Syndicate content

Chuyện dọc đường

Ôi thiêng liêng những mốc thời gian

Chuyện trò với đồng nghiệp

Thời gian là dòng chảy đẩy mọi thứ lùi về quá khứ, những sự kiện động trời cũng như những vui buồn giận ghét đời thường rồi ngày càng mờ ảo và lặng lẽ hòa tan trong lãng quên. Tuy nhiên lịch sử các dân tộc và toàn nhân loại lại có những cái mốc sáng ngời như tinh tú, càng cao thẳm trên bầu trời đêm càng lấp lánh ngân hà. Đối với dân tộc Việt Nam ta, thế kỷ 20 có nhiều mốc như thế.

Cách đây mười năm, kỷ niệm 50 chiến thắng Điện Biên Phủ, chị Fabienne Sintes làm việc tại Đài phát thanh quốc gia Pháp Radio France cùng một đồng nghiệp ở Tuần báo L’Express sang Việt Nam viết bài về thảm bại của quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ. Được biết chị vừa từ mặt trận Irăc về. Sau khi lên Tây Bắc, qua các di tích và vật chứng ngược dòng thời gian tìm hiểu tại chỗ, trở lại Hà Nội chị Fabienne tìm gặp tôi trao đổi. Chị hỏi:

- Thời trẻ chắc ông có tham gia chiến đấu tại Điện Biên. Hồi đó ông mang quân hàm cấp bậc gì?

- Tôi không được vinh dự ấy. Tôi là dân sự. Tuy nhiên, tất cả những người Việt Nam thế hệ tôi ai cũng tự cho mình ít nhiều là chiến sĩ Điện Biên. Cả những người sinh ra sau ngày hòa bình lập lại, ai cũng tự hào lịch sử dân tộc mình có ba tiếng Điện Biên Phủ.

- Cụ thể hồi đó ông làm gì? Chị vẫn không chịu buông.

- Tôi cùng nghề với chị. Tôi làm phóng viên một tờ báo theo các đoàn dân công vận chuyển lương thực, vũ khí từ vùng hậu phương Liên khu 4 lên miền thượng du tỉnh Thanh Hóa qua tỉnh Hòa Bình tiếp tế cho mặt trận Tây Bắc bằng những chiếc xe đạp thồ. Những chiếc xe thồ ấy, một người đồng bào của chị, giáo sư, nhà báo Bernard Fall đã mô tả kỹ tại cuốn sách nổi tiếng của ông: Điện Biên Phủ, một góc địa ngục. Ông ta quả quyết mỗi chiếc xe thồ có thể chở 300kg lương thực hoặc đạn dược. Tôi không dám chắc, chỉ ước lượng thôi bởi còn tuỳ thuộc vào sức lực và phương tiện của từng người dân công. Loại xe thồ thời ấy ai cũng cho là tốt nhất là xe đạp mang nhãn hiệu Peugeot của Pháp. Nền công nghiệp Đông Dương trước 1945 chưa làm ra nổi một chiếc xe đạp, toàn nhập khẩu từ chính quốc sang.

Chị Fabienne lại hỏi:

- Ông nghĩ thế nào khi so sánh Điện Biên Phủ 1954 với Giải phóng Sài Gòn 1975?

Tôi cười:

- Hình như các bạn ở phương Tây thích so sánh ngang. Nhà văn, đại tá Jules Roy tác giả cuốn Trận Điện Biên Phủ mà chị đã biết, ví thất bại của các bạn ở cánh đồng Mường Thanh là nỗi kinh hoàng khủng khiếp; trận thảm bại của Napoléon tại Waterloo(1) năm 1815 trước liên quân Anh - Phổ không gây tiếng vang trên thế giới bằng. Nhà sử học Bernard Fall đi xa hơn, so sánh tầm vóc Điện Biên Phủ với trận Stalingrad năm 1942-1943. Tính về quân số của cả hai bên thì Điện Biên Phủ nhỏ hơn Stalingrad nhiều, dù vậy Điện Biên Phủ vẫn là trận đánh có tính chất quyết định ngang tầm trận Stalingrad và trận Midway trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

- Chúng tôi nghĩ theo chiều khác. Không có Cách mạng Tháng Tám 1945, chiến thắng Biên Giới 1950, không có Điện Biên Phủ. Không có Điện Biên Phủ 1954, Thành cổ Quảng Trị 1972, thiếu nhiệt tình của bạn bè thế giới ủng hộ chính nghĩa Việt Nam, chậm Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn 1975.

Chị Fabienne:

- Câu hỏi cuối cùng: ông đã đến Điện Biên Phủ?

- Có chứ. Và không chỉ đến một lần. Người Việt Nam chúng tôi ai có ít nhiều điều kiện đều ước ao đến Điện Biên Phủ ít nhất một lần trong đời để được nhìn thấy tận mắt những trang lịch sử oai hùng của dân tộc. Người Việt chúng tôi không có tục dâng hoa, nhưng ai đã có dịp đến Điện Biên Phủ đều tâm nguyện đốt một nén hương, ít nhất chắp tay vái mấy vái tưởng niệm các liệt sĩ, anh hùng.

