Syndicate content

Nghề báo

Cảnh sát cơ động vòi tiền

Anh cảnh sát cơ động gợi ý: “Sao? Giờ muốn lập biên bản hay đóng phạt tại chỗ?”. Người thanh niên tỏ ra không hiểu, CSCĐ liền bảo đưa 200.000 đồng rồi sẽ cho đi. Khi người thanh niên nói không mang đủ tiền, anh CSCĐ phán: “Thôi, đưa đây một trăm!”…

Gần đây, bạn đọc liên tục báo tin qua đường dây nóng Báo Người Lao Động về việc người đi đường lúc rạng sáng ở khu vực quận Thủ Đức, TP HCM thường xuyên bị một số CSCĐ chặn xe xử phạt. Theo bạn đọc, nhiều người dù đi đúng làn đường vẫn bị dừng xe, sau đó CSCĐ tìm các lý do như không có bảo hiểm xe máy, kính chiếu hậu gắn sai… để phạt tiền mà không lập biên bản, đưa hóa đơn...

Trả treo, ra giá

Lúc 4 giờ 20 phút ngày 18-11, chúng tôi đặt máy ghi hình từ phía đối diện chốt CSCĐ trên xa lộ Hà Nội, quận Thủ Đức (gần ngã tư Thủ Đức). Từ thời điểm này đến 5 giờ 30 phút, không dưới 30 trường hợp bị CSCĐ thổi vào nhưng sau một hồi “trao đổi”, không ai bị lập biên bản hoặc giữ xe hay giấy tờ.

Cảnh sát cơ động thổi xe và xử phạt người đi đường trên xa lộ Hà Nội đoạn gần ngã tư Thủ Đức, TP HCM. Ảnh: Hải Liên

Lát sau, một người trong chúng tôi đi nhờ xe máy của một thanh niên chạy từ Khu Công nghệ cao về hướng Thủ Đức. Khi chúng tôi vừa trờ tới, một CSCĐ cầm đèn pin ra rọi, yêu cầu tấp xe vào lề. Anh thanh niên xuất trình giấy phép lái xe, giấy đăng ký phương tiện nhưng không có bảo hiểm xe liền bị CSCĐ này hoạnh họe: “Anh đi sai làn đường, bị phạt 600.000 đồng, giữ xe 7 ngày, cộng thêm 150.000 đồng vì không có bảo hiểm xe, tổng cộng 750.000 đồng… Giờ tôi lập biên bản, anh lên kho bạc đóng tiền nhé?”.

Thấy anh thanh niên chần chừ, CSCĐ gợi ý: “Sao? Giờ muốn lập biên bản hay đóng phạt tại chỗ?”. Anh thanh niên tỏ ra không hiểu: “Đóng phạt tại chỗ là sao?”, CSCĐ liền bảo đưa 200.000 đồng rồi sẽ cho đi. Khi người thanh niên nói không mang đủ tiền, anh CSCĐ phán: “Thôi, đưa đây một trăm!”. Sau khi anh thanh niên đưa tờ 100.000 đồng thì CSCĐ mới trả lại giấy tờ xe.

Tiếp đó, anh Phan Anh Tuấn, ngụ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, chở vợ lên Bệnh viện Chợ Rẫy, TP HCM cũng bị CSCĐ ngoắt vào. “Tôi xuất trình đầy đủ giấy tờ xe nhưng vẫn bị họ đòi phạt 300.000 đồng về “tội” đèn chiếu hậu không đúng chuẩn. Do phải chở vợ đi để kịp giờ truyền máu nên tôi phải đưa cho họ 100.000 đồng” - anh Tuấn bức xúc.

Sau khi “xử phạt” vợ chồng anh Tuấn xong, một chiến sĩ CSCĐ thấy chiếc xe tải chạy qua cũng liền rọi đèn pin ra hiệu tấp vào lề. Tài xế xe tải nhanh chóng xuống xe, móc ví đưa gì đó cho một CSCĐ rồi vỗ vai anh này và tiếp tục lên xe chạy đi…

Không lập biên bản

“Vài tháng nay, hầu như rạng sáng nào CSCĐ cũng lập chốt kiểm tra, xử phạt xe. Chỗ ấy khuất tầm nhìn, người dân lại đi vào lúc tờ mờ sáng nên không để ý” - một người chạy xe ôm tại ngã tư Thủ Đức cho biết. Theo tìm hiểu của chúng tôi, những CSCĐ nêu trên thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn CSCĐ Công an TP HCM.

Trước đó, rạng sáng 15-11, 6 chiến sĩ Tiểu đoàn 1 CSCĐ đi trên 1 ô tô và 1 mô tô cũng đến lập chốt gần ngã tư Thủ Đức. Sau khi dừng xe, 2 CSCĐ cầm đèn pin chia ra 2 hướng đứng chờ ngoắt các phương tiện vào, 4 người còn lại đứng cạnh ô tô sẵn sàng kiểm tra giấy tờ, xử phạt. Người đi xe máy liên tục bị thổi dừng xe. Khi các phương tiện dồn lại đông, tổ CSCĐ chia thành 2 tốp để “làm việc”.

Khoảng 4 giờ 50 phút, một người đàn ông chừng 40 tuổi chạy xe máy chở một phụ nữ đi tới liền bị các CSCĐ ra hiệu dừng lại. Người đàn ông xuất trình giấy tờ, phụ nữ đi cùng cũng ra sức thanh minh nhưng vẫn không được chấp nhận. Sau một hồi cự cãi, người đàn ông đành móc ví đưa thứ gì đó cho CSCĐ mới được nhận lại giấy tờ xe.

Cứ khoảng 3-5 phút lại có một người đi xe máy qua khu vực này bị CSCĐ rọi pin yêu cầu tấp vào. Trong vòng chưa tới 1 giờ, đã có trên 30 trường hợp bị thổi vào để kiểm tra giấy tờ. Theo quan sát của chúng tôi, nhiều trường hợp dù đi đúng làn đường, chạy chậm vẫn bị dừng xe kiểm tra. Camera của chúng tôi ghi lại nhiều hình ảnh khi “làm việc”, người điều khiển phương tiện được các CSCĐ gọi lại khu vực khuất, ánh sáng yếu phía sau ô tô. Tuy vậy, hầu như không ai bị lập biên bản.

Trong các ngày 18, 19 và 20-11, cũng bắt đầu từ khoảng 4 giờ 30 phút, 6 CSCĐ đi trên 2 ô tô và mô tô lại đến khu vực này để kiểm tra, xử phạt các phương tiện qua lại…

“Đánh hội đồng” phóng viên đến ngã quỵ

Rạng sáng 21-11, phóng viên (PV) Báo Người Lao Động tiếp tục tìm hiểu về những phản ánh của bạn đọc. Khi qua ngã tư Bình Thái trên xa lộ Hà Nội khoảng 20 m, PV dừng xe chờ đồng nghiệp. Năm phút sau, trung sĩ Nguyễn Đình Giang thuộc Tiểu đoàn 1 CSCĐ đến yêu cầu PV về chốt cách đó khoảng 300 m để “kiểm tra”. Tại đây, ngoài trung sĩ Giang còn có trung sĩ Phạm Văn Chiến và 4 CSCĐ khác.

PV trình bày rõ cơ quan mình làm việc và cho biết đang đứng chờ đồng nghiệp. Trung sĩ Giang yêu cầu PV xuất trình giấy tờ với thái độ nóng nảy. Sau đó, trung sĩ Chiến lập biên bản với PV gồm các lỗi: Vượt đèn đỏ, không giấy phép lái xe. PV nhận lỗi là giấy phép lái xe vừa mất chưa làm lại kịp, còn vượt đèn đỏ thì không.

Sau một hồi đôi co, trung sĩ Chiến gằn giọng: “Giờ mày thích gì?”, rồi đấm vào mặt PV. Trung sĩ Giang cũng nhảy vào đạp PV rồi cùng trung sĩ Chiến và một CSCĐ khác tiếp tục hành hung. Vừa đánh, họ vừa quát: “Láo hả mày? Cãi hả mày?”. Đến khi PV bị trung sĩ Giang dùng mũi giày đá vào bụng ngã quỵ, các CSCĐ mới dừng tay.

Tiếp đó, tổ CSCĐ tiếp tục yêu cầu ký vào biên bản nhưng do ghi không rõ lỗi vi phạm nên PV không ký. Trung sĩ Chiến liền cùng 4 CSCĐ lên 2 xe công vụ, chiến sĩ còn lại lên xe của PV nổ máy bỏ đi. Dù bị CSCĐ rút dùi cui đe dọa nhưng PV vẫn cố leo lên ô tô của họ đi theo. Tổ CSCĐ đi lòng vòng ra ngã tư Thủ Đức rồi ngược về chỗ cũ, sau đó qua cạnh Khu Công nghệ cao và trở lại ngã tư Bình Thái. Cuối cùng, các CSCĐ phải gọi điện cho trung tá Nguyễn Đức Thảo, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 1, đến giải quyết. Ông Thảo yêu cầu PV và các CSCĐ về trụ sở để làm việc.

Làm việc với PV và đồng nghiệp đi cùng, thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Đỗ Mạnh Hùng cùng 2 trung tá Tiểu đoàn phó Phạm Văn Nghiệp, Nguyễn Đức Thảo yêu cầu 6 CSCĐ thuật lại vụ việc nhưng họ một mực chối bỏ việc đã hành hung PV. Sau khi 6 CSCĐ viết trường trình, thiếu tá Hùng yêu cầu họ nhận lỗi nhưng vẫn không ai chịu, thậm chí họ còn cho rằng PV “tự làm mình bị thương”!

Sau khi truy hỏi, lãnh đạo Tiểu đoàn 1 khẳng định trước mắt cho thấy các chiến sĩ CSCĐ đã có hành vi hành hung PV (Bệnh viện quận Bình Thạnh xác nhận bị đa chấn thương phần mềm M79). Ba vị thay mặt tiểu đoàn xin lỗi PV và hứa sẽ xử lý nghiêm vụ việc. Tuy nhiên, khi thiếu tá Hùng hỏi lý do hành hung PV, các CSCĐ vẫn im lặng. Trung sĩ Chiến và trung sĩ Giang dù nói lời xin lỗi PV nhưng vẫn không nhận là đã cùng các CSCĐ khác hành hung...

Hải Liên - Nguyễn Mạnh

Nguồn: Báo Người lao động

Ảnh vui: Tác nghiệp báo chí

Nghề báo có rất nhiều thú vị nhất là những lúc tác nghiệp bạn sẽ gặp các tình huống trớ trêu. Xin giới thiệu một số hình ảnh ngộ nghĩnh, hài hước của các phóng viên khi tác nghiệp.

Bà già yamaha (già mà ham)
Bất chấp... thời tiết
Chân máy mới
Cùng nhìn về một hướng
Mặc kệ nó
Nghề báo - nghề nguy hiểm
Tập trung chuyên môn đi anh
Tay săn ảnh cừ khôi
Máy ảnh à - thích loại nào anh cũng có
Quá đã
Gánh nặng nghề nghiệp

ST: Thảo Nguyên

Nguồn: nghebao.org

Sự thật chương trình "Như chưa hề có cuộc chia ly..."

Hôm nay, trên website chính thức của chương trình "Như chưa hề có cuộc chia ly...", nhà báo Thu Uyên đã lên tiếng phản bác các thông tin chỉ trích cho rằng chương trình đã ngụy tạo để lừa khán giả.

