Syndicate content

Nghề báo

Truyền thông đại chúng, doanh nhân và văn hóa dân tộc thời kỳ đất nước hội nhập, phát triển

Tóm tắt: 

Trong bài viết này, tác giả muốn bàn về một vấn đề cụ thể là làm thế nào để doanh nhân phát huy vai trò, trách nhiệm của mình hơn nữa đối với văn hóa dân tộc khi bối cảnh hội nhập, sự giao lưu văn hóa, truyền thông quốc tế diễn ra mạnh mẽ.

Có thể nói văn hoá, truyền thông đại chúng (TTĐC) và kinh doanh - thương mại là các lĩnh vực có những điểm giao thoa, tương tác mật thiết, liên hệ qua lại với nhau, nhất là trong thời kỳ diễn ra sôi động sự giao thoa các nền văn hóa (Cross Culture) cùng sự lai ghép - hỗn dung văn hóa quốc tế (Cultural Hybridization) và toàn cầu hóa về truyền thông (Global Media) hiện nay và sắp tới...

Trong bài viết này, tác giả muốn bàn về một vấn đề cụ thể là làm thế nào để doanh nhân phát huy vai trò, trách nhiệm của mình hơn nữa đối với văn hóa dân tộc khi bối cảnh hội nhập, sự giao lưu văn hóa, truyền thông quốc tế diễn ra mạnh mẽ. 

1. Các khái niệm liên quan đến chủ đề:

1.1. Khái niệm về văn hóa:

Các sách báo, tài liệu, giáo trình đã trình bày nhiều định nghĩa về văn hoá, tuy nhiên trong phần này, tôi vẫn muốn hệ thống, sắp xếp lại một số định nghĩa chính cho đầy đủ, khoa học. Nếu theo nghĩa hẹp, văn hóa thường được hiểu như một lĩnh vực của hoạt động về sinh hoạt xã hội gồm các hoạt động văn hóa nghệ thuật, TTĐC (báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình...), thư viện, câu lạc bộ, bảo tồn bảo tàng v.v..., còn nếu theo nghĩa rộng, nói một cách giản đơn, văn hóa là tất cả những gì không phải là thiên nhiên; là tất cả những gì sáng tạo có giá trị do con người làm ra, ở trong đời sống xã hội con người và liên quan trực tiếp nhất đến con người, chứa đựng chân, thiện, mỹ, tiến bộ, phát triển bền vững.

Theo các quan niệm hiện đại (có khoảng hơn 300 định nghĩa) thì văn hoá được hiểu theo các nội dung chính như sau:

a. Định nghĩa văn hoá bắt nguồn từ nông nghiệp: Gốc danh từ chữ latinh “Cultura” đầu tiên có nghĩa hẹp là cày cấy, gieo trồng, chăm bón được dùng để chỉ khái niệm văn hoá, sau mở rộng thành ý nghĩa vun xới hoạt động tinh thần, sự hiểu biết, kiến thức, kinh nghiệm tích lũy (trình độ phát triển vật chất, tính thần) trong quá trình phát triển của mỗi cộng đồng và các thành viên của mình).

b. Định nghĩa so sánh văn hoá tự nhiên: Văn hoá là “thiên nhiên thứ hai” thể hiện một trình độ phát triển nhất định của sự tồn tại con người trong lịch sử của mình trên trái đất này. Nói cách khác, con người càng tạo ra được các sản phẩm tốt đẹp, nghệ thuật, ưa nhìn, càng đa dạng, khả dụng, tiến bộ so với tự nhiên bao nhiêu mà không làm hại môi trường tự nhiên thì càng văn hóa bấy nhiêu (Ví dụ quá trình tạo ra quạt: Quạt mo cau, quạt nan, quạt giấy, quạt điện...).

c. Định nghĩa coi văn hoá là hệ thống các giá trị vật chất tinh thần, tức là coi văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động lao động sáng tạo - toàn bộ những giá trị mà con người sáng tạo nên để thoả mãn nhu cầu của chính mình (Dĩ nhiên phải đáp ứng các tiêu chí nhất định về tính sáng tạo, sự tiến bộ và sự tỏa sáng của kiến thức).

Theo cách này thì không chỉ các tin tức văn hoá, tri thức mà con người tiếp nhận qua các phương tiện TTĐC là văn hoá mà bản thân đài truyền hình cao chọc trời, máy tính điện tử, cấu trúc đẹp đẽ hiện đại một toà soạn báo nổi tiếng đều là văn hoá...

Trong phần định nghĩa, có thể nêu thêm các chi tiết sau:

- Tại phương Đông, từ văn hóa có gốc từ chữ Hán. Quẻ Bí trong Chu Dịch nói: "Quan sát dáng vẻ con người để giáo hóa thiên hạ" (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ). Lưu Hướng (khoảng năm 77 đến năm 6 Tr CN) đời Tây Hán là người sử dụng từ văn hóa sớm nhất. Cho đến tận thế kỷ XIX, ở Trung Quốc vẫn hiểu văn hóa là văn trị giáo hóa, là giáo dục, cảm hóa bằng điển chương, lễ nhạc. Sau này Trung Quốc cũng tiếp thu các khái niệm cách tân của thế giới ví dụ như tiếp thu khái niệm từ văn hóa chuyển dịch qua tiếng Nhật từ thế kỷ XIX. Người Nhật dịch chữ “culture” của châu Âu đọc là Bunka, còn Trung Quốc căn cứ thêm cách hiểu truyền thống mà dịch là văn hóa.