Tôi ngồi xuống cạnh hầm Đờ Cát

Người viết bên Hầm Đờ Cát

Vâng, tôi đã đến Điện Biên Phủ dù có hơi muộn màng.

Thời trẻ làm phóng viên báo, tôi đã nhiều lần lên Tây Bắc, thăm Mộc Châu, Sơn La, vượt đèo Pha Đin vào địa phận tỉnh Lai Châu nhưng do hoàn cảnh khó khăn thời ấy, phải đợi đến sau khi nước nhà thống nhất, điều kiện giao thông khá lên, Điện Biên Phủ thật sự trở thành một điểm đến, tôi mới có dịp tới chiến trường xưa. Như nhiều người từ các chốn khác đến đây, tôi đã thăm Bản Lạnh Mường Phăng(2) nơi đóng Tổng hành dinh Bộ chỉ huy Mặt trận Điện Biên Phủ mật danh Trần Đình, xuống hầm sâu xem nơi Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm việc. Tôi đã đến đồi A1 chắp tay vái Cây đa Cụt, thăm Bảo tàng Điện Biên... Và một nơi nhất thiết không thể không đến nữa là Hầm Đờ Cát, Tư lệnh quân Pháp trấn thủ lòng chảo Mường Thanh - cái nơi mà quân đội Pháp đặt cho một tên gọi thật cao sang thật oai hùng là Epervier - có nghĩa bồ cắt, loại chim chuyên từ đâu trên trời cao bất ngờ đâm bổ xuống bắt ăn thịt gà vịt và các loài bé nhỏ, nhưng đó lại chính là nơi tướng Đờ Cát cùng ban tham mưu của ông ra hàng “quân đội Việt Minh” 57 ngày sau. Tôi đã làm một việc đáng ra nghiêm cấm là trèo lên nóc cái hầm có mái cong cong ấy chụp một tấm hình mang về... khoe với bè bạn nước ngoài khi cần, rồi ngồi xuống một nơi sạch sẽ cạnh hầm nghỉ một chốc để lấy lại hơi và suy nghĩ miên man.

Nhiều người Pháp đã đến Điện Biên Phủ

Tổng thống Francois Mitterrand vốn là đối thủ của tướng De Gaulle trong hai cuộc đọ sức giành quyền lực bằng tổng tuyển cử - De Gaulle, ông tướng đã cố tình đưa quân Pháp trở lại Đông Dương với mưu đồ tái đô hộ Việt Nam, gây nên cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” và tự chuốc lấy thảm bại vào mình - Tổng thống Francois Mitterrand sau khi nắm quyền sang thăm chính thức Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã yêu cầu được đến nhìn tận mắt nơi họ gọi quen là “cái chảo lửa” nay là đồng lúa xanh ngút ngàn. Người lái chiếc trực thăng đưa vị nguyên thủ quốc gia lên Tây Bắc ngày hôm ấy là một nữ phi công xinh đẹp người Việt.

Đông nhất có lẽ là các cựu chiến binh tới viếng đồng đội đã cùng họ sống nhiều ngày địa ngục rồi bỏ xác tại đây trong khi họ có diễm hạnh từ các chiến hào lầy lội chui lên, ném vũ khỉ xuống chân, đưa hai tay lên trời xin đầu hàng các chiến binh tầm vóc nhỏ bé, họ trở lại đây chiêm ngưỡng cánh đồng lúa Mường Thanh xanh ngát thanh bình chứ không phải là những chiến hào bom đạn cày nát phủ một màu trắng hếu những chiếc dù máy bay Pháp thả từ trên trời xuống như hồi nào. “Điện Biên Phủ là bãi chiến trường đầu tiên ở đó người chết cũng như mặt đất được liệm toàn bằng lụa trắng” (Bernard Fall)(3). Nhà báo Trần Cư, phóng viên Báo Quân Đội Nhân Dân tại mặt trận ghi nhận một hình ảnh khác: “Ở Mường Thanh địch ra hàng như nước chảy” (4).

Người viết (phải) chuyện trò với cựu chiến binh Pháp trở lại chiến trường Điện Biên Phủ

Một tên tuổi lớn của văn học Pháp đương đại sớm đến Điện Biên Phủ sau ngày hòa bình lập lại là nhà văn, đại tá Jules Roy. Ông vốn là sĩ quan trong quân đội Pháp từ trước chiến tranh thế giới thứ hai, phục vụ nhiều năm trong Lục quân Pháp tại châu Phi trước khi chuyển sang Không quân làm phi công lập nhiều chiến tích đánh phát xít Đức. Ông đã “khước từ vinh dự cầm vũ khí”, xin ra khỏi quân đội Pháp năm 1953 khi hay tin sắp được thăng hàm cấp tướng, bởi “sau vài tuần ở Đông Dương, tôi đã hiểu chúng tôi đang phục vụ một cuộc chiến tranh phi nghĩa”. Quá chán ngán vì những lời nói dối nhân dân của những người đứng đầu chính phủ Pháp hồi bấy giờ cùng những giọng lưỡi đổi trắng thay đen của những viên tướng bại trận đứng đầu là Tổng tư lệnh tướng bốn sao Henri Navarre, năm 1963 Jules Roy đã bay sang Việt Nam, xin phép được lên Điện Biên để tự mình tìm hiểu tại chỗ do đâu quân đội Pháp đầy quang vinh mà ông từng là một sĩ quan phục vụ hết mình, thất bại nhục nhã tại thung lũng này.