Còn đúng 3 ngày nữa là Chương trình NHƯ CHƯA HỀ CÓ CUỘC CHIA LY (NCHCCCL) tròn 6 năm hoạt động. 397 cuộc đoàn tụ, trên 600 cuộc tìm ra, trên 70.000 thông tin đăng ký tìm người thân. Rất tiếc, vào thời điểm như thế này, chúng tôi phải đối mặt với những lời chỉ trích ác ý và nhiều lời vu khống.

Những lời chỉ trích xuất phát từ các bài viết của luật sư Trần Đình Triển trên trang facebook cá nhân và trên trang điện tử Soha.vn của Vina Corp,.

Hai vụ việc được mổ xẻ và cho là NCHCCCL đã ngụy tạo để đánh lừa khán giả, liên quan đến 2 cuộc đoàn tụ của NCHCCCL số 3 và NCHCCCL số 11. Xin nêu từng việc một.

Một trong 2 vụ việc được nhắc đến, là “MS23 - Nguyễn Hữu Thành tìm mẹ Lê Thị Út”. Một cuộc đoàn tụ đã được tổ chức trong Gala NCHCCCL số 3, phát sóng trực tiếp ngày 2/2/2008. (Tham khảo tại http://haylentieng.vn/tvshow/nchcccl-so-3/)

Trong bài viết ngày 22/11/2013 của luật sư Trần Đình Triển, việc này được diễn tả như sau:

Tóm lược nội dung là: Một phụ nữ trong chiến tranh yêu thương 1 đồng đội nhưng vì công tác bí mật không thể công khai được. Sau này người đồng đội đó đã hi sinh.

Chị đó có thai, khi sinh nở phải trốn về nhà chị gái, do yêu cầu công tác bí mật nên phải nhờ chị gái gửi con vào Cô nhi viện. Sau năm 1975 hình ảnh về người yêu và người con luôn hiện về trong chị. Dài theo năm tháng chị cũng phải tìm 1 tổ ấm cho mình. Chị lấy chồng, sinh được 5 người con.

Khi nhân viên của chị Thu Uyên đến gặp để tìm giúp chị người con bị thất lạc bao năm nay. Mặc dù tuổi đã cao, bàn tay chai sạn, nhăn nheo hết, móng tay xỉn vàng do bùn đất bám lâu ngày nhưng chị vẫn đồng ý cho họ cắt móng tay và nhổ tóc mình để giám định ADN với người con đang thất lạc cũng đang nhờ chương trình của chị Thu Uyên tìm mẹ.

Đối chiếu thông tin, 1 số nhân viên can ngăn chị Thu Uyên chưa nên phát sóng vì có 1 số dấu hiệu nghi ngờ không phải là mẹ con, cần giám định ADN để đảm bảo chắc chắn.

Nhưng chị Thu Uyên vẫn tổ chức thực hiện phóng sự, chương trình đó hàng triệu người theo dõi đã khóc, chị Thu Uyên cũng khóc mặc dù giám định ADN cho kết quả là không phải mẹ con (xin gửi bản giám định AND kèm theo dưới bài viết).

Hiện tại người mẹ tìm con thật chưa tìm được, người con tìm mẹ đẻ ra mình cũng chưa tìm được. Chị Thu Uyên đã tạo dựng lên 1 quan hệ mẹ - con, còn gì đau lòng hơn? Nhưng đến nay VTV không dám nói lên sự thật đó và chị Thu Uyên không dám nhìn thẳng vào sự thật về sự việc đó.

Thực chất, câu chuyện là: Anh Nguyễn Hữu Thành, được cho Cô nhi viện từ lúc sơ sinh, gửi đơn nhờ NCHCCCL tìm mẹ (chứ không phải người mẹ đăng ký tìm con).

Anh chỉ có 2 tờ giấy mà anh nhận được từ Cô nhi viện, trong đó nhiều thông tin nhất là Tờ ủy thác Cô nhi có ghi tên người mẹ Lê Thị Út, sinh năm 1949, ngụ tại An Hữu, quận Giáo Đức, tỉnh Định Tường; có chữ ký người làm chứng là “Lê Văn Được”.

Chúng tôi đã cử 4 đội tìm kiếm tiến hành 5 chuyến công tác tại Tiền Giang và Đồng Tháp. Cuộc tìm kiếm bắt đầu từ khi Chương trình NCHCCCL còn chưa lên sóng và kéo dài hơn 4 tháng liên tục.

Đây là hồ sơ thứ 8 được “đóng” đối với Đội Tìm kiếm thuộc Công ty Truyền thông Sài Gòn Buổi Sáng (SGBS) - đối tác sản xuất của VTV trong Chương trình này.

Địa bàn tập trung tìm kiếm là An Hữu, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Quá trình tìm kiếm được kể sơ qua trong Chương trình trực tiếp và được ghi lại trong hồ sơ lưu MS23. Tìm theo tổ hợp tên “Lê Thị Út – Lê Văn Được” không ra.

Tìm theo tra cứu tên của những bà Lê Thị Út sinh năm 1949 cũng không ra. Cuối cùng, Đội viên Tìm kiếm Lý Trung Dũng nhận được thông tin mách bảo từ Công an xã Thiện Trung, cho biết trong Ấp, có một gia đình có hoàn cảnh phải cho con đi đúng như vậy, nhưng không thể khai tên thật, mà phải mượn tên của người hàng xóm là Lê Thị Út, vì người mẹ lúc đó là du kích.

Như vậy, thông tin khai trên Tờ Ủy thác có thể không chính xác. Kết hợp với việc trước đó nhờ tra cứu số căn cước của người mẹ được ghi trên giấy cũng không ra kết quả nào, chúng tôi đã khẳng định: Thông tin trên Tờ Ủy thác là thông tin giả. Gia đình, người mẹ, người dì, người hàng xóm Lê Thị Út đều khẳng định thời điểm, địa điểm cho con đi trùng khớp với hồ sơ tìm kiếm.

 Đây là trường hợp một bên khớp thông tin hoàn toàn, một bên lại không có một chút trí nhớ nào (vì chia ly từ lúc sơ sinh). Những trường hợp như vậy hiện nay, NCHCCCL phải nhờ xét nghiệm ADN mới quyết định.

Nhưng, vào đầu năm 2008, NCHCCCL vừa hoạt động được vài tháng, chưa hề có sự hợp tác giúp đỡ từ Trung tâm Phân tích ADN và Công nghệ Di truyền (TT ADN), nên chúng tôi tin vào sự trùng hợp hiếm có giữa hoàn cảnh của anh Thành với người mẹ du kích. Do đó, một cuộc đoàn tụ được tổ chức, trong sự xúc động chân thành của những người trong cuộc, ekip thực hiện, cũng như khán giả truyền hình.

Đầu năm 2010, Chương trình nhận được lời đề nghị hỗ trợ từ TT ADN của bà Nguyễn Thị Nga. Kể từ đó, mọi trường hợp người đăng tìm hoặc và người được tìm ra không có hoặc không đủ trí nhớ để so sánh và khớp nối, NCHCCCL đều nhờ TT ADN giám định để xác định quan hệ huyết thống chính xác tuyệt đối.

Quay trở lại trường hợp anh Nguyễn Hữu Thành - bà Nguyệt, họ vẫn coi nhau là mẹ con gắn bó. Tuy nhiên, sau 3 năm, anh Thành có cảm giác chưa thật mật thiết, nên anh nói riêng với NCHCCCL, rằng anh muốn được xét nghiệm ADN cho hoàn toàn yên tâm.

Thực tế là anh đã bí mật lấy tóc và móng tay vừa cắt của mẹ Nguyệt, để gửi cùng với phiến mẫu máu của anh, chuyển qua NCHCCCL tới TT ADN. Chương trình thấy có nghĩa vụ phải làm việc này cùng với anh. Chúng tôi chấp nhận kết quả có thể cho thấy chúng tôi đã tìm không chính xác, miễn là người trong cuộc như anh Thành được yên tâm.

Bản kết quả ADN mà ông Triển đưa trên website đúng là do TT ADN của bà Nguyễn Thị Nga cung cấp về trường hợp anh Nguyễn Hữu Thành và bà Nguyễn Thị Nguyệt. Ngày ký: 24/5/2011, tức là 3 năm 3 tháng sau cuộc đoàn tụ.

Tuy nhiên, bài viết của ông Triển đã buộc tội chúng tôi đã tổ chức thực hiện chương trình “mặc dù giám định ADN cho kết quả là không phải mẹ con”, và “Chị Thu Uyên đã tạo dựng lên 1 quan hệ mẹ - con”, “mẹ giả - con giả”….

 Từ khi nhận kết quả, NCHCCCL coi vụ việc sai lầm này là bài học xương máu. Cùng với vụ “Võ Văn Phước” sau đó, là 2 vụ việc nghiêm trọng mà chúng tôi luôn nhắc lại trong ekip thực hiện, đặc biệt trước những bạn trẻ sau này mới tham gia và không biết về những vụ đó, để tự răn nhau, để không bao giờ xảy ra những việc tương tự.

Nhận được kết quả, chúng tôi đã chân thành xin lỗi anh Thành, và được anh thông cảm, tiếp tục nhờ NCHCCCL đi tìm mẹ đẻ cho anh, và anh bảo anh chưa muốn cho mẹ Nguyệt biết.

Cho đến khi LS Triển đăng bài về trường hợp của anh với dụng ý bôi nhọ NCHCCCL, anh Thành đã bức xúc và đã trực tiếp nói lên ý kiến của mình (Mời bạn đọc xem videoclip sau vài tiếng nữa).

LS Trần Đình Triển có thể đổ lỗi cho “người giấu mặt” cung cấp thông tin cho ông, về những buộc tội sai trái trong bài viết. Nhưng, ông Triển sẽ giải thích thế nào về thông tin mà anh Thành vừa nói trong videoclip?

Đây mới là vấn đề: Vào lúc 09h50 sáng ngày 21/11/2013, anh Thành nhận được 1 cuộc điện thoại từ số thuê bao 0914449999(còn lưu trong máy). Một giọng Nam tiếng Bắc xưng là người của VIETTEL hỏi thông tin để “báo cáo tổng kết Chương trình”. Người này hỏi anh Thành đã được đoàn tụ trong số mấy, tháng nào, năm nào. Anh Thành trả lời: Số 3, tháng 2/2009.

Theo xác minh của chúng tôi, số điện thoại 0914449999 là số do Văn phòng Luật sư Vì Dân, địa chỉ 28 ngõ 81 Đặng Văn Ngữ, Hà Nội. Theo văn bản chính thức của Văn phòng này, tạihttp://luatvidan.vn/index.php?f=news&do=print&id=549, số điện thoại trên được LS Trần Đình Triển sử dụng.

Thế có nghĩa là, trước khi tung bài trên facebook cá nhân (vào ngày 22/11/2013), ông Triển đã thăm dò và nắm rõ thời điểm anh Thành gặp bà Nguyệt diễn ra 3 năm 3 tháng trước khi có xét nghiệm ADN. Như vậy, có thể kết luận, LS Trần Đình Triển đã cố tình vu khống nhà báo Thu Uyên và Chương trình NCHCCCL.

Ngoài nội dung trên, bài viết của ông Triển còn chứa thông tin vu khống khác nữa: Một gia đình ở Củ Chi tìm 1 người thân thất lạc từ năm 1975 mà Sài Gòn Buổi sáng có đầy đủ thông tin, nhưng một người Công ty đòi 30 triệu mới cấp cho. Họ đành lòng đi về và rất may nhờ 1 người đã cung cấp được thông tin và đầu năm 2013 gia đình họ đã đoàn tụ”. Chúng tôi đã làm việc với Luật sư để khởi kiện về những sự vu cáo này.