 - Tại phương Tây, từ văn hóa bắt nguồn  từ chữ latinh như nói ở trên. Từ đó sau này có từ culture (tiếng Anh, tiếng Pháp), Kultur (tiếng Đức), Kultura (tiếng Nga).

Như vậy, rõ ràng ngay từ khái niệm- thuật ngữ “văn hóa” đã bao hàm nhiều ý nghĩa gắn với vun xới, sản xuất, sáng tạo, giao lưu, tiến bộ…, tức là quan hệ rất hữu cơ với cả giới doanh nghiệp (DN) và TTĐC.   

 1. 2. TTĐC, văn hóa và văn hóa dân tộc:   

Truyền thông, các phương tiện thông tin đại chúng là những thuật ngữ, hiện tượng đa nghĩa, biểu đạt sự tiến bộ, văn hóa, văn minh của nhân loại.

Trước hết truyền thông ra đời và phát triển do nhu cầu khách quan của xã hội về thông tin giao tiếp. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu thông tin giao tiếp càng tăng lên. Những bước tiến trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội lại trở thành điều kiện cho thông tin giao tiếp, đồng thời đòi hỏi phải tăng cường phát triển thông tin giao tiếp... Tuy nhiên, không phải có nhu cầu thông tin giao tiếp là xuất hiện quá trình TTĐC và các phương tiện thông tin đại chúng (như cách nói hiện nay) ngay lập tức, mà chỉ khi nhu cầu thông tin trong xã hội tiến đến một trình độ nhất định thì hoạt động TTĐC mới có điều kiện ra đời, tức là phải cần tới yếu tố trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Ví dụ báo viết chỉ ra đời khi công nghệ in xuất hiện và sau này các kỹ thuật về vô tuyến điện, đèn hình, mạch vi điện tử, con chip... phát triển thì con người mới có phát thanh truyền hình; khi có máy tính điện tử, Internet mới xuất hiện báo trực tuyến... Như vậy trình độ văn hoá xã hội, kinh tế, khoa học- công nghệ đã tác động mạnh đến sự vận động, phát triển của truyền thông đại chúng và ngày nay người ta còn nói đến truyền thông đa phương tiện, xa lộ thông tin, công nghệ thông tin (IT), kinh tế tri thức, văn hóa doanh nhân thời kỹ thuật số, bảo vệ văn hóa dân tộc khi sự đụng độ giữa các nền văn minh xảy ra...

Tóm lại, nếu nghiên cứu văn hóa theo nghĩa rộng và xét nó trong mối quan hệ với truyền thông, giao tiếp của thời đại mới thì một số chuyên gia nghiên cứu về Văn hóa và Truyền thông có lý khi cho rằng: Văn hóa là một hệ thống nhằm sáng tạo, chuyển giao, lưu trữ và chế biến thông tin. Sợi chỉ xuyên suốt tất cả các nền văn hóa là truyền thông và giao tiếp. (Xem thêm “Mass Media Mass Culture”, Tác giả: James Wilson, Stan Le Roy Wilson, NXB McGraw-Hill, Inc. Copyright 1998). Tôi muốn bổ sung về nghĩa hẹp hơn: Văn hóa dân tộc là những sáng tạo có giá trị chân, thiện, mỹ, tiến bộ của một dân tộc được lưu truyền từ đời này sang đời khác; thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại; là lĩnh vực sản xuất - dịch vụ đặc biệt, có thể giao lưu - truyền phát, liên quan đến sự thưởng thức, giải trí, thụ hưởng của đời sống tinh thần. Như vậy, văn hóa dân tộc đụng chạm đến mọi tầng lớp công chúng nói chung và giới DN nói riêng, nhất là vì DN làm nên xương sống của nền kinh tế mỗi quốc gia. C. Mác từng chỉ rõ: “Trong trạng thái văn minh, mỗi người đều là thương gia, còn xã hội là một xã hội thương nghiệp” (Xem “Bản thảo Kinh tế triết học 1884”, NXB Sự thật 1962, tr 172).  Chính vì thế, có thể nói thêm rằng: Văn hóa dân tộc làm nên thế đứng và con đường phát triển của mỗi dân tộc trong cộng đồng quốc tế. Văn hóa dân tộc tạo nên diện mạo, sắc thái riêng cho nhà DN tầm cỡ quốc gia. Tóm lại, trong thời đại mới - khi TTĐC ngày càng hiện đại, kinh tế tri thức đi lên thì văn hóa dân tộc sẽ mang ý nghĩa đặc biệt, bởi càng hội nhập thì nét đặc sắc, độc đáo của văn hóa mỗi dân tộc mới là cái để phân biệt sự phong phú, khác nhau của các nền văn hóa. Một trong những động lực phát triển xã hội loài người là nền sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, lưu thông của cải vật chất của tầng lớp doanh nhân. Nhưng thời đại mới đòi hỏi doanh nhân phải ứng xử đúng đắn, đúng đạo với văn hóa dân tộc thì họ mới có căn cước văn hóa, có cái riêng, để đua tranh hiệu quả với thế giới.  Thử hỏi rằng những yếu tố sau đây có cái nào tách rời hẳn khỏi cái nôi văn hóa dân tộc đã nuôi dưỡng doanh nhân: Đó là các tài sản vô hình như uy tín, bí quyết kinh doanh, đạo làm giàu, văn hóa ứng xử, thương hiệu, khả năng xử lý thông tin và giao tiếp với giới truyền thông, công việc từ thiện đối với xã hội (kể cả sự tham gia xây dựng, bảo toàn, phát triển các công trình văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc), các sở thích (hobby), đạo đức kinh doanh…