Nhà văn Jules Roy có lẽ đã ngồi đúng vào chỗ tôi ngồi lấy lại hơi bên hầm Đờ Cát, bởi ông có viết cụ thể trong “cuốn sách cay đắng” của ông sau chuyến thăm trở về: “Sau khi thăm viếng khắp chiến trường cũ, tôi kẻ chiến bại cô đơn và thầm lặng giữa những người chiến thắng đang ân cần chăm sóc, tôi ngồi xuống bên cạnh cái hố gần như bị lấp đầy bởi những trận mưa dông, nơi Đờ Cát từng chơi bài brit với các sĩ quan phụ tá để giải buồn, tôi ngồi xuống đó mà ghi chép” (5).

Ngồi xuống bên cạnh hầm Đờ Cát, nhà văn Jules Roy ghi những cảm tưởng đầu tiên: “Sau mấy tiếng đồng hồ trên chiếc xe hơi dã chiến chạy ngoằn ngoèo theo đường núi, tầm nhìn bỗng mở rộng và tôi hiểu mình đã tới nơi. Những đàn bò về chuồng theo tiếng lục lạc, thung lũng ngập tràn ánh sáng, những mỏm đồi xanh tươi, những người nông dân sau ngày làm việc đang trò chuyện với binh lính trước mái nhà tranh - đó là khung cảnh nơi phương Tây từng chịu thảm bại vào loại lớn nhất trong lịch sử... Tâm trí tôi thư giãn, bình yên khác thường, đến mức làm tôi lấy làm xấu hổ”.

Lỗi tại ai?

Những gì tự mắt nhìn thấy tại Điện Biên Phủ và trong chuyến đi Việt Nam ấy đã giúp nhà văn, đại tá, phi công Jules Roy rút ra nhiều kết luận, tìm lời giải “Lỗi tại ai?”.

Theo ông, “trước hết tại chất lượng cao của những đối thủ, và sau đó, tại các vị chỉ huy cao cấp của ta quá tồi”. Quân đội nhân dân Việt Nam - mà cho đến tận ngày thảm bại ở Điện Biên Phủ, nhiều chính khách và báo chí cánh hữu Pháp vẫn cao ngạo gọi là “quân đội Việt Minh” cũng như gọi Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam là “Đài Việt Minh(6) - gồm những chiến sĩ khó phân biệt họ là cấp tướng hay binh nhì, ngoài tuổi tác và màu chiếc ngôi sao đính ở mép cổ áo”. Không như quân đội Pháp, các vị chỉ huy quân đội Việt Minh “không có những cô thư ký xinh đẹp, không có những khẩu phần ăn đặc biệt, không có xe ô tô riêng, không có cờ hiệu phấp phới trong gió, nhưng trời đất ơi, họ lại có chiến thắng”. Và ông cảnh báo luôn người Mỹ: Một ngày nào đó, nếu các vị “có trách nhiệm bảo vệ phương Tây” phải đối đầu những đối thủ như Việt Minh, xin các vị chớ trông cậy vào các nguyên lý chiến lược hay là hỏa lực tên lửa của các vị, như tướng Navarre từng trông cậy ở pháo binh Pháp.

Là một sĩ quan lâu năm, quá am hiểu nội tình quân đội Pháp, Jules Roy rất cay cú chuyện này. Các tư lệnh quân Pháp ở Đông Dương không chỉ tồi về sự non kém chiến lược, chiến thuật, họ đều tự cao tự đại, chẳng ai tin ai, đánh giá thấp đối phương, họ không hiểu chút gì đối thủ của mình chỉ trông cậy vào vũ khí, họ tồi vì thiếu phẩm chất của người chỉ huy. Trong khi các tiểu đoàn trưởng Pháp mỗi lần ra trận bắt người phu khuân theo thùng rượu mạnh để trước khi lâm trận uống vào cho... bớt sợ, thì ở phía bên kia bất chấp hàng tấn, hàng tấn bom đạt trút xuống các tuyến giao thông, con đường tiếp đạn của quân đội nhân dân Việt Nam không bao giờ bị cắt. Không phải viện trợ nước ngoài đã giúp Việt Nam đánh bại Pháp tại Điện Biên Phủ như một số người nào đó cố tình rêu rao, mà chính là những chiếc xe đạp thồ 200-300kg hàng, đẩy bằng sức người dân công... đã chiến thắng. “Cái đã đánh bại tướng Navarre không phải là phương tiện, mà là sự thông minh và ý chí của đối phương” - Jules Roy viết.