Chương trình NCHCCCL do VTV hợp tác với SGBS sản xuất, mà trong đó, việc tìm kiếm và xử lý thông tin do SGBS đảm nhận, vì VTV không có chức năng tổ chức tìm kiếm. Nội dung thông tin người đăng ký gửi đến cho NCHCCCL được bảo mật chặt chẽ, và chỉ cung cấp khi chúng tôi đã xác minh đúng người đúng việc.

NCHCCCL là chương trình nhân đạo, tuyệt đối không thu một đồng phí nào của bất cứ ai đăng ký, nhờ tìm người thân. Khi tìm ra, cả bên tìm lẫn bên được tìm cũng tuyệt đối không phải trả bất cứ một khoản phí nào. Thành viên của ekip thực hiện NCHCCCL không nhận tiền, nhận quà của nhân vật được đoàn tụ và của những người đăng ký.

NCHCCCL còn tổ chức đưa đón, lo nơi ăn chỗ ở cho những người đến tham dự Chương trình, và kêu gọi hỗ trợ trực tiếp – tự trao cho nhân vật có hoàn cảnh khó khăn. Chương trình hoạt động 6 năm, với hơn 70.000 yêu cầu tìm kiếm, hơn 600 cuộc tìm ra, tuyệt đối không để xảy ra tiêu cực, phàn nàn.

Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin về trường hợp “Võ Văn Phước”.

Đỗ Minh Hoàng
Tổng Giám đốc Công ty Truyền thông Sài Gòn Buổi Sáng
Đội trưởng Đội Tìm kiếm

Nhà báo Thu Uyên:

Đọc lại những trang hồ sơ, xem lại những chương trình của gần 6 năm về trước, tôi thấy có khờ dại, vụng về. Nhưng cũng thấy cái tâm của từng người trong cuộc.

Tôi sẽ xin phép người đăng ký để được phép đưa một hồ sơ lên website, để khán giả biết chúng tôi đã tìm kiếm như thế nào, đã để bao nhiêu sự chân thành của mình vào những cuộc tìm kiếm và suy luận nhằm cho một người tìm được người thân.

Ai nghi ngờ những giọt nước mắt của NCHCCCL là giả dối, ai nghi ngờ những giây phút đoàn tụ trên trường quay là ngụy tạo, thì chúng tôi chỉ biết tiếc cho người đó mà thôi.

Tôi nghĩ rằng sẽ có người thắc mắc, vì sao khi biết nhầm lẫn, chúng tôi lại không xin lỗi. Xin phép thưa rằng, trong cả 2 trường hợp sai (MS23 - Nguyễn Hữu Thành và MS74 - Võ Văn Phước), chúng tôi đều lập tức báo cáo với người trong cuộc, và khắc phục hậu quả ngay.

Cả 2 trường hợp, chúng tôi tìm ra sự thật đều sau sau hơn 2 năm. Còn có ân hận, hối tiếc hay không? Vô cùng. Nếu không biết ân hận, có lẽ với bể thông tin như chúng tôi đang xử lý, đã xảy ra vô cùng nhiều sai lầm không kiểm soát nổi.

Nếu không ân hận, can cớ gì chúng tôi phải thường nhắc đi nhắc lại 2 trường hợp này trong các cuộc họp, khi cần nhắc nhở mỗi thành viên của ekip NCHCCCL nhiệt tình nhưng thận trọng, cảm động nhưng tỉnh táo khi xử lý những phần việc được giao liên quan đến kết nối người thất lạc.

Dù sao, có 1 đợt tấn công như thế này cũng hay. Chúng tôi lần nữa xem lại mình, xốc lại tinh thần, và bắt đầu những cuộc tìm kiếm mới và những việc thật cụ thể để mang lại chút ít gì tốt đẹp cho những gia đình có công và cho những người chịu cảnh chia ly.

Nhà báo Thu Uyên – VTV

Theo Infonet

Nhà báo truy đuổi tên cướp như phim hành động

Truy đuổi nam thanh niên cướp túi xách của một nữ sinh trên đường phố Hà Nội, nhà báo Thiên đã áp sát, đạp đổ xe rồi lao tới khống chế hắn. Tên cướp chống trả quyết liệt và tháo chạy, bỏ lại chiếc xe Exciter cùng tang vật.

Sau khi bị nhà báo Thiên đạp đổ và lao đến khống chế tên cướp (có đánh mũi tên màu đỏ) liên tục kêu la mình bị cướp để hòng tháo chạy. Ảnh: Sơn Dương

Hơn 10h sáng 25/11, một đôi trai gái đang đi trên đường Đại Cồ Việt (Hà Nội) thì bất ngờ bị một thanh niên đi xe Exciter vọt lên giật túi xách và đạp đổ xe của hai người, rồi tháo chạy về phía đường Lê Duẩn.

Nhà báo tên Thiên (báo điện tử Petrotimes), đang trên đường tác nghiệp chứng kiến sự việc liền rồ ga đuổi theo. Rượt đuổi tên cướp trên quãng đường hơn 3km khi đến đoạn ngã tư Bà Triệu - Tô Hiến Thành, nam nhà báo đã phóng lên đạp đổ chiếc xe và lao tới khống chế tên cướp.

Tên cướp chống trả quyết liệt, vứt lại túi xách và xe chiếc xe Exiter rồi bỏ chạy.

 "Tôi đạp đổ chiếc xe, túm được áo của tên cướp nhưng hắn luôn kêu la bị cướp, khi đó một số người dân cầm búa chạy tới định đánh tôi, nên tôi đành buông tay để giải thích với họ. Lợi dụng lúc đó, hắn trốn thoát", anh Thiên kể lại.

"Hắn to khỏe, cao hơn 1.7m, sức của một mình tôi thì không thể nào khống chế nổi, nhưng nếu được người dân trợ giúp chắc chắn hắn khó lòng chạy thoát", nhà báo này khẳng định.

Sau khi vùng vẫy và chống trả nhà báo Thiên, tên cướp đã bỏ chạy trước sự chứng kiến của hàng chục người dân. Ảnh: Sơn Dương

Sự việc xảy ra được ít phút, Công an phường Nguyễn Du (quận Hai Bà Trưng) đã có mặt tại hiện trường. Ngoài chiếc xe Exciter, công an còn thu giữ một túi xách bên trong có đăng ký xe và một con dao Thái Lan.

Cơ quan chức năng cũng thu tại hiện chiếc túi xách của nạn nhân, bên trong có 600 nghìn tiền mặt, 1 điện thoại IPhone 5 và một số giấy tờ tùy thân.

Chiếc xe mà tên cướp bỏ lại để tháo chạy. Ảnh: Sơn Dương

Trao đổi với Vnexpress.net, lãnh đạo của Đội cảnh sát chống cướp giật - Công an Thành phố Hà Nội cho biết, sau khi nhận được thông tin, đội đã phối hợp với công an phường Nguyễn Du cho xác minh chiếc xe và in hình tên cướp để truy tìm tung tích.

Một cán bộ trực tiếp truy tìm cũng tiết lộ, chiếc xe Exciter đăng ký ở Hà Nam, nhưng đã chuyển chủ sở hữu và hiện tại người chủ này sống ở Hà Nội. Vị cán bộ này cũng cho biết, tên cướp từng thực hiện một vài vụ tương tự ở địa bàn và hiện các trinh sát đã nhận diện được tên cướp này.

 Bá Đô

Nguồn: vnexpress.net

Tòa soạn hội tụ - từ lý luận đến thực tiễn

Ngay từ năm 1978, giáo sư công nghệ truyền thông nổi tiếng người Mỹ Nicholas Negroponte đã đưa ra khái niệm hội tụ. Điều đó cho thấy, quá trình hội tụ trên thế giới đã diễn ra từ vài thập kỷ nay.

Ảnh: ru3.com

Tuy nhiên, đến năm 1983, giáo sư Ithiel de Sola Pool của Học viện Công nghệ Hoa Kỳ (MIT) mới chính thức đưa ra khái niệm truyền thông hội tụ và dự đoán rằng, với sự phát triển của kỹ thuật số hóa, sẽ khiến các loại hình truyền thông vốn được phân chia rạch ròi, nay hội tụ với nhau. Và, khi thời đại truyền thông số ra đời đã khiến “con đường” siêu cao tốc bao quanh trái đất bằng hình ảnh, âm thanh và dữ liệu hội tụ với nhau. Trong bối cảnh đó, báo chí truyền thông phải  tìm cách để thích ứng với môi trường truyền thông mới. Do vậy, việc xây dựng các tòa soạn hội tụ đã và đang trở thành xu thế phát triển của ngành báo chí - truyền thông hiện đại.

Tòa soạn hội tụ hay sự sáp nhập mang tính hữu cơ

Trong thực tế, khi một phương tiện truyền thông mới ra đời, người ta thường quan tâm và nhắc nhiều đến sự “tồn tại” của các phương tiện truyền thông truyền thống. Tuy nhiên, với xu thế hội tụ truyền thông mạnh mẽ như hiện nay, các phương tiện truyền thông truyền thống và truyền thông mới lại có xu hướng cùng tích hợp, tương tác và hỗ trợ nhau, bằng những phương thức đa dạng và phức tạp hơn trước. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, hội tụ truyền thông không có nghĩa là sự cộng dồn một cách máy móc các loại hình báo chí trong cùng một cơ quan, mà thực chất trước xu thế hội tụ, một tòa soạn sẽ phải cấu trúc, sắp xếp lại để trở thành một “guồng máy” sản xuất tin tức, chế ra nhiều “món ăn” đáp ứng các thị hiếu của công chúng hiện đại.

Trong cuốn Mô hình hội tụ truyền thông (Media Convergence Models), Kevin L.McCrudden viết: “Hội tụ truyền thông là sự giao thoa giữa mô hình truyền thông mới và truyền thông truyền thống”. Trong đó, ông đưa ra mô hình truyền thông hội tụ lấy mạng Internet làm hạt nhân và Internet là phương tiện truyền thông mạnh mẽ nhất từng được tạo ra, bởi vì nó có thể bắt chước tất cả phương tiện truyền thông khác, còn các phương tiện khác không thể bắt chước Internet. Qua đó có thể thấy, các phương tiện truyền thông mới và truyền thống có thể tương tác theo sự phát triển của công nghệ số hóa. Điều đó đã khiến báo chí, phát thanh và truyền hình từng bước bị Internet “tấn công” mạnh mẽ, và trong môi trường hội tụ truyền thông đó, công chúng có thể tự do tìm kiếm thông tin một cách nhanh nhất trên các phương tiện truyền thông mà họ ưa thích.

Mô hình hội tụ truyền thông theo Nicholas Negroponte
Mô hình hội tụ truyền thông của McCrudden

Trở lại lịch sử báo chí thế giới, từ lâu nay, hầu hết các tòa soạn  trên thế giới đều được xây dựng và vận hành theo mô hình tòa soạn riêng rẽ, phóng viên chủ yếu “phục vụ” cho một loại hình báo chí. Điều đó đã khiến các tòa soạn báo  không phát huy được sức mạnh tổng thể về nguồn nhân lực cũng như ưu thế vượt trội của công nghệ đa phương tiện. Chính vì vậy, hiện nay nhiều tờ báo trên thế giới đã tìm cách xây dựng mô hình tòa soạn đa phương tiện, lấy báo điện tử làm trung tâm và khái niệm tòa soạn hội tụ (newsroom convergence) ra đời.

Kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu Giáo dục Truyền thông Medienhaus Vienna (Áo) cho thấy, mô hình tòa soạn hội tụ là từ khóa cho một trong những tiến trình thay đổi của các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay. Và, mô hình tòa soạn hội tụ đang có xu hướng lan rộng trong các cơ quan truyền thông trên thế giới. Điều quan trọng hơn, mô hình tòa soạn hội tụ đã và đang tạo ra sự thay đổi trong thói quen làm việc thường nhật của các nhà báo.