2. Vai trò quảng bá, hoàn thiện, thúc đẩy văn hóa dân tộc thấm sâu vào tư duy, tâm hồn, hành động doanh nhân của TTĐC ngày nay:

2.1. Doanh nhân Việt Nam kế thừa tinh hoa văn hóa phương Đông và truyền thống văn hóa Việt Nam: 

Trước hết, khi chưa có các phương tiện thông tin đại chúng theo nghĩa hiện đại, thì người xưa trao đổi, tiếp nhận, xử lý, lưu giữ, truyền phát thông tin, tri thức bằng những phương tiện, hình thức khá đơn giản (Ví dụ hình thức truyền miệng; sách in trên tre, trúc, da thuộc…). Mặc dầu cũng nên nói rõ rằng: do nhiều lý do nên xã hội Việt Nam trước đây không trọng thương nhân, dù nước ta có hơn 3000 km bờ biển mà tiếc thay chẳng có nổi một đội thương thuyền để giao thương mạnh mẽ với quốc tế nhằm phát triển quốc gia và có tầm nhìn rộng lớn trong hội nhập, phát triển. Tuy nhiên, thời nào thì doanh nhân Việt Nam cũng tồn tại và có vai trò nhất định trong đời sống. Trong các tác phẩm truyền miệng, ca dao tục ngữ, nghề thương mại được đề cập rất sớm. Có những triết lý mang đậm tính văn hóa Việt Nam ngày nay vẫn mang tính thời thời sự: “Buôn có bạn, bán có phường”, “Ăn lãi tùy chốn, bán vốn tùy nơi”, “Nhà buôn phải khác con buôn. Doanh nhân chuyên nghiệp cậy nguồn nhân văn”; “Doanh gia vì văn hóa đất nước, phước lộc trường tồn”; “Thương gia thấm văn hóa cội nguồn, không lo buồn khi lỡ vận”; “Sản vật chuyên văn hóa dân tộc, lộc tài lắm, tắm nắng phương trời xa”...v.v. Thời Lê- Trịnh, Lê Quý Đôn (1726- 1784) đã nhìn nhận rõ giá trị doanh nhân và thương mại trong mối tương quan của hệ thống chỉnh thể văn hóa- xã hội. Ông cho rằng: “Phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng, phi công bất phú, phi nông bất ổn” v.v.

Nhưng phải tới nhà nho yêu nước Lương Văn Can (1854- 1927), lý luận về thương mại, kể cả những luận điểm đề cập đến quan hệ văn hóa dân tộc với kinh doanh mới được nhà trí thức duy tân - Hiệu trưởng trường Đông kinh nghĩa thục, viết thành sách có hệ thống, đưa lên tầm cao mới. Có thể coi cuốn “Thương học phương châm” của ông là cuốn giáo khoa bài bản đầu tiên của Việt Nam về các chủ đề thương mại vừa nêu.

Trên thực tế, có những tiêu chuẩn về đạo làm giàu, gắn kết với văn hóa nước nhà đến nay vẫn nguyên giá trị: Người doanh nhân không được quên gốc rễ văn hóa của mình; Không được ly gián, kết bè đảng để hại người (đối tác, khách hàng, đồng nghiệp); Không được u mê vướng vào tửu sắc; Không được áp chế, quản người khác, nhất là khi họ tài đức, tầm văn hóa hơn mình; Phải kiên định giữ niềm tin vào chân, thiện, mỹ, nhân văn đến cùng. Đối xử với đối tác, khách hàng phải chú ý: Đến phải nghênh tiếp; Đi phải tiễn đưa; Ăn phải thỏa thích; Ngủ phải thoải mái; Rời phải quay lại; Mời chào phải thể hiện được bản sắc riêng, hấp lực của văn hóa dân tộc mình. 

2.2. Vai trò quảng bá, hoàn thiện, thúc đẩy văn hóa dân tộc thấm sâu vào tư duy, tâm hồn, hành động doanh nhân của TTĐC ngày nay:

Trong xã hội hiện đại, thật khó hình dung sự không có mặt của sách, báo, đài, Internet, điện ảnh, quảng cáo, quan hệ công chúng (PR). Nhờ có chúng, thông qua chúng các vấn đề cốt tủy của doanh nhân như quảng cáo sản phẩm, thông tin thị trường, tìm đối tác, ký hợp đồng thương vụ qua thư điện tử, mua - bán hàng qua mạng được giải quyết nhanh chóng, hiệu quả. Đồng thời, các vấn đề thông dụng như quảng cáo có văn hóa - không vi phạm thuần phong mỹ tục dân tộc, nhân cách- bản lĩnh doanh nhân, vấn đề then chốt như vai trò doanh nhân trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông, được nhiều tầng lớp xã hội quan tâm và có tác động nhất định đến quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, kinh tế - xã hội quốc gia…v.v. 