Ấy thế mà trong nhật lệnh của mình và tại báo cáo gửi về Quốc hội - thiết chế nếu chưa hẳn đại diện thì ít nhất cũng là biểu trưng của nhân dân Pháp - tướng Henri Navarre dám muối mặt ngụy biện khi khẳng định rằng đạo quân xâm lược bị đánh tả tơi ở lòng chảo Điện Biên đã ghi “một trang sử thi tiếp theo những trang sử thi vinh quang nhất trong lịch sử quân đội Pháp” (!).

Tướng Đờ Cát và Bộ tham mưu Pháp ra hàng (07.05.1954)

Tướng Đờ Cát, bộ tham mưu của ông ta và mười mấy ngàn binh sĩ đạo quân viễn chinh gồm rất nhiều quân Pháp và một số lính đánh thuê thuộc 17 quốc tịch khác nhau ra hàng Quân đội nhân dân Việt Nam ngày thứ sáu 07.05.1954, nhằm mùng năm tháng Tư năm Giáp Ngọ, cách năm con ngựa này của chúng ta tròn vận hội sáu mươi năm. Hai ngày sau, chủ nhật 09.05.1954, quân Pháp ở Hà Nội tổ chức diễu hành tưởng niệm những tên chết trận. Tại Nhà thờ lớn, một linh mục tuyên úy Pháp ca ngợi “sự hy sinh” của những người lính chết cho phi nghĩa. Tuy nhiên không có sự dối trá nào che đậy nổi sự thật. Nhật báo Pháp Le Monde số ra ngày hôm sau, thứ hai 10.05.1954, đưa tin trên lại không quên kèm chi tiết: “Trong thánh đường cũng như tại nơi diễn ra diễu hành ngày chủ nhật, hầu như chỉ có giới quân nhân tham dự”, trong khi “tối hôm trước, thứ bảy 08.05.1954, các hộp đêm Hà Nội vẫn đầy nghẹt người”. Mọi người đọc báo đều nhìn ra sự thật là người dân Hà Nội những ngày đêm ấy đang vui như mở cờ trong bụng, ngày đoàn tụ sắp tới gần rồi.

Nói như Henri Navarre, “quân Pháp ở Điện Biên Phủ đã hoàn thành sứ mệnh được giao”, “đã viết nên những trang sử thi oai hùng”, vậy thì tại sao tại Paris chiều 07.05.1954(7) thủ tướng Pháp Jean Laniel đóng bộ đồ đen tang tóc chỉ dùng những lúc đưa đám ma mà xuất hiện trước Quốc hội Pháp và nghẹn ngào báo cáo hỡi ôi, Điện Biên Phủ thất thủ mất rồi! Điện Biên Phủ thất thủ đúng một hôm trước ngày khai mạc Hội nghị Genève bàn về Việt Nam. Thực tế cả một bầu không khí tang tóc đột nhiên trùm xuống thủ đô nước Pháp giữa lúc đang chuẩn bị kỷ niệm mừng chiến thắng phát xít Đức 09.05.1945. Hồng y Giáo chủ Tổng Giám mục Paris mở lễ nguyện cầu tại Nhà thờ Đức Bà. Nhà hát lớn Paris bãi bỏ chương trình vũ ba lê của Nhà hát Moscou sang trình diễn lần đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Truyền hình quốc gia Pháp thay tất cả các chương trình vui chơi, giải trí cuối tuần bằng những nhạc khúc tưởng niệm âu sầu! Nhật báo Le Parisien libéré chạy tít đậm suốt chiều ngang trang 1: ĐIỆN BIÊN PHỦ THẤT THỦ. Quân đội Việt Nam xung phong đánh chiếm các chiến hào liên tục 20 giờ không một lúc ngừng - “Họ còn cách chúng tôi có mấy mét. Họ đã lọt vào tất cả mọi nơi…”, đấy là thông điệp cuối cùng của tướng De Castries.

Nhật báo Le Parisien libéré (Người Paris giải phóng) số ra ngày thứ bảy 8 và chủ nhật 09.05.1954 đưa tin: ĐIỆN BIÊN PHỦ THẤT THỦ

“Quân Pháp ở Điện Biên Phủ đã hoàn thành sứ mệnh được giao”, vậy hà cớ một ngày trước Tổng tư lệnh Pháp Navarre vội vã rời Hà Nội bay vào Sài Gòn, và tại châu Âu ngoại trưởng Mỹ Dulles bỏ Hội nghị Genève về nước ngay trước ngày hội nghị bàn vấn đề Việt Nam, để cho nhật báo Pravda (Liên Xô) có cớ đưa tin: “Ngoại trưởng Dulles đã trốn khỏi Genève”, trong khi đó tại Washington bộ trưởng quốc phòng Mỹ Wilson tuyên bố: “Chúng ta không thể một mình nhận lấy trách nhiệm bảo vệ phương Tây”, giúp nhật báo Washington Post (Mỹ) có cơ sở lập luận: “Hoa Kỳ đã thất bại nhục nhã ở Việt Nam”.