Có thể thấy, tòa soạn hội tụ là một “chiến lược biên tập”, nhằm thúc đẩy công chúng có thể sử dụng bất cứ thiết bị nào để tiếp cận thông tin. Tuy nhiên, tòa soạn hội tụ phải phụ thuộc vào các quy định cũng như luật báo chí của từng quốc gia, đặc biệt là nền tảng khoa học và công nghệ, cũng như văn hóa tòa soạn. Do đó, sự ra đời và phát triển tòa soạn hội tụ là một tất yếu khách quan của đời sống truyền thông hiện đại. Và sự tích hợp giữa các phương tiện truyền thông mới và cũ trong cùng một tòa soạn là đặc điểm nổi bật nhất của tòa soạn hội tụ. Có người cho rằng, sự tích hợp này  giống như như một cuộc “hôn nhân”, bao gồm nhiều chủ thể: báo in, báo mạng, phát thanh, truyền hình và tạp chí. Các chủ thể phải điều tiết lẫn nhau, kết hợp linh hoạt với nhau để tạo ra “những đứa con tinh thần” mà công chúng dễ dàng đón nhận trong bất kỳ hình thức nào.

Đặc điểm của tòa soạn hội tụ

Như đã phân tích ở trên, tòa soạn hội tụ được hiểu là một mô hình tòa soạn hiện đại, trong đó có sự hợp nhất giữa các phòng (ban) chuyên môn trong tòa soạn, các phóng viên, biên tập viên cũng như lãnh đạo cùng làm việc trong một không gian mở trên một mặt phẳng, lấy trung tâm sản xuất và phân phối tin tức đa phương tiện làm hạt nhân - nơi có thể giúp lãnh đạo tòa soạn đưa ra chỉ thị nhanh nhất và thống nhất về nội dung đến từng nhân viên trong tòa soạn. Qua nghiên cứu một số mô hình tòa soạn hội tụ trên thế giới, có thể khái quát các đặc điểm sau:

Hội tụ về không gian làm việc

Kinh nghiệm của một số tòa soạn nổi tiếng trên thế giới cho thấy, một trong những đặc điểm cơ bản nhất của tòa soạn hội tụ là từ “sếp” đến nhân viên đều làm việc trên một mặt phẳng. Trong tòa soạn, các phóng viên “đầu quân” cho các loại hình truyền thông khác nhau như truyền hình, phát thanh, báo in, báo mạng điện tử cùng hợp nhất địa điểm làm việc trong một văn phòng lớn, thay vì mỗi loại hình bố trí riêng rẽ một tầng hay một tòa nhà riêng biệt.

Thực ra, ý tưởng về một văn phòng của tòa soạn hội tụ rất đơn giản, đó là sự phá vỡ những rào cản giữa báo in, truyền hình, phát thanh và báo mạng điện tử, từ đó tạo ra một hệ thống giao tiếp mở - nơi các nhà báo có thể thu thập, xử lý thông tin ngay tại chỗ, sau đó thể hiện các bản tin qua các phương tiện truyền thông khác nhau. Điển hình nhất là Trung tâm Thông tin ở Tampa, bang Florida (Mỹ) là một trong những hình mẫu nổi bật nhất đại diện cho mô hình hội tụ này. Theo các nhà nghiên cứu, năm 2000, tất cả nhân viên của Đài truyền hình Tampa Tribune WFLA -TV và trang điện tử tbo.com đã chuyển đến làm việc tại một văn phòng (tòa soạn hội tụ) mới có giá 40 triệu USD. Với không gian làm việc đó đã tạo ra sự gần gũi và khuyến khích các phóng viên có thể hợp tác với nhau trong công việc, thay vì thường xuyên tác nghiệp “đơn thương độc mã” như trước.

Theo thiết kế, giữa tòa soạn là khu vực lãnh đạo - có một bàn siêu biên tập (super desk) - nơi được coi là “sở chỉ huy” của tòa soạn, giúp lãnh đạo đưa ra chỉ thị một cách nhanh nhất khi tác nghiệp. Ngoài ra, các ban (phòng) chuyên môn cũng dễ dàng trao đổi ý tưởng và có phản hồi lại ngay sau khi nhận được chỉ thị của lãnh đạo. Lãnh đạo các phòng (ban) có thể trao đổi trực tiếp với nhau và lên kế hoạch sản xuất tin tức, từ đó chỉ đạo phóng viên đưa tin một cách tốt nhất cho các loại hình báo chí.

Với cách sắp xếp trên một mặt phẳng như vậy, tòa soạn hội tụ buộc phải tích hợp công nghệ và kỹ thuật. Tất cả các công nghệ để sản xuất ra một bài báo in, hay báo mạng, hoặc clip truyền hình, audio phát thanh đều được tích hợp trong một văn phòng.

Hội tụ trong phương thức tác nghiệp của nhà báo

Trong tòa soạn hội tụ, phóng viên, biên tập viên, phóng viên ảnh cùng hợp tác làm tin, bài thay vì hoạt động độc lập như trước. Nói một cách đơn giản, khi xảy ra sự kiện có tính thời sự, một nhóm phóng viên cùng thu thập tin tức, đồng thời chia sẻ những thông tin đã thu thập được và thống nhất chọn cách tốt nhất để đưa tin.

Mô hình tòa soạn điển hình theo kiểu này là tờ Osterreich (Áo). Theo thiết kế, tòa soạn đã xây dựng một phòng tin tức theo mô hình bánh xe. Bàn siêu biên tập hay còn gọi là “sở chỉ huy” được đặt ở trung tâm. Với cách sắp xếp đó, phóng viên viết cho báo in và báo mạng điện tử cùng làm việc trong một môi trường, có thể hỗ trợ nhau trong công việc, thay vì mỗi bên chỉ quan tâm sản xuất nội dung cho kênh của mình như trước kia. Khi (phòng) ban báo in họp bàn về nội dung, những phóng viên của báo mạng điện tử cũng biết chính xác vấn đề gì đang được thảo luận để chủ động tổ chức tin bài, mặc dù hai ban này được tổ chức riêng rẽ.

Ngoài ra, phóng viên báo in hoàn toàn có thể sử dụng tư liệu, ảnh trong bài viết, phóng viên truyền hình có thể sử dụng phần text của báo in làm lời dẫn cho clip của mình… Các bản tin trên truyền hình cũng có thể sử dụng đồ họa hay các số liệu của báo in và báo mạng đã đăng tải. Đối với báo mạng điện tử có thể sử dụng những sản phẩm của truyền hình và file audio của phát thanh. Trong quá trình tác nghiệp, tòa soạn thường xuyên tổ chức các khóa bồi dưỡng và đào tạo cho phóng viên báo in biết cách tường thuật tin tức trên truyền hình; đối với  phóng viên ảnh không chỉ biết chụp ảnh, mà còn có thể quay phim và tiến hành các cuộc phỏng vấn. Nói cách khác, khi làm việc trong tòa soạn hội tụ, các nhà báo sẽ phải làm việc “đa năng” hơn và phải đối mặt với hình thức hội tụ đa phương tiện, dù bản tin đó chỉ là một mẩu tin của kênh truyền hình, hay báo mạng hoặc tờ báo in. Nhà báo tác nghiệp trong môi trường này phải chuẩn bị những bản tin đó một cách đa dạng hơn để có thể đăng tải trên nhiều phương tiện truyền thông khác nhau.

Qua đó có thể thấy, muốn làm tốt nội dung hội tụ, phóng viên, biên tập viên của tòa soạn hội tụ phải là phóng viên “đa năng”, vừa có kỹ năng viết bài, vừa biết sử dụng các thiết bị kỹ thuật cho cơ quan báo chí đa phương tiện.

Hội tụ về nội dung

Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất khi xây dựng tòa soạn hội tụ là việc hội tụ nội dung tin tức. Các tác phẩm báo chí được trình bày dưới dạng đa phương tiện, kết hợp chữ viết, hình ảnh, âm thanh, video, blog, liên kết đến các trang video, audio trực tuyến… Theo đánh giá của các chuyên gia, hội tụ nội dung vẫn còn trong giai đoạn sơ khai, nhưng trong một tương lai không xa, các tác phẩm báo chí hội tụ sẽ xuất hiện nhiều hơn trên các tờ báo mạng điện tử.

Việc hội tụ về nội dung cho thấy, tin tức rõ ràng và nhất quán trên tất cả các thiết bị và loại hình báo chí sẽ góp phần củng cố thương hiệu cho cơ quan báo chí bằng cách tòa soạn có thể sử dụng các khả năng và thế mạnh của các kênh khác nhau, tiếp cận đối tượng ở bất cứ đâu và lúc nào thông qua các phương tiện truyền thông thích hợp nhất. Điển hình nhất là tòa soạn Daily Telegraph (Anh) rất tích cực trong việc xây dựng tòa soạn hội tụ và cho “ra đời” nhiều sản phẩm truyền thông hội tụ. Ví dụ, sự kiện Tổng thống Mỹ B.Obama tái đắc cử năm 2012, Daily Telegraph sử dụng cùng lúc cả chữ viết, hình ảnh, âm thanh, video để truyền tải thông tin, đồng thời còn liên kết đến các trang mạng xã hội twitter của tổng thống Mỹ, đăng tải thông tin một cách đầy đủ và có hệ thống quá trình vận động tranh cử, giúp  độc giả dễ nắm bắt thông tin và tiện theo dõi.

Thúc đẩy công chúng nói

Trong môi trường hội tụ, hoạt động nghiên cứu công chúng, thúc đẩy sự tham gia tích cực của công chúng là một trong những công việc hết sức quan trọng, quyết định sự “sinh tồn” của tờ báo. Điển hình nhất là mô hình tòa soạn hội tụ giữa báo in và báo mạng điện tử của Straits Times (Singapore) chuyên sản xuất các tin tức hội tụ qua trang mạng www.stomp.com.sg. Tờ báo mạng điện tử này kết hợp âm thanh và video của truyền hình, có khả năng tương tác và lưu trữ rất cao. Qua đánh giá của một số chuyên gia, phần lớn các tin tức ở trang này do công chúng cung cấp. Đây vừa là một cách thức thể hiện mới, đồng thời cũng là loại hình mới trong việc đưa tin của tòa soạn hội tụ. STOPM nhận tin phản ánh từ độc giả, sau khi kiểm chứng thông tin, tòa soạn này sẵn sàng đăng những tấm hình do độc giả cung cấp lên trang nhất. Như vậy, với cách làm đó, STOMP đã tận dụng tối đa nguồn cung thông tin từ độc giả, độc giả không chỉ là người tiếp nhận mà còn là người sản xuất, cung cấp thông tin cho tòa soạn.

Một số tiêu chí xây dựng tòa soạn hội tụ

Qua nghiên cứu những kinh nghiệm của một số tòa soạn hội tụ trên thế giới, chúng tôi đưa ra một số tiêu chí mang tính chất tiêu biểu để xây dựng thành công tòa soạn hội tụ. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những tiêu chí “cứng”, bên cạnh đó còn một số tiêu chí “mềm” (tiêu chí khả biến) như khả năng về thực lực kinh tế, trình độ  cũng như văn hóa của tòa soạn.