Có thể tóm tắt vai trò chính của TTĐC đối với doanh nhân trong lĩnh vực văn hóa dân tộc là:

+ Mở rộng đường dư luận rộng rãi về việc kế thừa, tiếp nối những yếu tố tích cực, phát triển những điểm vượt trội của văn hóa dân tộc; loại bỏ những những yếu tố không còn hợp thời, cản trở sự phát triển của chính văn hóa và kinh tế xã hội của văn hóa dân tộc để từ đó thống nhất quan niệm, thống nhất nhận thức toàn xã hội, kể cả nhận thức của giới kinh doanh. 

+ Tổ chức thường xuyên trao đổi, đối thoại giữa các doanh nhân với nhau, giữa các tầng lớp khác với doanh nhân và chuyên gia để người DN ngày càng thấy rõ mục tiêu, động lực của văn hóa dân tộc đối với đạo làm giàu, nghĩa vụ, trách nhiệm DN đối với văn hóa cội nguyền (Ví dụ trao đổi trên các chuyên mục của truyền hình, báo chí, Internet);

+ Thông qua báo, đài, Internet… doanh nhân có thể học hỏi, đối sánh với các tiêu chuẩn văn hóa có tính phổ quát quốc tế để chủ động giữ vững bản sắc văn hóa Việt nam trong ứng xử, thương thuyết, giao dịch kinh doanh nhất là khi nước ta đã tham gia WTO, hội nhập đầy đủ, toàn diện với thế giới.

+ Sự phát triển TTĐC và giao lưu quốc tế giúp công chúng Việt Nam (gồm cả DN) có nhiều dữ liệu; thông tin phong phú, nhiều chiều, dân chủ hóa trong quá trình gắn bó; phát triển văn hóa nước nhà - làm phông, nền, chỗ dựa tinh thần vững chắc cho doanh nhân dân tộc;

+ TTĐC tạo dư luận rộng rãi, thúc đẩy nhiều đối tượng- không chỉ doanh nhân mà nhà nước, xã hội cùng có trách nhiệm vun đắp, phát triển văn hóa dân tộc đúng hướng, có bản sắc riêng, có tầm cao, trường tồn;

+ Từ một số doanh nhân tiên phong trong việc vun đắp, bảo tồn, xây dựng văn hóa dân tộc được TTĐC quảng bá sẽ có ngày càng nhiều doanh nhân hiểu rõ ý nghĩa thiết thực. Truyền thông định hướng dư luận và như tiếng gọi từ trái tim, thúc giục mọi doanh nhân góp phần tham gia làm đẹp hình ảnh văn hóa quốc gia - dân tộc;

+ Ngoài ra, TTĐC khi góp ý, phê pháp sự thờ ơ, tha hóa, vô trách nhiệm của một số doanh nhân đối với văn hóa nước nhà sẽ là tiếng nói cảnh tỉnh, răn đe giáo dục…

Tóm lại, với các chức năng tư tưởng, giáo dục, tổ chức, kiểm tra - giám sát, dự báo, giải trí, thẩm mỹ, quảng cáo- tiếp thị, quan hệ công chúng (PR), các phương tiện TTĐC có vai trò to lớn trong việc quảng bá, hoàn thiện, thúc đẩy văn hóa dân tộc thấm sâu vào tư duy, tâm hồn, hành động doanh nhân, giúp họ vững bước, có mục tiêu, lý tưởng trên con đường làm giàu chân chính, cạnh tranh được với các đối tác đến từ các nền văn hóa khác trên thế giới.

3. Những đề xuất đối với DN, nhà nước, cơ quan TTĐC nhằm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc:

+ Vì văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, nên trong các chiến lược có tính tổng thể của quốc gia, tại các phần liên quan đến văn hóa, DN, cần quy hoạch rõ trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ của DN đối với sự phát triển văn hóa dân tộc, nhất là khi vai trò DN nước ta ngày càng lớn, được trao nhiều nhiệm vụ xứng với tầm vóc.

+ Trong giai đoạn hiện nay và sắp tới, DN Việt Nam có nhiều cơ hội mở rộng quy mô, tầm hạn sản xuất - dịch vụ; việc quan hệ, đi ra thị trường thế giới, làm việc với đối tác quốc tế sẽ nhiều hơn, nên cần tích cực hơn, bài bản hơn trong hoạt động giới thiệu văn hóa dân tộc ta ra nước ngoài. Đó vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi, vừa là việc nên làm của họ.  

+ Nhà nước cần cơ chế tạo được sự chủ động trong liên kết giữa các hình thức: nhà nước, doanh nhân, các thành phần chủ sở hữu khác để đầu tư cho văn hóa dân tộc. Có thể đầu tư những lĩnh vực thuần về văn hóa dân tộc nhưng phi lợi nhuận, lại có thể đầu tư có lợi nhuận nhưng kết hợp chặt chẽ giữa văn hóa dân tộc với du lịch, phát triển bền vững… DN cần hiểu rằng: đầu tư cho văn hóa dân tộc cũng chính là quảng cáo thương hiệu DN cho số đông công chúng sẽ sử dụng sản phẩm hàng hóa DN đó. Các DN hãy mạnh dạn làm các “Mạnh Thường quân” tài trợ cho các chương trình văn hóa, văn nghệ, ca múa nhạc trên đài truyền hình; tài trợ cho các giải thi đấu thể thao, các chương trình, sự kiện của văn hóa dân tộc; tài trợ cho việc nghiên cứu, xuất bản, phát hành các công trình văn hóa dân tộc. 