Tại chiến trường Điện Biên Phủ, ngồi bên hầm Đờ Cát chín năm sau ngày 07.05.1954 lịch sử, nhà văn đại tá Jules Roy khẳng định: “Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn nhất của phương Tây, báo trước sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa và sự cáo chung của một nền cộng hòa(8). Tiếng súng Điện Biên Phủ đến nay vẫn còn vang vọng”.

Nhà văn Pháp Jules Roy qua đời ngày 15.06.2000, thọ 97 tuổi. Ngày hôm sau 16.06.2000, nhật báo Libération đăng bài tưởng niệm có lời của cây đại thụ vừa ngã xuống: “Chúng ta hà tất phải phí bao công sức làm chiến tranh chống phát xít, để rồi tự mình trở thành những tên phát xít tại Đông Dương(9)”. Nhà báo Pháp Jacques Servan-Schreiber, người sáng lập và chủ nhiệm tuần báo L’Express, cho biết tại Hồi ký của ông: Năm 1963 sang Washington, ông có tặng tổng thống Mỹ John Kennedy cuốn Trận Điện Biên Phủ của Jules Roy. Tổng thống Mỹ nhờ vợ là bà Jacqueline một người thông thạo tiếng Pháp dịch và tóm tắt sang tiếng Anh luôn. Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc Namara và bộ trưởng tư pháp Robert Kennedy em trai tổng thống đều tìm mua cuốn La bataille de Dien Bien Phu chưa kịp phát hành bản dịch tiếng Anh.

Tổng thống Mỹ John Kennedy bị ám sát cuối năm 1963. Ngày nay không có cứ liệu để đánh giá cuốn sách của Jules Roy có góp phần tác động hay không vào ý đồ mới chớm của John Kennedy tìm cách đưa các lực lượng vũ trang Mỹ rút khỏi bãi lầy Việt Nam.

Thắng Pháp về quân sự, thắng Mỹ về chính trị

Một tên tuổi tỏa sáng khác cũng đã sớm đến lòng chảo Điên Biên gần như cùng thời với Jules Roy: Giáo sư quan hệ quốc tế, nhà sử học, nhà báo Bernard Fall(10). Nhà văn Hữu Mai người thể hiện bộ Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về Chiến thắng Điện Biên Phủ, là một trong số người Việt Nam đọc nhiều sách nhất của các tác gia nước ngoài viết về Điện Biên Phủ và Đông Dương, đã nói về Bernard Fall như sau: “Một người đã đứng bên chúng ta trong suốt cuộc trường chinh giành tự do, đã ngã xuống chiến trường như một chiến sĩ, mà chúng ta chỉ biết tới một cách muộn màng, đó là nhà báo, nhà sử học, người anh hùng Bernard Fall” (11). Trong khi các cơ quan truyền thông lớn ở phương Tây như nhật báo Washington Post, đài phát thanh - truyền hình CBS (Mỹ) báo Le Monde (Pháp) đều tôn vinh Bernard Fall là một học giả - sử gia lớn, chuyên gia số 1 phương Tây về Việt Nam.

Nhà báo từ lâu đã đi vào huyền thoại ấy đã lên thăm Điện Biên Phủ. Chắc hẳn ông đã đến hầm Đờ Cát, đã ngồi xuống nghỉ chân ở chỗ tương đối sạch sẽ hơn cả tại nơi này, để tìm hiểu để suy ngẫm rồi viết ra một công trình nghiên cứu nổi tiếng về chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam và thảm bại của các lực lượng viễn chinh Pháp: Điện Biên Phủ, một góc địa ngục. Một cuốn sách được Roger Lévy, Tổng thư ký các Ủy ban nghiên cứu về vấn đề Thái Bình Dương, đánh giá là “xét về thời gian thì chính xác đến từng phút một”, đó là “một tổng hợp những nhận xét quân sự, kỹ thuật và chính trị”, “một tiếng nói không bao giờ tắt vì nó là sự thật”.

Bernard Fall đã đến Việt Nam, đã lên Điện Biên Phủ, đã đi nhiều nơi, gặp gỡ nhiều chứng nhân. Ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời phỏng vấn. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Pháp Pierre Messmer đích thân cho phép ông tiếp cận các hồ sơ quân sự tuyệt mật của Pháp. Ông đã trao đổi với nhiều chính khách, nhà quân sự, những người am tường thông tin nhất về Việt Nam ở Mỹ. Ông đã đọc hầu hết những cuốn viết về Điện Biên Phủ, về Việt Nam đã xuất bản cho đến lúc bấy giờ (một số cuốn còn đang dạng bản thảo) để rồi vào lúc các bác sĩ phát hiện ông mang trọng bệnh trong người, vẫn cùng với vợ là bà Dorothy “sống ba năm với các bóng ma Điện Biên Phủ” chỉ nhằm mục đích “vạch trần những giọng điệu tuyên truyền và những lời dối trá của phương Tây”, từ đó đưa “một lời cảnh tỉnh Mỹ chớ có lún sâu hơn nữa can thiệp vào nội tình Đông Dương”.