Về nhân lực

Trước xu thế hội tụ truyền thông không thể cưỡng lại, một nhà báo đa năng phải là người làm được nhiều việc, không chỉ viết cho báo in, báo điện tử mà có thể sản xuất các sản phẩm truyền thông cho phát thanh và truyền hình. Đặc biệt, những nhà báo hoạt động trong các tòa soạn hội tụ cần có sự nhạy bén để xử lý thông tin cho các kênh truyền thông khác nhau. Thực tiễn của những tòa soạn hội tụ trên thế giới cho thấy, muốn xây dựng được tòa soạn hội tụ thành công, trước hết cần phải có đội ngũ phóng viên, biên tập viên có kỹ năng nghề nghiệp tốt, được đào tạo bài bản, có khả năng sử dụng nhiều thiết bị hiện đại như máy quay, máy ảnh, máy ghi âm... đồng thời am hiểu nhiều loại hình báo chí... Tuy nhiên, trong bất kỳ điều kiện nào, vẫn không thể thiếu các kỹ năng chuyên sâu như kỹ năng điều tra, viết chân dung, phỏng vấn, phóng sự, kỹ năng sử dụng truyền thông mạng xã hội trong tác nghiệp.

Biết và làm chủ công nghệ hiện đại

Một trong những thách thức lớn nhất của các cơ quan báo chí hiện nay là khả năng làm chủ công nghệ của các nhà báo chưa thật sự tinh nhuệ. Nhìn từ đời sống truyền thông của Việt Nam có thể thấy, vẫn còn ít nhà báo được đào tạo để ứng dụng công nghệ mới, như sử dụng các ứng dụng của máy tính bảng, điện thoại thông minh… vào hoạt động tác nghiệp. Do đó, muốn xây dựng được tòa soạn hội tụ, cơ quan báo chí cũng cần xây dựng được đội ngũ nhân sự chuyên và mạnh về công nghệ thông tin để phục vụ tốt nhất cho tòa soạn. Ví dụ, đối với phóng viên ảnh, ngoài việc cung cấp phóng sự ảnh, họ còn có thể phỏng vấn, ghi âm, quay phim, biên tập âm thanh, hình ảnh video và thậm chí cả thiết kế đồ họa, flash... đây cũng là yêu cầu đối với phóng viên viết bài, phóng viên quay phim. Có người cho rằng, bản thân một nhà báo phải là  một “cơ quan” cung cấp sản phẩm truyền thông đa phương tiện cho công chúng, nhờ biết ứng dụng các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại và công nghệ.

Về cơ sở hạ tầng

Trong bất kỳ môi trường nào, cơ sở vật chất của các cơ quan báo chí đều có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của tòa soạn. Cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho các phóng viên hành nghề.  Riêng đối với tòa soạn hội tụ, cơ sở vật chất là yếu tố then chốt đối với việc truyền, phát thông tin tới công chúng. Việc hiện đại hóa cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động báo chí cũng là một trong những vấn đề đáng quan tâm của các cơ quan báo chí trong xu thế hội tụ truyền thông. Mặt khác, các tòa soạn cần có không gian rộng để tổ chức văn phòng theo mô hình hội tụ. Ngoài ra, tòa soạn cũng phải được trang bị  các phương tiện kỹ thuật hiện đại, bởi nội dung không tách rời kỹ thuật, kỹ thuật tốt sẽ giúp  nội dung bứt phá thể hiện sức mạnh của nó. Thực tế cho thấy, tòa soạn hội tụ cần phải có một trung tâm sản xuất tin bài và một hệ thống quản lý nội dung dựa trên nền tảng của web. Ngoài ra, kỹ thuật giải mã đa phương tiện nhanh chóng, dễ sử dụng được cài đặt sẽ giúp truyền đi âm thanh và hình ảnh tới các thiết bị xem tin đa phương tiện theo yêu cầu. Đồng thời, đảm bảo tin bài được truyền tải đến nhiều loại hình báo chí và được khai thác trên tất cả các loại thiết bị.

Mặt khác, tòa soạn cũng phải bảo đảm tờ báo mạng điện tử có chức năng nhúng với các mạng xã hội, cho phép người đọc lưu trữ, chia sẻ, tái sử dụng và bình luận hay công cụ khác tương tự cho tất cả các máy tính. Điều cũng rất quan trọng là tòa soạn cần xây dựng hệ thống bảo mật mạnh và hiện đại để tránh tin tặc.

Gợi ý cho Việt Nam

Tòa soạn hội tụ trên thế giới đã hình thành và phát triển từ những năm đầu thế kỷ XXI và đạt được những thành tựu đáng kể, trong khi ở Việt Nam - khái niệm này vẫn còn khá mới mẻ. Ai cũng biết, đây là xu thế không thể cưỡng lại. Tuy nhiên, làm thế nào để xây dựng tòa soạn hội tụ phù hợp với môi trường báo chí Việt Nam, vẫn là bài toán cần lời giải. Chúng tôi xin gợi ý mô hình và quy trình sản xuất tin, bài cho tòa soạn hội tụ như sau:

Mô hình cho cơ quan báo in chuyển sang tòa soạn hội tụ

Nhìn từ đời sống báo chí truyền thông nước ta có thể thấy, về cơ bản các tòa soạn (báo in) “ra đời” các ấn phẩm phụ (phụ trương, phụ bản, chuyên san...)  đa ấn phẩm, tiếp theo đó, xây dựng và phát triển tờ báo mạng điện tử (trang điện tử)  cơ quan báo chí đa phương tiện.

Đây là những cơ quan báo chí phổ biến hiện nay ở Việt Nam, nếu xây dựng tòa soạn hội tụ, có thể tham khảo mô hình sau:

Dù là mô hình tòa soạn nào, ban biên tập vẫn là người có thẩm quyền và trách nhiệm cao nhất. Tuy nhiên, trong mô hình tọa soạn hội tụ, mối quan hệ đa chiều và tính tương tác giữa các bộ phận trong tòa soạn thể hiện rất rõ ràng, bởi những người làm việc trong tòa soạn hội tụ phải vừa linh hoạt, sáng tạo, song phải phát huy tối đa tinh thần cộng tác, làm việc theo nhóm...

Mô hình tòa soạn hội tụ cho cơ quan báo mạng điện tử

Quy trình sản xuất tin, bài hội tụ

Thông thường, sau khi có tin, bài do phóng viên (cộng tác viên) khai thác theo từng loại hình báo chí sẽ chuyển về phòng tin hội tụ (đầu vào). Khi tin, bài tập trung ở trung tâm tin của tòa soạn, các biên tập viên hội tụ (ban thư ký) tiến hành lọc bước 1 rồi chuyển đến bàn siêu biên tập. Đây là chiếc bàn đặt ở giữa trung tâm tin của tòa soạn hoặc ở nơi các biên tập viên cao cấp có thể  nắm bắt một cách nhanh nhất và đầy đủ nhất các thông tin, sự kiện được gửi về, thậm chí họ cũng được nghe các cú điện thoại của phóng viên tác nghiệp tại hiện trường gọi về xin ý kiến chỉ đạo.

Tại phòng siêu biên tập, các biên tập viên cao cấp tiến hành trao đổi, phân loại, điều phối và đưa ra quyết định nên sử dụng tin, bài đó ở loại hình truyền thông nào. Đây là cách cung cấp gói thông tin một cách nhất quán về mặt nội dung cho các phương tiện truyền thông (báo in, báo mạng, phát thanh, truyền hình hay điện thoại di động v.v..). Sau khi các biên tập viên ở bàn siêu biên tập xử lý và phân loại, tin, bài sẽ được đẩy lên hệ thống để tổng biên tập hoặc phó tổng biên tập phụ trách nội dung duyệt, xuất bản. Đối với các sản phẩm của phát thanh hay truyền hình, cần đến sự trợ giúp của đội ngũ kỹ thuật viên...

 TS. Nguyễn Thành Lợi

Nguồn: Tạp chí Người làm báo

Bàn về khái niệm “Glocalization” trong chương trình “truyền hình thực tế” tại Việt Nam

Toàn cầu hóa hiện nay không còn là một xu thế mà đã trở thành một hiện thực đang ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia, làm giảm đi độ khép kín và đưa tất cả vào chung một hệ thống bao gồm những phân hệ gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau cả về kinh tế, công nghệ và văn hóa trong một “ngôi làng toàn cầu”.

Truyền hình là một trong những phương tiện của quá trình toàn cầu hóa đồng thời là một trong những biểu hiện rõ nét của toàn cầu hóa trong lĩnh vực văn hóa và truyền thông.

Gần đây, khi hàng loạt các chương trình truyền hình thực tế (THTT)  có định dạng (format) từ các chương trình reality show gốc từ nước ngoài được phát sóng khá nhiều trên hệ thống truyền hình Việt Nam trong đó có Đài Truyền hình TP. HCM (HTV), thu hút một số lượng đông đảo khán giả thì dư luận cũng đã bắt đầu nhắc lại những nguy cơ về mất bản sắc. Có phải toàn cầu hóa trong lĩnh vực truyền hình chỉ đem đến những thách thức cho văn hóa bản địa? Làm thế nào để các chương trình truyền hình trong đó có các chương trình THTT thật sự trở thành những món ăn tinh thần vừa bổ ích vừa thúc đẩy hội nhập văn hóa toàn cầu?

Để trả lời những câu hỏi đó thì việc nghiên cứu truyền hình, đặc biệt là nghiên cứu những thể loại truyền hình mới có định dạng từ các nước phương Tây trong bối cảnh toàn cầu hóa là một việc làm cần thiết vì sẽ đem lại sự hiểu biết toàn diện và khách quan đối với những hiện tượng văn hóa mang tính thời đại, góp phần đưa công chúng Việt nam tiếp cận với những thành tựu về văn hóa, nghệ thuật của toàn thế giới. Mặt khác, việc xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa giao lưu, hội nhập với bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc sẽ mở đường cho văn hóa phát triển (Nguyễn Chí Bền (Cb) 2010: 138), vừa đáp ứng được nhu cầu của công chúng Việt Nam vừa có cơ hội vươn xa ra thế giới trong môi trường toàn cầu hóa đa chiều. Khái niệm mới “glocalization” trong nghiên cứu truyền thông thế giới tỏ ra thích hợp hơn hết với tình hình phát triển truyền hình ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

 Glocalization (“bản địa hóa”) trong mối tương tác với Globalization (toàn cầu hóa)

Toàn cầu hóa là một quá trình mang tính quy luật cho nên những quan điểm biện chứng về tính hiện thực của toàn cầu hóa trong lĩnh vực văn hóa nói chung và truyền thông đại chúng nói riêng của Chủ nghĩa Mác-Lê nin và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại và tương đồng với những quan điểm tích cực của các học giả tiên phong trên  thế giới trong nghiên cứu khía cạnh toàn cầu hóa của truyền thông đại chúng.

Một trong những người góp phần quan trọng trong việc hình thành khái niệm khoa học cho xu hướng toàn cầu hóa và sau đó là khái niệm “Glocalization” là nhà xã hội học Roland Robertson người Scotland. Robertson đã áp dụng khái niệm Glocalization trong marketing vào nghiên cứu toàn cầu hóa truyền thông và dùng khái niệm này để chỉ việc sản xuất mang tính toàn cầu của một sản phẩm truyền thông xuất phát từ một địa phương nào đó và việc bản địa hóa một sản phẩm đã được toàn cầu hóa, theo đó trong bất cứ trường hợp nào, sự nhấn mạnh vào tính dị biệt và đa dạng có thể được hiểu như là sự biểu hiện tính toàn cầu đang gia tăng. “Điều đó có nghĩa là việc mong muốn bày tỏ bản sắc luôn gắn liền với quá trình toàn cầu hóa” (Robertson 1992: 175).

Khái niệm “glocalization” được ghép từ “globalization” (toàn cầu hóa) và “localization” (địa phương hóa) được các nhà kinh tế học Nhật Bản sử dụng trong thập niên 1980 để chỉ sự gia tăng yếu tố địa phương trong các sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng thế giới. Tại Nhật Bản, khái niệm này xuất phát từ việc áp dụng các kỹ thuật canh tác tiên tiến trên thế giới phù hợp với điều kiện Nhật Bản và được người Nhật gọi là dochakuka.