+ Các báo, đài, phương tiện TTĐC cần cổ súy, biểu dương kịp thời vai trò nòng cốt, đầu tàu của những doanh gia trong, ngoài nước có tầm nhìn, giàu nhiệt huyết đã đóng góp tài chính, công sức phục hồi, nuôi dưỡng, phát triển, quảng bá các hình thức sáng tạo của văn hóa dân tộc như: Hát tuồng, chèo, cải lương; bảo tồn nét văn hóa phổ cổ Hà Nội và các di tích văn hóa của các đô thị khắp đất nước; các lễ hội văn hóa truyền thống… Cần chú ý giữ được nguyên bản tinh túy các loại hình văn hóa dân tộc, tránh sự sân khấu - kịch hóa một số loại hình; có thể dùng chất liệu vải vóc, trang phục thật tốt, thật đẹp nhưng phục chế đúng với thời gian, con người, văn hóa gốc rễ. Mặt khác, báo đài phải tiếp tục phê phán, đấu tranh với những biểu hiện tha hóa, đi ngược lại truyền thống văn hóa dân tộc của một số DN (DN nhà nước và tư nhân đánh bạc, tham ô, DN bán thầu trao tay để các công trình công cộng bị ảnh hưởng, DN có lối sống trái đạo đức như các vụ PMU18, Công ty ISA, nhóm DN bị bắt ở khách sạn Tam Đảo…). Các Hiệp hội nghề nghiệp, tổ chức của DN cũng nên lên tiếng cùng xã hội phản đối quyết liệt để hạn chế tối đa các hiện tượng nói trên.

+ Nhà nước nên tập trung phát triển các Quỹ phát triển văn hóa dân tộc (Quỹ nhà nước; Quỹ hỗn hợp nhiều chủ thể: nhà nước, tư nhân, tập thể, phi chính phủ, trong ngoài nước cùng tham gia; Quỹ tư nhân, Quỹ dòng họ…) để trợ giúp văn nghệ sĩ, những người sáng tác và hỗ trợ cho sự nghiệp bảo tồn, phát triển lâu dài nền văn hóa dân tộc.

+ Để phát huy hiệu quả sản xuất, rõ ràng DN phải đầu tư, cải tiến, hiện đại hóa công nghệ; muốn kinh doanh có hiệu quả, nhiều lợi nhuận thì DN phải chú trọng công tác tổ chức - quản lý. Nhưng bao trùm lên hai yếu tố này là văn hóa nói chung và văn hóa dân tộc nói riêng, ví dụ trong quản lý ở Việt Nam cần chú ý văn hóa vùng miền, cái bản sắc, căn tính trội và lặn của văn hóa dân tộc Việt Nam trong ứng xử, thương thuyết với đối tác… nghĩa là phải lấy xây dựng, phát triển văn hóa dân tộc làm nền tảng thì DN Việt mới tiến xa, lâu dài, bền vững.

+ Một mặt, DN cần tự giác, nhiệt tình đóng góp hơn nữa cho văn hóa dân tộc, nhưng mặt khác, về quản lý nhà nước nên thông thoáng hơn, vừa theo truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, vừa theo thông lệ quốc tế, cho phép các công trình, sự kiện, hoạt động văn hóa dân tộc… tầm cỡ được mang tên chính nhà DN đã đứng ra đầu tư, tổ chức thực hiện hiệu quả to lớn, lâu dài.

+ Ngoài ra, DN không chỉ ký hợp đồng cấp tài chính cho báo, đài để báo, đài làm thương vụ quảng cáo cho mình mà DN cần cung cấp tài chính để báo, đài làm những chuyên mục, chương trình chuyên về văn hóa dân tộc. Báo, đài nên cân đối chương trình, để vừa có thể đăng phát vừa đủ tin, bài về thể thao, bóng đá quốc tế lại vừa nhấn mạnh được các vấn đề, định hướng, chủ đề thời sự về văn hóa dân tộc, nhất là đối với những nước mới phát triển, việc bảo vệ văn hóa dân tộc rất bức bách, lại ít kinh nghiệm như nước ta. 

+ Bộ máy và công chức quản lý nhà nước về phát triển văn hóa dân tộc cũng phải nâng tầm mình hơn, thể hiện được là trọng tài, là đầu mối, là nhà quản lý giỏi, để khuyến khích, thúc đẩy giới DN tham gia ngày càng nhiều cho sự nghiệp văn hóa dân tộc; tôn vinh các nhà văn hóa dân tộc nhiều công lao; thực sự trở thành nam châm thu hút mọi nguồn lực khắp nơi, kể cả từ người Việt ở nước ngoài cùng xây đắp văn hóa dân tộc ngày càng rực rõ, huy hoàng. 

+ Nhà nước, DN và giới TTĐC cần phối hợp hiệu quả, chặt chẽ theo chức năng, đặc thù của mình để phát huy các thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực văn hóa dân tộc. Đó là: Việt Nam đã có Nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được đứng vào ngôi nhà di sản văn hóa thế giới, vì thế cần phải có sự quan tâm thích đáng, chiến lược, lộ trình cụ thể, nỗ lực vượt bậc để ca trù, hát quan họ cổ, múa rối nước… có chỗ đứng xứng đáng, có vị thế nhất định đối với kho tàng văn hóa nhân loại.  