Làm xong cuốn Điện Biên Phủ, một góc địa ngục, Bernard Fall lại tìm cách sang Việt Nam, kiếm thêm tư liệu viết một công trình khác cảnh báo nhân dân Mỹ chớ tin theo các luận điệu dối trá của nhà cầm quyền họ, bởi qua bài học Điện Biên Phủ trước sau rồi Mỹ cũng sẽ thất bại ở Việt Nam thôi. Lúc này đã có mặt gần nửa triệu quân Mỹ ở miền Nam nước ta(12). Bernard Fall không may chết vì dẫm phải mìn khi đang theo cuộc hành quân càn quét của một tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ gần “Con đường không vui” tỉnh Quảng Trị tháng 2 năm 1967 - cái chết mà nhà văn Hữu Mai ta sẽ gọi là “ngã xuống chiến trường như một chiến sĩ vì tự do”.

Giáo sư, nhà sử học, nhà báo Bernard Fall đã rút ra những kết luận như thế nào về trận Điện Biên Phủ năm 1953-1954?

Tôi nghĩ không gì bằng chúng ta xông luôn vào những trang cuối của công trình dày hơn 800 trang sách, chương Lời Bạt. Rốt cuộc, nói theo lời Giáo sư Roger Lévy: “Quần chúng không biết hoặc không quan tâm đến những ngày tháng năm lịch sử. Chỉ một số người còn nhớ tới. Tuy nhiên ba tiếng Điện Biên Phủ còn vang mãi trên tất cả các lục địa”.

Sau ba năm sống với các bóng ma Điện Biên Phủ, vào lúc biết mình đang mang trọng bệnh, và rồi trời chỉ cho ông tại thế hai năm nữa thôi để miệt mài theo đuổi cuộc trường chinh tìm sự thật, Bernard Fall hạ bút: Trong quá trình phi thực dân hóa trên thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trước những làn sóng dâng như những đợt triều cường của phong trào nhân dân các nước bị đô hộ, bị lệ thuộc đứng lên đấu tranh đòi lại quyền độc lập tự do, nhiều quốc gia thực dân đã từ bỏ thuộc địa của mình cho những lực lượng bảo vệ chúng, như Hà Lan ở Inđônêxia, Anh tại Ấn Độ, và nhiều nước khác trong đó có Pháp ở Algérie và Anh ở Chypre rốt cuộc đã phải rút khỏi thuộc địa sau những cuộc chiến tranh kéo dài, đẫm máu và giằng co, thì “duy nhất chỉ có ở Điện Biên Phủ, một cường quốc thuộc địa lần đầu tiên bị đánh bại tại chiến trường”.

Tác giả khẳng định: “Điện Biên Phủ là một chiến thắng tại đó Việt Nam thắng Pháp về quân sự và thắng Mỹ về chính trị”, “Điện Biên Phủ không chỉ là một thất bại riêng của Pháp mà còn là một thất bại của Mỹ”.

Còn hơn Jules Roy ngồi suy ngẫm bên hầm Đờ Cát cảnh báo “những vị có trách nhiệm bảo vệ phương Tây”, Bernard Fall nói toạc ra: “Vào những năm 1953-1954, người Pháp hoàn toàn tin cậy vào các ông thầy Mỹ. Họ đã phải trả giá sai lầm đó bằng 48 máy bay bị bắn rơi tại trận, 14 chiếc bị phá huỷ dưới đất ở Sân bay Mường Thanh và 167 chiếc bị hư hại trên bầu trời thung lũng”. Một thất bại hết sức nặng nề, bởi hồi đó không quân Pháp không bao giờ có thể huy động nổi 115 máy bay vận tải, trinh sát và 65 máy bay chiến đấu. Cuối cùng Mỹ bỏ của chạy lấy người, không thể và không dám tiếp tục dấn thân giúp nước đồng minh của mình nhiều hơn nữa, để mặc cho Pháp thua trận thảm hại, cho tướng De Gaulle một lần nữa chua cay khẳng định: không bao giờ có thể trông cậy vào Mỹ trong cuộc khủng hoảng không trực tiếp liên quan đến họ.

Hệ quả thứ ba của Điện Biên Phủ, theo Bernard Fall, là “Điện Biên Phủ đã đánh dấu sự ra đời của Quân đội nhân dân Việt Nam”. Lẽ đương nhiên vị giáo sư sử học không phải không biết ngày khai sinh của Quân đội ta là ngày 22.12.1944. Dưới con mắt của các chính khách, học giả nặng đầu óc nước lớn và báo chí phương Tây kênh kiệu vào thời gian trước Điện Biên Phủ, quân đội Việt Nam chỉ là “quân Việt Minh” - hàm ý một đội quân du kích chân trần lội bộ, vai khoác khẩu súng trường bắn từng phát một, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội ta họ gọi là “Bộ Tư lệnh Việt Minh”, Đài phát thanh quốc gia ta là “Đài Việt Minh”. Chắc không ít người trong họ vẫn nuôi ảo tưởng cuối cùng rồi đối phương sẽ thất bại. “Ngay trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Pháp cũng chưa bao giờ dựng lên một hệ thống phòng ngự mạnh như tại Điện Biên” (13) Điện Biên Phủ thất thủ làm họ ngã ngửa ra: những người vừa chiến thắng họ là “những đối thủ chất lượng cao”, một đạo quân hùng mạnh - quân đội của nhân dân, vì nhân dân đang tiến lên chính quy, hiện đại.