Roland Robertson là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “glocalization” (trong kinh doanh có nghĩa là “tầm nhìn toàn cầu được áp dụng cho các điều kiện địa phương”) vào lĩnh vực nghiên cứu xã hội học truyền thông. Ông cho rằng yếu tố địa phương vốn gắn chặt với quá trình toàn cầu hóa và được nhận ra một cách chính xác thông qua các biểu hiện đặc biệt (thường được gọi là bản sắc). Do Robertson phát triển khái niệm “glocalization” trước khi THTT bước vào thời hoàng kim nên ông chủ yếu thiên về các chiến lược đa dạng của các công ty đa quốc gia giới thiệu các sản phẩm toàn cầu của họ với các đặc điểm văn hóa của địa phương mà sản phẩm hướng tới. Tuy nhiên thuật ngữ này sau đó đã được khu biệt chủ yếu trong việc nghiên cứu truyền thông và được sử dụng khi đề cập đến hoạt động mua bán các định dạng chương trình truyền hình.

Ở khía cạnh này, Silvio Waisbord cũng cùng chung quan điểm với Robertson khi giải thích sự phổ biến của một định dạng THTT nào đó trên thế giới là do tính chất kép của nó khi kết hợp giữa công nghệ và chiến lược sản xuất toàn cầu với những nét dị biệt của thị hiếu công chúng địa phương. Theo Waisbord, “sự phổ biến rộng rãi của các định dạng truyền hình thể hiện một xu hướng luôn luôn cần những sản phẩm đỉnh cao và mong muốn làm theo. Nó bộc lộ hai hướng phát triển chủ đạo trong truyền hình đương đại: sự toàn cầu hóa phương thức kinh doanh truyền hình và nỗ lực của các nhà sản xuất chương trình quốc tế cũng như nội địa nhằm gắn kết với các nền văn hóa quốc gia”[Waisbord 2004: 360]. Đó chính là bản chất của glocalization.

Trong khi các định dạng truyền hình nổi tiếng gần như thoát khỏi các đặc trưng văn hóa để để tăng tính toàn cầu thì các phiên bản được làm lại ở các nước thường được “đổ khuôn” bằng các đặc trưng văn hóa gắn liền với bản sắc dân tộc. Và như vậy, các định dạng truyền hình toàn cầu có thể giữ một vai trò năng động trong quá trình kết nối các yếu tố bản sắc dân tộc, cung cấp chỗ đứng cho các nền văn hóa quốc gia và có lẽ quan trọng hơn là tạo cơ hội cho khán giả tự nhận ra vai trò thành viên của mình trong cộng đồng dân tộc (Waisbord 2004: 372).

 Vấn đề “bản địa hóa” (glocalization) các chương trình truyền hình thực tế trên sóng HTV

Thuật ngữ “glocalization” vẫn chưa có từ tiếng Việt tương đương nên trong bài viết này chúng tôi xin đề xuất từ “bản địa hóa” mà một số tác giả đã dùng để chuyển ngữ khái niệm này trong việc thay đổi và bổ sung cho các định dạng THTT nhằm phù hợp với văn hóa Việt Nam. Trong khi nghiên cứu việc thay đổi và bổ sung này đối với các định dạng THTT được mua bản quyền để sản xuất và phát sóng trên HTV, với vai trò thẩm định, chỉnh lý và bằng phương pháp quan sát tham dự, chúng tôi nhận thấy các lưu ý về khác biệt văn hóa sau đây đóng vai trò chính trong quá trình bản địa hóa các phiên bản Việt Nam: ý thức tập thể đối lập với tự do cá nhân, tư tưởng dân chủ ở phương Đông khác với tư tưởng dân chủ kiểu phương Tây, quan điểm xem truyền hình là công cụ giáo dục định hướng hơn là phương tiện giải trí thuần túy, thái độ chia sẻ của cộng đồng với khó khăn của các cá nhân...

Hầu hết các chương trình THTT khi được bản địa hóa để sản xuất và phát sóng trên HTV ít nhiều đều có chú ý đến những khác biệt văn hóa vừa kể. Có thể dẫn chứng hàng loạt chương trình THTT được phát sóng trên HTV trong thời gian qua đã được “bản địa hóa” theo đúng xu thế của toàn cầu hóa và đáp ứng được yêu cầu định hướng của báo chí cách mạng Việt Nam. Sau đây là những trường hợp nổi bật khi một số chương trình THTT được bản địa hóa theo từng nội dung cụ thể.

* “Bản địa hóa” dựa trên ý thức về quyền lợi tập thể vượt lên trên tự do cá nhân

Một trong những giá trị văn hóa đặc trưng của các nước châu Á trong đó có Việt Nam, là “quyền lợi tập thể được đặt trên quyền lợi cá nhân, hỗ trợ nỗ lực tập thể cần thiết để phát triển nhanh” . Giá trị văn hóa truyền thống này của người Việt Nam được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc và đặc biệt được đặt làm tiêu chí xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng theo tinh thần nhiệm vụ thứ nhất trong phần II về phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, Nghị quyết lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) là “có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung”.

Xuất phát từ các nước phương Tây vốn có hệ tư tưởng dân chủ đề cao giá trị và quyền lợi của cá nhân, các định dạng THTT, nhất là các chương trình tìm kiếm tài năng như Pop Idol, X-Factor, The Voice, So you think you can dance… hay thử thách sức chịu đựng con người như Big Brother, The Survivor… đều hướng khán giả đến chủ nghĩa tự do cá nhân, đề cao giá trị bản thân, cổ vũ cho dân chủ kiểu phương Tây (thể hiện qua những lời nhận xét không khoan nhượng của giám khảo dành cho thí sinh và những đối đáp mang tính phản kháng của thí sinh khi bị nhận xét). Thế nhưng khi được du nhập vào các nước châu Á, những điểm nhấn này vốn tạo nên sức thu hút cho chương trình ở các nước phương Tây lại trở nên khá xa lạ với truyền thống văn hóa của phương Đông mặc dù có thể hấp dẫn những khán giả trẻ tuổi thường có tâm lý hướng ngoại và ham thích điều mới.

Riêng các chương trình THTT được mua bản quyền từ nước ngoài và phát sóng trên HTV7, vấn đề “bản địa hóa” được đặc biệt coi trọng bằng cách bổ sung thêm các đặc điểm văn hóa của người Việt Nam, trong đó ý thức về cộng đồng luôn được chú ý bên cạnh các yếu tố mang tính cá nhân thường thấy trong các chương trình THTT. Điển hình là chương trình “Hành trình kết nối những trái tim” (từ 2008) được phát sóng vào lúc 22g00 thứ ba hàng tuần trên HTV7. Đây là chương trình THTT dạng docu-soap (thể loại tường thuật người thật, việc thật kéo dài nhiều tập) được chuyển nhượng bản quyền từ hãng truyền hình Fuji, Nhật Bản. Format gốc của chương trình có tên Love bus tường thuật hành trình tìm kiếm tình yêu của các bạn trẻ đi chung một chuyến xe buýt ngang dọc khắp nước Nhật. Khi được giới thiệu để triển khai phiên bản Việt Nam, bộ phận thẩm định của HTV đã yêu cầu bổ sung thêm một nội dung vào chương trình về công tác từ thiện và giúp đỡ cộng đồng tại các địa phương mà chuyến xe có dịp đi qua. Ngoài mục đích đi tìm một trái tim để kết nối tình yêu nam nữ, các bạn trẻ còn có nhiều cơ hội để “kết nối trái tim” với tình yêu quê hương, đất nước và đồng bào, nhất là được thể hiện tình cảm với những địa phương và con người ở các vùng còn nhiều khó khăn.

Yếu tố bổ sung được bản địa hóa này đã thật sự tìm được sự đồng cảm nơi người tham dự và khán giả, tạo sức hấp dẫn cho chương trình. Bằng cách thu hút khán giả trẻ đến với chương trình, mục tiêu định hướng thẩm mỹ cho giới trẻ đã được lồng ghép một cách hài hòa với các yếu tố mang tính giải trí.

 * Bản địa hóa bằng sự thông cảm với những cá nhân vượt qua hoàn cảnh khó khăn để vươn lên

Khi được giới thiệu với khán giả Việt Nam vào năm 2005 trên HTV7, chương trình truyền hình thực tế Vượt lên chính mình ngay lập tức đã chiếm được tình cảm của đông đảo khán giả. Đây là một định dạng xuất phát từ Thái Lan với tên gọi tiếng Anh là Freedom (Tự do), được xây dựng nhằm tạo ra cơ hội cho các hộ gia đình nghèo có thể nhận được một khoản tài chính đủ để xóa nợ vay ngân hàng và được cấp thêm vốn để thoát khỏi cảnh nghèo và đổi đời. Điều kiện bắt buộc là họ phải chứng minh được nghị lực vượt khó và kỹ năng nghề nghiệp của mình thông qua những thử thách trong chương trình.

Thành công vượt trội của chương trình có được nhờ sự đóng góp không nhỏ của bản địa hóa mà việc đổi tên chương trình cho phù hợp với tâm lý và tình cảm của người Việt Nam là điểm then chốt. Nếu tên gọi “Tự do” là một khái niệm quá rộng có thể làm liên tưởng đến những điều nằm ngoài nội dung của chương trình và dễ làm cho người tham dự lẫn người xem có cảm giác người tham dự “được trả tự do” khi được xóa nợ, thì Vượt lên chính mình đã đặt vấn đề xóa nợ cho chính người tham dự chương trình phải giải quyết và do đó hoàn toàn có thể tự hào về nỗ lực của chính mình. Tên gọi Vượt lên chính mình đã trở thành một thành ngữ phổ biến trong xã hội khi đề cập đến những trường hợp vượt qua những trở ngại chủ quan từ bản thân để đạt được mục tiêu phấn đấu. Qua việc đặt tên tiếng Việt cho chương trình, văn hóa ứng xử “của cho không bằng cách cho” của người Việt Nam đã được vận dụng hết sức thành công trong việc bản địa hóa một định dạng THTT có nguồn gốc nước ngoài.

* “Bản địa hóa” bằng cách sử dụng các thể loại truyền hình ăn khách làm công cụ giáo dục định hướng

Theo ý kiến của chúng tôi, khi khán giả nhất là khán giả trẻ bị hấp dẫn bởi chương trình truyền hình thì đó là một dấu hiệu tốt, bởi vì khi họ bỏ thời gian xem truyền hình thì sẽ không tốn thời gian vào các phương tiện truyền thông khác nằm ngoài sự kiểm soát, hoặc những sinh hoạt không lành mạnh khác. Việc tận dụng các chương trình ăn khách để lồng váo đó các nội dung mang tính giáo dục thẩm mỹ, định hướng nhận thức là cách làm hiệu quả bên cạnh các chương trình mang tính giáo dục và định hướng truyền thống của ngành truyền hình Việt Nam.

Trong quá trình thẩm định format nước ngoài để tìm các yếu tố khả thi cho việc xây dựng định dạng Việt Nam, HTV rất chú trọng đến vấn đề này nên đã đạt được một số thành công nhất định trong việc phát sóng THTT so với mặt bằng chung của thể loại này tại Việt Nam. Ngay khi mùa thứ thất của chương trình “So you think you can dance - Thử thách cùng bước nhảy” lên sóng HTV7 vào năm 2012, công luận hầu như hoàn toàn đồng tình với cách làm của HTV và đánh giá đó là chương trình THTT hiếm hoi tại Việt Nam được “bản địa hóa” một cách thành công.