PGS.TS. Lê Thanh Bình

Tài liệu tham khảo:

[1]. N.I. Niculin (2006), Dòng chảy văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội;

[2]. GS. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hóa đến văn hóa học, NXB Văn hóa- thông tin, Hà Nội;

[3]. GS.TS. Nguyễn Văn Huyên (2006), Văn hóa: mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, NXB Chính trị QG, Hà Nội;

[4]. TS. Đinh Phi Hổ, CB (2006), Kinh tế phát triển: lý thuyết và thực tiễn, NXB Thống kê, Hà Nội;

[5]. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật năm 2009. 

          

 

Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Báo chí nhập cuộc để vượt qua thách thức

Tóm tắt: 

Đại hội toàn quốc lần thứ IX Hội Nhà báo Việt Nam (2010 – 2015) vừa được tổ chức vào ngày 12/8/2010 tại Hà Nội. Tham dự phiên họp toàn thể còn có sự tham gia của Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước và 406 đại biểu trên cả nước. Đại hội lần này có nhiệm vụ đánh giá, tổng kết các hoạt động báo chị và hoạt động Hội trong 5 năm qua và xác định phương hướng nhiệm vụ và giải pháp nâng cao vai trò, vị trí, chất lượng và hiệu quả hoạt động báo chí trong nhiệm kỳ tới.

Đại hội toàn quốc lần thứ IX Hội Nhà báo Việt Nam (2010 – 2015) vừa được tổ chức vào ngày 12/8/2010 tại Hà Nội. Tham dự phiên họp toàn thể còn có sự tham gia của Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước và 406 đại biểu trên cả nước. Đại hội lần này có nhiệm vụ đánh giá, tổng kết các hoạt động báo chị và hoạt động Hội trong 5 năm qua và xác định phương hướng nhiệm vụ và giải pháp nâng cao vai trò, vị trí, chất lượng và hiệu quả hoạt động báo chí trong nhiệm kỳ tới.

5 năm - nhiều thay đổi

Hoạt động báo chí 5 năm qua là giai đoạn có nhiều thay đổi do tình hình trong nước và quốc tế nhưng nền báo chí đã có bước phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ về nhiều mặt. Tính đến tháng 12/2009, cả nước có 706 cơ quan báo chí in, gồm: 178 báo in (trung ương, các ban, bộ, ngành, đoàn thể có 76 báo; các tỉnh, thành phố có 102 báo); 528 tạp chí (trung ương, các bộ, ngành, đoàn thể có 414 tạp chí, địa phương có 114 tạp chí); 1 hãng thông tấn quốc gia; 2 đài phát thanh, truyền hình quốc gia, 1 đài truyền hình của ngành, 64 đài phát thanh, truyền hình tỉnh, thành phố, trên 600 đài cấp huyện, hàng ngàn trạm truyền thanh cấp xã; 37 báo điện tử, 160 trang điện tử của các cơ quan báo chí, hàng ngàn trang thông tin điện tử… Đài Tiếng nói Việt Nam đã phủ sóng 97,5% diện tích lãnh thổ và phủ sóng qua vệ tinh đến nhiều nước trên thế giới. Đài Truyền hình Việt Nam phủ sóng toàn bộ lãnh thổ trong nước và phủ sóng qua vệ tinh đến nhiều khu vực ở ngoài nước. Nhiều cơ quan báo chí đã phát triển bao gồm một số loại hình báo chí (báo in, báo điện tử, phát thanh, truyền hình).

Cả nước có hơn 17.000 người làm báo chuyên nghiệp được cấp thẻ nhà báo, hàng ngàn cán bộ, kỹ sư, nghệ sỹ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí và hàng chục ngàn người khác là cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công đoạn: viết bài, sản xuất chương trình, cung cấp thông tin, in ấn, tiếp thị, quảng cáo, phát hành và các dịch vụ báo chí khác. Nhiều nhà báo được đào tạo cơ bản, nâng cao về trình độ chính trị, lý luận, nghiệp vụ, được giao lưu tiếp thu kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp trong nước và quốc tế, tiếp cận các phương tiện làm báo hiện đại.

So với năm 1986 – thời điểm đất nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới, số lượng các cơ quan báo chí và đội ngũ những người làm báo hiện nay tăng từ 3 đến 4 lần; nếu so với năm 2001, các chỉ số này tăng 1,3 đến 1,5 lần. Năm 1997, mạng thông tin toàn cầu – Internet mới có mặt ở Việt Nam, nhưng đến thời điểm này, số người sử dụng Internet của Việt Nam gần bằng 30% số dân, một mức khá cao ở khu vực Đông Nam Á và châu Á. Sự ra đời và phát triển vượt bậc của báo mạng điện tử cùng với khả năng tích hợp nhiều loại hình báo chí trên một thiết bị truyền thông hiện đại tạo ra khả năng to lớn cho việc truyền tải, thu nhận thông tin của các cơ quan báo chí và công chúng của nhà nước.