Biểu trưng của thời đại

Là một nhà khoa học trung hậu, Bernard Fall hiểu dù đã cố gắng hết sức mình, ông vẫn còn nhiều bất cập. Tại Lời tác giả in ở đầu cuốn sách, ông viết: “Nói đúng ra chỉ có tướng Võ Nguyên Giáp là có đủ thẩm quyền viết cuốn sách về Điện Biên Phủ. Nhưng do bận nhiều công việc, cho đến nay ông chỉ công bố được vài bài nghiên cứu về đề tài này” (14).

May thay, với sự cộng tác của một số cơ quan, tổ chức và người cộng sự đủ thẩm quyền đầy tài năng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hoàn thành bộ Hồi ức có giá trị về Điện Biên Phủ(15) nhiều năm trước khi ra đi về cạnh Bác Hồ. Lẽ dĩ nhiên, Đại tướng cùng những người cộng tác đã đọc, đã tham khảo nhiều sách của các tác giả nước ngoài trong số đó có Jules Roy, Bernard Fall..., cũng như những lời biện bạch của tướng Henri Navarre và một số tướng lĩnh, chính khách Pháp về trận thảm bại của họ, để nắm thêm một số tư liệu chỉ những người phía bên kia mới có điều kiện tiếp cận, tuy nhiên với cái nhìn và theo một logic hoàn toàn khác.

Tròn hai mươi năm về trước, kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết:

“Sau ngày 7 tháng 5 năm 1954, xuất hiện một cụm từ như là biểu trưng của thời đại: Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ.

Việt Nam là đất nước anh hùng, là con người sáng tạo. Hồ Chí Minh là đường lối đúng đắn. Điện Biên Phủ là thắng lợi vẻ vang. Ý nghĩ cụm từ ấy càng sâu sắc bốn chục năm sau, đẹp thêm bởi cành nguyệt quế mùa Xuân 1975 toàn thắng và những thành tựu Đổi Mới đang làm cho đất nước ta chuyển biến từng ngày” (16).

Từ những ý tưởng trên của Đại tướng hai mươi năm về trước, phải chăng ngày nay chúng ta được phép trình bày những cái mốc thiêng liêng theo trình tự thời gian gần một thế kỷ qua đại thể như sau: Việt Nam - Cách mạng Tháng Tám 1945 - Điện Biên Phủ 1954 - Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975 - Đổi Mới 1986 - và...

Những cái mốc thiêng liêng còn nối tiếp và ngày càng ngời sáng với độ lùi của thời gian.

(1) Trận Waterloo (1815) là trận thất bại của Napoléon trước Liên quân Anh - Phổ dẫn tới sự sụp đổ đế chế Napoléon. Trận Stalingrad (1942-1943) là nơi 33 vạn quân Đức bị Hồng quân Liên Xô bao vây tiêu diệt, tạo bước ngoặt quyết định cho quân Đồng minh chiến thắng tại châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trận hải chiến ở Midway (1942) là nơi hải quân Mỹ đánh tan tác hải quân Nhật, tạo bước ngoặt cho cuộc chiến tranh thắng Nhật tại mặt trận Thái Bình Dương.

(2) Tiếng Thái Mường Phăng có nghĩa là
Bản Lạnh.

(3) Dựa vào tư liệu lưu trữ của bộ quốc phòng Pháp, Bernard Fall cung cấp con số cụ thể. Quân đội Pháp và những phi công Mỹ mặc thường phục năm 1954 đã thả xuống Điện Biên Phủ 79.166 chiếc dù, trong đó 3.763 dù cỡ lớn, rộng mỗi chiếc 500m2. Tinh riêng số dù lớn này đã đủ phủ kín gần 2 hecta đất.

(4) Đầu đề bài đăng báo Quân đội nhân dân xuất bản tại mặt trận Điện Biên Phủ, số 122 ngày 11.05.1954.

(5) Jules Roy, La Bataille de Dien Bien Phu.

(6) Nhật báo France Soir số ra ngày 10.5.1954 đăng “tin đặc biệt” của phóng viên báo ấy tại Hồng Kông, đã rút tít: “Trích thông báo của Bộ Tư lệnh Việt Minh về Điện Biên Phủ phát trên Đài Việt Minh”.

(7) Do chênh lệch múi giờ, Paris nhận được tin Điện Biên Phủ thất thủ vào trưa cùng ngày 7.5.1954 (theo giờ Paris).

(8) Nền Cộng hòa thứ tư trong lịch sử nước Pháp.

(9) Về Jules Roy xin xem thêm bài Một nhà văn rắc rối, tạp chí Kiến thức ngày nay, tháng 8.2000, in lại trong sách Những người tôi quý mến (2002) và Cho đến khi giã từ trần thế (2011).