Chương trình "Thử thách cùng bước nhảy" (Ảnh: phunuonline.com.vn)

So với định dạng gốc, HTV đã yêu cầu nhà sản xuất đưa thêm vào chương trình những chi tiết chuyên môn để làm nổi bật bốn vấn đề: Một là các giám khảo chuyên môn sẽ nhiều lần nhắc tới tính nghệ thuật và sự lao động sáng tạo trong nghệ thuật múa, hai là các thí sinh sẽ tập trung trình bày quan điểm của mình theo hướng khẳng định con đường nghề nghiệp mình đã chọn và phấn đấu đạt đỉnh cao trong nghề nghiệp bằng đam mê nghệ thuật và lao động nghệ thuật chân chính; ba là nói không với bất cứ “chiêu trò” thu hút dư luận và bốn là thống nhất quan điểm không cay cú ăn thua trong thí sinh, loại bỏ tính từ “tài năng” ra khỏi danh hiệu quán quân và thay bằng tính từ “được yêu thích nhất”.

Nhận xét về chương trình, nhà báo Hồng Trang của Báo Nhân Dân đã viết: “Năm 2012, Thử thách cùng bước nhảy được xem là chương trình lặng lẽ nhất vì không có bất kỳ sự điều tiếng nào, nhưng cũng là chương trình được công chúng tán thưởng nhất. Người xem không chỉ cảm nhận được tình yêu, đam mê, lao động nghệ thuật của thí sinh, mà còn được theo dõi một cuộc chơi công bằng trên tinh thần cống hiến”.

* Đưa các nét riêng của Việt Nam vào các định dạng đã toàn cầu hóa

Nói theo cách khác, việc đưa các nét riêng của Việt Nam vào các định dạng đã toàn cầu hóa chính là làm cho yếu tố bản sắc nổi bật trên nền hiện đại của chương trình. Các bản sắc văn hóa được dịp thể hiện trong một cấu trúc chương trình hiện đại sẽ có cơ hội vươn ra khỏi tầm ảnh hưởng bản địa để đến với thế giới khi có điều kiện. Ở mùa thứ hai của So you think you can dance - Thử thách cùng bước nhảy, một lần nữa HTV đã yêu cầu nhà sản xuất bổ sung thêm, trong đó yêu cầu đưa các điệu múa dân gian Việt Nam vào chương trình thi đấu của các thí sinh.

Rõ ràng sự thay đổi theo kiểu “bản địa hóa” này đã gây được chú ý nơi các biên đạo nước ngoài. Họ hoàn toàn kinh ngạc trước sức cuốn hút từ sự mềm mại của các thí sinh nữ trên nền bản dân ca quan họ Bèo dạt mây trôi và phấn khích trước điệu Lý ngựa ô khi so sánh với Gangnam style của Hàn Quốc gây sốt thế giới trong năm 2012. Qua các chuyên gia quốc tế cộng tác sản xuất chương trình ở nhiều nơi, chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng về sự lan tỏa của bản sắc Việt Nam khi các định dạng THTT toàn cầu hóa được nâng cấp theo kiểu tổng hợp các yếu tố dị biệt sau khi nó đã đi qua nhiều nước khác nhau trên thế giới.

Thay lời kết

Truyền hình thực tế cũng là một sản phẩm của toàn cầu hóa khi nó có đầy đủ các yếu tố cấu thành từ công nghệ sản xuất, phương tiện quảng bá, phương thức kinh doanh, chuyển nhượng đến địa bàn tiêu thụ và tâm lý tiêu thụ. Những người ủng hộ toàn cầu hóa thì thấy ở THTT những cơ hội để làm phong phú làn sóng truyền hình Việt Nam, phục vụ nhu cầu thưởng thức văn hóa của khán giả ở cấp độ toàn cầu và khả năng giới thiệu bản sắc Việt Nam ra thế giới khi trình độ chế tác THTT của Việt Nam được nâng lên tầm cỡ quốc tế. Những người e ngại toàn cầu hóa thì chú ý đến những bất lợi mà THTT đem đến với lo lắng về một “chủ nghĩa đế quốc văn hóa” có thể làm xói mòn các giá trị văn hóa dân tộc.

THTT trên sóng truyền hình Việt Nam đang gây ra những cơn sốt về số lượng khán giả cũng như doanh thu quảng cáo nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ về làm lệch nhận thức thẩm mỹ cũng như ảnh hưởng không tốt đến văn hóa ứng xử trong giới trẻ. Tuy nhiên, sự phổ biến của THTT là một hiện thực tuân theo lô gic phát triển của ngành truyền hình mà dù muốn hay không chúng ta cũng phải chấp nhận để tận dụng những hệ quả tốt đẹp cũng như cùng nhau giải quyết những tồn tại do nó mang lại để xây dựng sự nghiệp truyền hình Việt Nam phát triển bền vững với những lợi ích thiết thực đem lại cho khán giả. Đài Truyền hình TP.HCM cũng đang góp phần vào sự nghiệp chung của các đất nước cùng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà các hoạt động “bản địa hóa” các chương trình THTT là một trong những trọng tâm hàng đầu.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Chí Bền, cb, (2010),Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Robertson, R. (1995), Glocalization: Time-Space and Homogenity - Heterogenity. In: M. Featherstone, S. M. Lash & R. Robertson, eds. Global     Modernities, Sage,  London 24-44.

3. Waisbord, S. (2004), McTV: Understanding the Global Popularity of  Television Formats, Television & New Media, 5(2), 359-383.

                                                                                                                Trương Văn Minh

Trưởng Ban Chương trình Đài Truyền hình TP.HCM (HTV)

Nguồn: Tạp chí Người làm báo

Giúp báo chí đưa tin chính xác

Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ có trách nhiệm để báo chí tiếp cận nguồn tin chính xác, đầy đủ nhất để có thông tin nhanh nhạy hơn.

Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son trả lời chất vấn vào chiều 20-11

Chiều 20-11, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (TT-TT) Nguyễn Bắc Son đã đăng đàn trả lời chất vấn về việc quản lý báo chí, các trang mạng và tăng cước 3G.

Đẩy mạnh thông tin cho báo chí

Nêu thực tế thông tin tràn ngập trên mạng và thiếu kiểm soát, đại biểu (ĐB) Nguyễn Thị Bích Nhiệm (Yên Bái) chất vấn: “Trang thông tin điện tử giật gân, câu khách xuất hiện nhiều, Bộ TT-TT có giải pháp gì?”.

Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son nhìn nhận trên mạng có nhiều thông tin chưa xác minh đầy đủ. Bộ TT-TT đã tham mưu cho Chính phủ ban hành các quy định để quản lý dịch vụ internet. Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son cho rằng khi phát hiện thông tin sai, đơn vị liên quan phải báo ngay cho cơ quan chức năng, đồng thời bác bỏ các thông tin sai trái đó. Cùng với đó, mỗi người phải có ý thức tự phòng tránh thông tin độc hại trên internet.

ĐB Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng) băn khoăn các vấn đề giải quyết tranh chấp dân sự ở địa phương, báo chí trong nước thường đưa tin chậm so với các trang mạng khiến dư luận đồn thổi. “Vì sao có hiện tượng đó, trách nhiệm và giải pháp của Bộ TT-TT?” - ĐB Vinh chất vấn.

Về việc này, Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son giải thích: “Các trang mạng đưa tin nhanh nhưng nội dung nhiều khi không chính xác. Những trang này chỉ nghe tin phong thanh là đưa ngay, trong khi báo chí phải xác định nguồn tin, bảo đảm chính xác nên mất nhiều thời gian hơn”. Theo Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son, thực tế còn do một số địa phương cũng chưa thực hiện đầy đủ quy định của Chính phủ về việc cung cấp thông tin cho báo chí từ người phát ngôn... “Đây là việc cũng cần khắc phục. Cần đẩy mạnh hơn nữa việc cung cấp thông tin chính thống cho báo chí” - Bộ trưởng Son đề nghị.

ĐB Lê Như Tiến (Quảng Trị) đặt vấn đề trách nhiệm của Bộ TT-TT trong quy hoạch mạng lưới báo chí và quan điểm của bộ trưởng đối với đề nghị sửa Luật Báo chí theo hướng quy định báo chí phải có trách nhiệm cung cấp nguồn tin cho cơ quan chức năng, Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son cho biết báo chí đã có nhiều đóng góp với đất nước nhưng cũng còn hạn chế. “Bộ sẽ có trách nhiệm để báo chí tiếp cận nguồn tin chính xác, đầy đủ nhất. Nhà báo cũng phải tiếp cận với việc phê phán mặt trái xã hội nhưng không nên đưa nhiều khiến tâm lý xã hội hoang mang. Cơ quan chủ quản báo chí cũng cần nêu cao vai trò, trách nhiệm của mình” - Bộ trưởng Bộ TT-TT nói.

Cước 3G tăng một phần vì OTT

Đi vào vấn đề mà người tiêu dùng chưa đồng tình trong thời gian qua là việc tăng cước 3G, ĐB Nguyễn Thanh Hải (Hòa Bình) đề nghị làm rõ: Cước 3G vừa tăng có phải là giải pháp chống thất thu của nhà mạng trước sự bùng nổ của OTT - dịch vụ điện thoại, nhắn tin miễn phí trên internet? Bộ trưởng Bộ TT-TT thừa nhận việc nhà mạng tăng cước 3G là phù hợp với quy định hiện hành như Luật Viễn thông, Luật Giá…

Theo Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son, trong một thời gian dài, các nhà mạng đã duy trì giá 3G tương đối thấp, chưa bằng 50% giá thành. Ngoài ra, việc tăng cước 3G còn phù hợp với lộ trình cam kết quốc tế của Việt Nam.

Chưa thỏa mãn với câu trả lời, ĐB Nguyễn Thanh Hải hỏi lại: “Việc tăng cước 3G có phải do sức ép OTT và việc tăng cước không cùng với nâng chất lượng?”. Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son giải thích: “ĐB hỏi có bị sức ép bởi OTT không thì xin nói là OTT đang “sống” trên hạ tầng các nhà mạng. Tuy nhiên, việc tăng cước 3G có một phần do OTT”. Ông Nguyễn Bắc Son cũng khẳng định hiện chất lượng 3G chưa cao và mới đầu tư khoảng 2 tỉ USD, vì thế sắp tới đây tăng giá cước để tạo điều kiện đầu tư hạ tầng nhằm nâng chất lượng.

ĐB Trần Quốc Tuấn (Trà Vinh) và Nguyễn Ngọc Phương (Quảng Bình) cùng đặt câu hỏi về trách nhiệm của Bộ TT-TT cũng như giải pháp đối với sim rác, tin nhắn rác. Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son cho biết tin nhắn rác, thư rác là quảng cáo siêu lợi nhuận. Đối với các nguồn phát tán từ internet, Bộ TT-TT đã phối hợp với các nhà mạng và đã quản lý được. Bộ cũng đã xử phạt các nhà cung cấp nội dung. Đồng thời, bộ có chỉ thị yêu cầu các nhà mạng bán sim phải kê khai thông tin cá nhân và không được bán sim kèm tài khoản có khuyến mãi lớn để người tiêu dùng “thay vì mua thẻ thì mua sim rác”…

Bài và ảnh: Thế Dũng

Nguồn tin: Theo nld.com.vn

Một bức ảnh xúc động của Việt Nam đoạt giải Nhất ảnh quốc tế

Năm 2013 thực sự là một năm thắng lợi của nhiếp ảnh Việt Nam ở nhiều cuộc thi, với nhiều đề tài.