Nhiều khó khăn và thách thức…

Trong xu thế hội nhập và phát triển, sự toàn cầu hóa về thông tin, nhất là xu hướng hòa tan công nghệ đặt trước nền báo chí nước ta nhiều cơ hội phát triển, đồng thời không ít thách thức. Về loại hình, báo chí không chỉ đơn nhất một loại hình mà đã trở thành báo chí đa phương tiện. Nhiều cơ quan báo chí có từ 2 đến 3 loại hình báo chí. Báo điện tử có lợi thế đưa tin nhanh, kịp thời và sức lan truyền rộng nhưng đồng thời cũng tạo tình trạng sao chép lẫn nhau, khiến cho thông tin trở nên nhàm chán. Báo viết mất dần bạn đọc, suy giảm số lượng phát hành. Do tác động của việc tăng giá giấy và các vật tư in khác cộng với sự sụt giảm số lượng phát hành, khó khăn thu hút quảng cáo dẫn tới nguồn thu của các cơ quan báo chí viết giảm mạnh. Các cơ quan báo nói, báo hình cũng đứng trước tình hình cạnh tranh gay gắt cả về thông tin, nguồn nhân lực và nguồn thu.

Một thách thức khác đã trở thành vấn đề “bức xúc” trong thời gian gần đây, theo ông Đinh Thế Huynh, Chủ tịch Hội nhà báo Việt Nam nhiệm kỳ IX, Tổng Biên tập Báo Nhân dân, là tình trạng nhà báo bị cản trở khi hành nghề, thậm chí nhiều đồng nghiệp bị hành hung, bị xúc phạm về danh dự và thân thể. Hội Nhà báo kiến nghị: Pháp luật thừa nhận quá trình tác nghiệp của nhà báo là quá trình thi hành công vụ. Cản trở nhà báo hành nghề hợp pháp là hành vi cản trở người thi hành công vụ.

Tham luận tại Đại hội về một số thách thức trong hoạt động báo chí hiện nay, TS. Nguyễn Anh Tuấn, Tổng Biên tập, Thư ký Chi hội Nhà báo Đầu tư cho biết những tiến bộ về công nghệ thông tin đang kéo theo sự hòa nhập công nghệ, làm thay đổi quy trình sản xuất và hình thức chuyển tải thông tin, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ truyền thông đa phương tiện và tính tương tác giữa xã hội với báo chí, đang đòi hỏi hầu hết các cơ quan báo chí, nhất là báo in phải có một cách nhìn mới, tư duy và chiến lược phát triển mới cũng như hành động thiết thực để có thể thích nghi, tồn tại và phát triển.

Vấn đề chất lượng nguồn nhân lực được cả TS Nguyễn Anh Tuấn và Chị Ngô Thị Hồng Thanh, Giám đốc Trung tâm Đào tạo Bồi dưỡng của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) cùng chia sẻ: công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng và mang tính chất sống còn của một cơ quan báo chí. Không thể có tác phẩm báo chí tốt, nếu không có phóng viên giỏi về kiến thức và nghiệp vụ; không thể đảm bảo đúng định hướng tuyên truyền, đảm bảo lợi ích quốc gia, nếu người viết thiếu kiến thức về chính trị, kinh tế, xã hội; không thể có tác phẩm báo chí phục vụ tuyên truyền đối ngoại tốt nếu phóng viên không có trình độ ngoại ngữ để có thể theo sát được thị hiếu, nhu cầu, đặc tính văn hóa của người nước ngoài…

Thêm một khó khăn nữa không kém phần quan trọng mà TS. Nguyễn Anh Tuấn trình bày tại Đại hội là chính sách thuế đối với các cơ quan báo chí hiện nay còn nhiều bất cập. Báo chí được xác định “là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân” (Luật Báo chí), với nhiệm vụ chủ yếu là tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, định hướng dư luận xã hội. Như vậy, Báo chí là đơn vị sự nghiệp, nhưng là đơn vị sự nghiệp đặc thù, là một ngành nghề đặc biệt. Xét về cả tính chất, chức năng và nội dung hoạt động, cơ quan báo chí không thể được xem là một doanh nghiệp (DN) thuần túy, sản phẩm báo chí không phải là một thứ hàng hóa bình thường, mà là một thứ sản phẩm có tác động mạnh mẽ tới nhận thức và hành vi của xã hội. Xét về mặt công nghệ, sản phẩm báo chí là sản phẩm có hạm lượng chất xám và công nghệ cao.

Cho đến nay báo chí không những phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) như những DN kinh doanh thuần túy, mà trên thực tế còn phải đóng thuế TNDN cao hơn nhiều so với tất cả các loại hình DN. Điều này xuất phát từ chỗ báo chí bị áp thuế TNDN với thuế suất cao nhất (trước đây là 28%, nay là 25%). TS. Tuấn kiến nghị báo chí được hưởng thuế suất thuế TNDN 10% như các ngành thuộc lĩnh vực văn hóa và ngành thể thao, y tế, giáo dục, đào tạo…

Và những giải pháp

Phát biểu tại Đại hội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, cho biết Đảng và Nhà nước luôn quan tâm ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi để báo chí phát triển, để các nhà báo phát huy tài năng sáng tạo, trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân, phục vụ và cống hiến nhiều nhất cho đất nước.

