, vật tư, tránh thất thoát và dễ dàng chia sẻ thông tin tới nhiều đối tượng cùng một lúc.
Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác cũng là một trong những bệnh viện được đầu tư ứng dụng CNTT cơ bản từ năm 2006. Hiện nay, hệ thống phần mềm quản lý được kết nối toàn viện, với quy trình kép kín từ khi bệnh nhân vào khám cho đến khi ra viện. Khi nói về tác dụng của CNTT với công tác quản lý và KCB, Đại tá, PGS, TS Nguyễn Ngọc Tuấn, Phó giám đốc Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác nhấn mạnh: Ứng dụng CNTT sâu giúp người quản lý giám sát hoạt động các nguồn lực của bệnh viện hiệu quả hơn; giảm thời gian xử lý báo cáo với độ chính xác cao. Thông tin ngày càng được minh bạch, loại bỏ được các sai sót do cố ý hoặc vô tình. Hạn chế các hiện tượng tiêu cực như kê đơn thuốc ăn hoa hồng, lạm dụng xét nghiệm… Dễ dàng tra cứu, trích xuất thông tin khi cần. Tạo cho người bệnh tâm lý yên tâm, tin tưởng, khi đến KCB.
Tác dụng, hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong KCB tại các bệnh viện quân đội là rất lớn. Nhận rõ tác dụng ấy, từ năm 2010, Bộ Quốc phòng đã có Dự án Chuẩn hóa quy trình KCB, xây dựng trung tâm phân tích dữ liệu y tế quân đội và hệ thống y học từ xa (telemedicine) giữa các bệnh viện quân đội. Dự án sẽ trở thành một giải pháp hiệu quả giúp các bệnh viện trong toàn quân có điều kiện chia sẻ thông tin và với các tổ chức y tế khu vực, thế giới để huấn luyện, hội chẩn tại chỗ, hỗ trợ cấp cứu khẩn cấp các nạn nhân bị tai nạn bởi thiên tai, hỏa hoạn, sập đổ công trình và chăm sóc sức khỏe bộ đội trong điều kiện hoạt động dã ngoại tại vùng biên giới, hải đảo.
Cần có quy hoạch tổng thể
Ứng dụng CNTT trong ngành y tế đã được các nước trên thế giới triển khai từ lâu. Một nghiên cứu được công bố trên J Am Med Informatics Assoc khẳng định, ứng dụng CNTT giảm sự cố y khoa từ 0,29% xuống còn 0,11%. Hiện nhiều quốc gia trên thế giới, các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế và tuyến tỉnh, tuyến huyện đã ứng dụng sâu CNTT vào quản lý và KCB, góp phần nâng cao hiệu quả KCB phục vụ nhân dân, giảm đáng kể ùn tắc, quản lý tốt dữ liệu, vật tư, phương tiện, tăng chất lượng khám, điều trị. Tuy nhiên, hiện nay việc ứng dụng CNTT tại các bệnh viện quân đội còn mang tính nhỏ lẻ, thiếu thống nhất.
Thiếu tướng, GS Vũ Quốc Bình, Cục trưởng Cục Quân y phân tích: Yêu cầu nâng cao chất lượng KCB, yêu cầu quản lý và văn bản quy định KCB theo bảo hiểm y tế… ngày càng đòi hỏi cao. Do vậy, việc ứng dụng sâu CNTT trong lĩnh vực y tế quân đội là hết sức cần thiết, nhất là trong một số nội dung: Quản lý thu, chi viện phí; quản lý cận lâm sàng, thuốc, trang bị y tế; quản lý hồ sơ, bệnh án; chẩn đoán, điều trị bằng kỹ thuật nội soi, siêu âm mầu 3D, 4D, XQ kỹ thuật số, MRI, CT, PET-CT, hệ thống labo xét nghiệm tự động, can thiệp mạch, máy trị xạ…
 |
Kiểm tra kết nối trực tuyến giữa tàu bệnh viện HQ-561 và Bệnh viện 175 trong diễn tập KOMODO tại Indonesia. Nguồn: QĐND Online. |
Theo Đại tá Lê Xuân Thọ, Trưởng phòng Điều trị (Cục Quân y), trung bình mỗi năm, các bệnh viện toàn quân khám hơn 3,5 triệu lượt người; thu dung gần 400.000 bệnh nhân; tỷ lệ sử dụng giường hiện nay đạt 173,5%; cấp cứu hơn 130.000 lượt bệnh nhân; xét nghiệm khoảng 3,5 triệu lượt người với khoảng 23 triệu xét nghiêm các loại. Nhiều bệnh viện lớn của quân đội đã quá tải. Đại tá Lê Xuân Thọ phân tích, do đặc thù hoạt động quân sự, việc triển khai hệ thống CNTT để hỗ trợ chẩn đoán y học từ xa đối với các đơn vị làm nhiệm vụ ở vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, hải đảo có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho việc cấp cứu những trường hợp không có điều kiện chuyển về tuyến sau được thuận lợi, đồng thời phục vụ công tác huấn luyện, đào tạo đội ngũ thầy thuốc được tốt hơn.
Tìm hiểu chúng tôi được biết, từ hơn mười năm trước, Tổng cục Hậu cần đã triển khai Dự án “Chuẩn hóa quy trình KCB, xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu y tế quân đội và hệ thống y học từ xa giữa các bệnh viện quân đội” khoảng 50 tỷ đồng, nhưng cũng chỉ giới hạn ở một số bệnh viện như: 108, 175, 103, 105 (Tổng cục Hậu cần), 87 (Hải quân)… Số các bệnh viện còn lại cũng được đầu tư, nhưng mức độ rất hạn chế. Theo đánh giá của cơ quan chức năng Cục Quân y, hiện nay có một thực trạng khó giải quyết là, việc ứng dụng CNTT từ Cục Quân y đến các bệnh viện, cơ sở KCB trong quân đội còn thiếu thống nhất, hệ thống phần cứng không đồng bộ, nhiều bệnh viện được đầu tư trước, đến nay hệ thống máy chủ, máy trạm đã cũ, lỗi thời và không chung một đường truyền; hệ thống phần mềm quản lý cũng có sự khác biệt lớn bởi do các bệnh viện sở hữu nguồn từ nhiều nhà cung cấp khác nhau. Đặc biệt, tổ chức nhân lực CNTT ở các bệnh viện cũng bố trí khác nhau, chưa có sự thống nhất, tập trung. Điều này gây khó khăn cho công tác quy hoạch, quản lý, đào tạo, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ, nhân lực lâu dài.
Hiệu quả từ việc ứng dụng sâu CNTT vào trong hoạt động y học quân sự, trong KCB, chăm sóc sức khỏe bộ đội và nhân dân đã rõ. Làm thế nào để đầu tư, ứng dụng CNTT trong các bệnh viện quân đội được thống nhất, hiệu quả lâu dài là bài toán khó, trong đó phải giải quyết triệt để những vấn đề lớn như quy hoạch cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nguồn vốn đầu tư phương tiện, đào tạo nhân lực, thống nhất phần mềm quản lý… Trong đó, việc tính toán, kế thừa cơ sở hạ tầng CNTT các bệnh viện đã ứng dụng, khai thác hiện nay là hết sức cần thiết. Làm tốt việc này sẽ góp phần tiết kiệm lượng lớn kinh phí cho Nhà nước và quân đội.
Mạnh Thắng
Nguồn: qdnd.vn