Nhiếp ảnh gia Trương Minh Điền đã vượt qua các nhiếp ảnh gia từ 91 quốc gia trên thế giới và giành giải Nhất cuộc thi Ảnh CGAP 2013 với tác phẩm gây xúc động lòng người “Chiều mưa”.

"Chiều mưa" - Trương Minh Điền"

Bức ảnh “Chiều mưa” được hội đồng ban giám khảo gồm 4 thành viên chọn từ 3.890 bức ảnh được các nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp và nghiệp dư từ 91 quốc gia gửi đến.

Bức ảnh mô tả một phụ nữ mang khoai ra chợ bán trong một cơn mưa lớn. Số tiền bán khoai này giúp đóng góp sinh kế cho cuộc sống gia đình gồm chồng và hai con của chị.

Ban giám khảo đánh giá cao bức “Chiều mưa” của Trương Minh Điền bởi cách thể hiện đầy suy tư về sự bền bỉ dễ thích ứng của những hộ kinh doanh thu nhập thấp tại Việt Nam. Ngoài câu chuyện lôi cuốn, bức ảnh cũng được đánh giá có kỹ thuật hoàn hảo.

Người chiến thắng được tặng phần thưởng trị giá 2.000 USD.

Bức "Người giấy" của nhiếp ảnh gia Md Farhad Rahman (Băng-la-đét), mô tả một người đàn ông kiếm sống hàng ngày bằng việc bán báo ở ga tàu, đã đoạt giải nhì.

"Người giấy" - Md Farhad Rahman (Băng-la-đét)

Trong khi đó "Hai đường cong" của nhiếp ảnh gia người Mali, Chi Keung Wong, đã đoạt giải ba nhờ mô tả thành công hai người đàn ông làm việc tại chợ đầu mối gạo Bamako.

"Hai đường cong" - Chi Keung Wong (Mali)

Bức “Nesma tài giỏi” của Mohamad Gouda từ Ai Cập đoạt giải Lựa chọn của công chúng. Bức ảnh  mô tả một phụ nữ dùng tiền vay từ nguồn tín dụng vi mô khởi tạo một doanh nghiệp vẽ tranh và thêu đã được công chúng lựa chọn. Bức ảnh được 1.236 phiếu chọn, hơn tác phẩm đứng sau nó gần 400 phiếu.

“Nesma tài giỏi” - Mohamad Gouda (Ai Cập)

Ban giám khảo cũng chọn các tác phẩm khác để trao giải khu vực, giải đặc biệt, dựa trên các tiêu chí về kỹ thuật, nội dung và nghệ thuật về chủ đề hỗ trợ tài chính. Bức “Công nhân làm gạch” của Moksumul Haque gửi đến từ Băng-la-đét đã đoạt giải khu vực Nam Á cũng là một điểm đáng chú ý. Bức ảnh chụp những viên gạch được ném trong không trung buộc người xem tự hỏi điều gì đã xảy ra ngay sau khi bức ảnh được chụp.

“Công nhân làm gạch” - Moksumul Haque (Băng-la-đét)

Một số bức ảnh lọt vào vòng chung khảo:

"Ta-lông mới" - Pauline Opmeer (Tanzania)
"Đời vàng" - Võ Chí Trung (Việt Nam)
"Tiệm sửa giầy" - Bulent Suberk (Thổ Nhĩ Kỳ)
"Nụ cười" - Oddvar Paulsen (Uganda)
"Người bán trứng rong" - Danilo Victoriano Jr. (Philppines)
"Ngày mới, lưới mới" - Trần Bảo Hòa (Việt Nam)
"Vẫy chào hạnh phúc" - Roger Alfonso (Thái Lan)

Đây là cuộc thi ảnh hàng năm do cơ quan CGAP (Consultative Group To Assist The Poor) tổ chức nhằm vinh danh các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp và nghiệp dư, những người đã mô tả và thể hiện được sự hỗ trợ tài chính trên toàn thế giới bằng nghệ thuật nhiếp ảnh.

CGAP đã thể hiện những cách thức khác nhau về quản lý tài chính của các hộ nghèo và cách thức mà những hỗ trợ tài chính này giúp nâng cao cuộc sống cho nhóm dân cư thu nhập thấp nhất trong nền kinh tế.

 Thảo Nguyên

 Nguồn: dantri.com.vn

Tạp chí Ấn Độ ra số đặc biệt về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ

Theo phóng viên TTXVN tại New Deli, nhân chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Ấn Độ (từ ngày 19-22/11/2013), tạp chí NAM TODAY của nước này vừa phát hành số đặc biệt, gồm 32 trang ruột và bốn trang bìa màu rất ấn tượng.

Bìa tạp chí NAM TODAY đăng nổi bật về chuyến thăm của Tổng Bí thư. (Ảnh: Minh Lý/Vietnam+)

Mặt trước của trang bìa đăng nổi bật quốc kỳ hai nước Việt Nam - Ấn Độ, dưới có tựa đề “Kỷ niệm 6 năm Đối tác chiến lược Ấn-Việt và tăng cường quan hệ Việt - Ấn,” cùng ảnh Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bắt tay Chủ tịch Hạ nghị viện Ấn Độ Meira Kumar trong chuyến thăm Ấn Độ năm 2010 trên cương vị Chủ tịch Quốc hội; mặt sau và mặt trong của các trang bìa đăng một số ảnh của các vị lãnh đạo cấp cao nước ta và Ấn Độ qua các chuyến thăm.

Sau lời mở đầu của Tổng biên tập Pramoda Patel; các trang tiếp theo đã giới thiệu tiểu sử của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; đăng toàn văn bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tân Dũng tại Đối thoại Shangri La hồi tháng 6 năm 2013; bài phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh về “Tăng cường quan hệ Việt Nam-Ấn Độ vì hòa bình và thịnh vượng tại Thái Bình Dương-Ấn Độ Dương” tại Hội đồng Ấn Độ về các vấn đề thế giới (ICWA) ở New Delhi hồi tháng 7;

Bài trả lời phỏng vấn phóng viên TTXVN tại New Delhi của Tham tán thương mại Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ Nguyễn Sơn Hà về “trụ cột kinh tế-thương mại trong Đối tác chiến lược Ấn - Việt;” cùng các bài viết của các học giả, nghị sỹ Quốc hội Ấn Độ về quan hệ hợp tác Ấn-Việt, như nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa của Việt Nam; Việt Nam trong chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ…cùng nhiều ảnh màu về phong cảnh đất nước con người Việt Nam.

Trong lời mở đầu với tiêu về “Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam và những vấn đề khu vực”, bà Pramoda Patel viết “Chúng tôi ra số đặc biệt NAM TODAY để kỷ niệm 6 năm quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam-Ấn Độ và trước thềm chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chúng tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng chuyến thăm Ấn Độ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ mở thêm một chương mới trong biên niên sử của quan hệ song phương Ấn-Việt./.

Nguồn: Theo vietnamplus.vn

Phạt đến 20 triệu đồng nếu xúc phạm danh dự, nhân phẩm nhà báo

(ICTPress) - Thủ tướng Chính phủ vừa ký ban hành Nghị định số 159/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản.

Ảnh: T. Hải

Phạt đến 20 triệu đồng xúc phạm nhân phẩm nhà báo

Theo Điều 6 của Nghị định cho biết sẽ phạt tiền từ 5 - 10 triệu đồng đối với mạo danh nhà báo, phóng viên để hoạt động báo chí; Lợi dụng tư cách nhà báo, phóng viên can thiệp, cản trở hoạt động đúng pháp luật, của tổ chức cá nhân và đối với hành vi lợi dụng tư cách nhà báo, phóng viên để trục lợi.  

Điều 7 của Nghị định cũng quy định phạt đối với các hành vi cản trở trái pháp luật hoạt động báo chí sẽ phạt tiền từ 5 - 10 triệu đồng đối với hành vi cản trở trái pháp luật hoạt động nghề nghiệp của nhà báo, phóng viên. Đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phóng viên khi đang hoạt động nghề nghiệp Nghị định sẽ xử phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng.

Phạt tiền từ 20 - 30 triệu đồng đối với một trong các hành vi: uy hiếp tính mạng nhà báo, phóng viên; hủy hoại, cố ý làm hư hỏng phương tiện, tài liệu hoạt động báo chí của nhà báo, phóng viên; Thu giữ trái phép phương tiện, tài liệu hoạt động báo chí của nhà báo; phóng viên.

Điều 9 của Nghị định nêu quy định về việc vi phạm quy định về cung cấp thông tin cho báo chí và sử dụng thông tin của cơ quan báo chí. Phạt từ 200 đến 500 nghìn đồng đối với việc cản trở việc cung cấp thông tin cho báo chí của tổ chức, cá nhân; Không thực hiện phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí theo quy định; Thực hiện không đúng các quy định về đăng, phát lời phát biểu của tổ chức, cá nhân có liên quan đến tác phẩm báo chí.

Đối với việc thể hiện sai ý của người trả lời phỏng vấn trên báo chí hoặc không đúng nội dung thông tin do người phát ngôn của cơ quan hành chính nhà nước cung cấp; không thực hiện yêu cầu xem lại nội dung trả lời phỏng vấn của người trả lời phỏng vấn trước khi đăng, phát nội dung trả lời phỏng vấn trên báo chí sẽ bị phạt từ 3 - 5 triệu đồng.

Không viện dẫn nguồn tin phạt từ 200 - 500.000 đồng

Cụ thể, phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200 - 500.00 đồng đối với một trong các hành vi: Không viện dẫn nguồn tin hoặc viện dẫn sai nguồn tin khi đăng, phát trên báo chí; không ghi rõ họ, tên thật hoặc bút danh của tác giả, nhóm tác giả của tin, bài khi sử dụng để đăng, phát trên báo chí; sử dụng tin, bài để đăng, phát trên báo chí nhưng không biết rõ tên thật, địa chỉ của tác giả, nhóm tác giả.

Đối với một trong các hành vi: Đăng, phát thông tin sai sự thật nhưng chưa gây ảnh hưởng nghiêm trọng; minh họa, rút tít không phù hợp nội dung thông tin làm cho người đọc hiểu sai nội dung thông tin; tiết lộ bí mật đời tư khi chưa được sự đồng ý của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; công bố tài liệu, thư riêng của cá nhân khi chưa được sự đồng ý của chủ sở hữu hợp pháp tài liệu, bức thư đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; đăng, phát ảnh của cá nhân mà không được sự đồng ý của người đó, trừ các trường hợp pháp luật có quy định khác thì sẽ bị phạt tiền từ 1 - 3 triệu đồng.

Phạt đến 20 triệu đồng nếu đăng, phát bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia

Theo Điều 8, đăng, phát bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia; đăng, phát thông tin xuyên tạc, vu khống nhằm xúc phạm danh dự, uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì sẽ bị phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng.

Phạt nặng hành vi phát thông tin gây hại đến lợi ích quốc gia

Nghị định nêu rõ sẽ phạt tiền từ 5 - 10 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau đây: Đăng, phát thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng nghiêm trọng; miêu tả tỷ mỉ hành động dâm ô, chém, giết, tai nạn rùng rợn trong các tin, bài, ảnh; đăng, phát tin, bài, ảnh kích dâm, khoả thân, hở thân thiếu thẩm mỹ, không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam; đăng, phát thông tin truyền bá hủ tục, mê tín, dị đoan..

Đối với một trong các hành vi: Đăng, phát các tác phẩm đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu; đăng, phát thông tin gây phương hại đến lợi ích quốc gia hoặc gây mất đoàn kết dân tộc thì sẽ bị phạt tiền từ 70 - 100 triệu đồng.

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2014.

Mai Nguyễn