Trước những thay đổi và thách thức mới, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đề xuất một số điểm các nhà báo và Hội Nhà báo cần cụ thể hóa và triển khai thực hiện. Đó là báo chí cẫn nỗ lực phấn đấu để góp phần nâng cao dân trí, sự đồng thuận cao trong xã hội, cổ vũ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đồng thời tích cực bồi dưỡng, từng bước hoàn thành, bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn, nhân cách con người Việt trong thời kỳ mới.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng cho biết: muốn thế, nội dung thông tin báo chí cần trung thực, khách quan, phong phú, nhiều chiều. Cách diễn đạt và chuyển tải thông tin cần chính xác, kịp thời, sinh động, hấp dẫn, giữ gìn bản sắc và sự trong sáng của tiếng Việt; trước những vấn đề mới, phức tạp, hoặc những sự kiện lớn, quan trọng trong nước và quốc tế, cần có phân tích, bình luận sắc sảo, thuyết phục… Tránh cách đưa thông tin phiến diện hoặc suy diễn, vũ đoán; loại bỏ những thông tin sai lệch ảnh hưởng đến đời sống chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội của đất nước. Tích cực biểu dương, cổ vũ cho cái đúng, cái tốt, cái đẹp; phê phán, lên án những thói hư tật xấu, các hiện tượng tiêu cực, suy thoái về đạo đức lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tư tưởng cơ hội, thực dụng… Người làm báo được đòi hỏi phải có đủ bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ và đạo đức nghề nghiệp.

Đáp ứng đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho người làm báo, trong nhiệm kỳ khóa IX, Hội Nhà báo Việt Nam sẽ thực hiện giải pháp tìm mọi nguồn nhân lực trong nước và quyết tâm nhằm mở rộng quy mô, đối tượng đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ nhà báo - hội viên, đặc biệt là đối với các nhà báo trẻ, tạo điều kiện cho các nhà báo, nhất là các nhà báo ở các địa phương có chương trình, phương pháp giảng dạy. Tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công để sớm đưa công trình Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí của Hội vào hoạt động. Xây dựng đề án nghiên cứu lý luận, nghiệp vụ báo chí nhằm mục tiêu tổng kết lý luận báo chí cách mạng Việt Nam, đồng thời phục vụ cho việc xây dựng giáo trình đào tạo, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí cho các trường đào tạo người làm báo và các trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí.

Là hãng thông tấn nhà nước, TTXVN có quy mô lớn với 7 khối công tác, gồm 32 đơn vị đầu mối, gần 150 phòng với xấp xỉ 1.000 phóng viên, biên tập viên, trong đó trên 70% là hội viên Hội nhà báo Việt Nam, TTXVN đã thực hiện nhiều giải pháp tăng cường công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao tính chuyên nghiệp cho hội viên - nhà báo. Trong đó đáng kể là Qui chế về đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức của ngành đã được ban hành từ năm 2005. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ cũng được ngành xây dựng trong từng giai đoạn cụ thể để từ đó chủ động trong việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cả về chuyên môn, chính trị và quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu về đội ngũ cán bộ trước mắt cũng như lâu dài.

Trước nhiều thách thức về cạnh tranh gay gắt cả về thông tin, nguồn nhân lực và nguồn thu, trong bài phát biểu bế mạc Đại hội, Chủ tịch Hội nhà báo Việt Nam khóa IX Đinh Thế Huynh đã tổng kết giải pháp cho những thách thức này là con người, mô hình tổ chức cơ quan báo chí, đổi mới, hiện đại hóa phương tiện làm báo và cơ chế, chính sách hợp lý của Đảng và Nhà nước. Về phía người làm báo Việt Nam, thái độ là chấp nhận và nhập cuộc để vượt qua thách thức!

Lan Phương

Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Học cách đính chính trên báo điện tử

Tóm tắt: 

Liệu việc sửa trực tiếp vào nội dung bài viết có bị coi là hành vi lừa dối độc giả? Liệu các báo điện tử có sẵn sàng nhận lỗi khi công nghệ cho họ cái quyền can thiệp trực tiếp mà các đồng nghiệp khác không có?

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Cạnh tranh thông tin giữa các báo điện tử

Tóm tắt: 

Bởi vì thể loại tin chiếm phần lớn nội dung của các báo điện tử cho nên sự cạnh tranh giữa các báo này trước hết và chủ yếu là cạnh tranh về việc đưa tin nhanh và chất lượng thông tin.

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Nâng cao chất lượng đào tạo báo chí ở Việt Nam

Tóm tắt: 

Dự án Mediapro nhằm nâng cao chất lượng hoạt động báo chí thông qua việc nâng cấp giảng dạy báo chí và bộ quy tắc đạo đức nghề báo, đã được ra mắt chính thức ngày 25/3.

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo

Báo chí trong thời đại kỹ thuật số

Tóm tắt: 

Làng báo in đang suy sụp vì doanh thu quảng cáo sụt giảm cùng với đà sụt giảm lượng phát hành. Cả một ngành đang loay hoay tìm lối thoát và cùng lúc, sự xuất hiện của các thiết bị đọc sách báo điện tử (ebook reader) đang gợi ra những giải pháp mới.

Làng báo in đang suy sụp vì doanh thu quảng cáo sụt giảm cùng với đà sụt giảm lượng phát hành. Cả một ngành đang loay hoay tìm lối thoát và cùng lúc, sự xuất hiện của các thiết bị đọc sách báo điện tử (ebook reader) đang gợi ra những giải pháp mới.

Chuyện ở nước khác

Ảnh: 
Chuyên mục chính: 
Nghề báo