(10) Về Bernard Fall, xin xem tạp chí Người Làm Báo và tạp chí Hồn Việt, bài Con đường không vui số tháng 7.2013, và Băng thu âm dang dở, số tháng 8/2013.

(11) Đề tựa bản tiếng Việt cuốn Điện Biên Phủ, một góc địa ngục của Bernard Fall,
Vũ Trấn Thủ dịch.

(12) Theo tư liệu của cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert S. Mc Navara tại hồi ký Nhìn lại quá khứ của ông, con số chính xác tháng 12.1967 là 485.000 lính Mỹ.

(13) Robert Guillain, La fin des illusions (Tan tành mọi ảo tưởng).

(14) Cuốn sách của Bernard Fall xuất bản lần đầu năm 1965 bằng tiếng Anh: The Siege of Dien Bien Phu, sau đó mới dịch ra tiếng Pháp: Dien Bien Phu, un coin d’enfer, tiếng Việt: Điện Biên Phủ, một góc địa ngục.

(15) Gồm Chiến đấu trong vòng vây, Đường tới Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, NXB Quân đội nhân dân, 2000.

(16) Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, NXB Chính trị quốc gia, 1994.

Phan Quang

Nguồn: nguoilambao.vn

Life & English: “ A new area”

There is a new area in Saigon, closed off to motorbikes, where artists and creative minds from different disciplines as well as businesses come together. This is the idea sketched out so far behind the still developing 3A Station (Alternative Art Area), located in 3A Ton Duc Thang in District 1.

3A is a 2000 square meter space in which three abandoned warehouses are being refurbished and converted into ‘spaces’ for galleries, shopping areas, consignment warehouses and coffee shops. In addition, the courtyard as well as other units will be used to host art activities and performances for the community, ranging from live music to fashion shows.

(Source: Hanoi Grapevine)

60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ: Lai lịch của một bức ảnh lịch sử quý giá

Một ngày tháng Ba năm 2014, tôi đến thăm đại tá Lê Trọng Nghĩa, nhân chứng có mặt trong Sở chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử...

Đã vào tuổi 93, nhưng giữa những chồng tư liệu lịch sử ngồn ngộn, ông vẫn nhanh nhẹn tìm ra bức ảnh “Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các sĩ quan cao cấp thông qua phương án tác chiến tại Sở chỉ huy mặt trận ở bản Nà Táu”. Ông tinh tường, sôi nổi kể lại sự kiện như vừa mới xảy ra ngày hôm qua.

… Sở chỉ huy mặt trận ban đầu đóng ở hang Thẩm Púa, vừa chuyển sang bản Nà Táu được một hôm. Theo tin quân báo, đêm 19 và 20/1/1954, quân Pháp đã phát lệnh mở Chiến dịch Atlande đánh vào Tuy Hòa (vùng tự do Khu V Trung bộ). Sau khi hội ý, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã yêu cầu toàn bộ Sở chỉ huy1 phải tiếp tục ra mặt trận thị sát. Trưởng ban Tác chiến Đỗ Đức Kiên và Cục phó Cục 2 Cao Pha cùng Tổng tham mưu phó Hoàng Văn Thái lập tức lên đường.

Theo phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” thì chỉ còn vài ngày nữa là tới “ngày N”2. Các sĩ quan có mặt vây quanh bàn lớn đặt giữa hầm có trải tấm bản đồ lớn của chiến dịch. Đại tướng (người mặc áo đại cán màu đen) đang đưa tay chỉ vào các cứ điểm của địch. Chính ngày hôm đó đã củng cố quyết tâm để Đại tướng chuyển hướng chiến lược chuyển sang phương án “đánh chắc, tiến chắc”.

Đứng chếch bên tay phải Đại tướng là đồng chí Phạm Kiệt, vốn là chỉ huy trưởng của Đội du kích Ba Tơ, Quảng Ngãi. Năm 1946 là đại đoàn trưởng 31 của Khu V, đến năm 1953 là Cục phó Cục Bảo vệ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trong cuốn “Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử”, Đại tướng đã đánh giá rất cao vai trò Cục Bảo vệ và đồng chí Phạm Kiệt khi đi thị sát chiến trường đã phát hiện việc bố trí pháo binh trên trận địa dã chiến quá trống trải, không an toàn, tránh được tổn thất rất lớn cho bộ đội. Năm 1959 đồng chí được phong hàm thiếu tướng và năm 1961 là Tư lệnh kiêm Chính uỷ Công an Vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng).

Sau lưng đồng chí Phạm Kiệt là đồng chí Trần Văn Quang, tham gia cách mạng từ 1935, đến năm 1938 là thành uỷ viên Sài Gòn-Chợ Lớn. Năm 1945, đồng chí tham gia lãnh đạo khởi nghĩa Nghệ An; chính uỷ đầu tiên của Đại đoàn 304.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí là Cục trưởng Cục Tác chiến, cơ quan giúp việc đắc lực cho Đại tướng khi hạ “quyết tâm chiến đấu”, đặc biệt là trong việc chuyển từ phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc,  tiến chắc”. Hòa bình lập lại, đến năm 1959 là Phó tổng Tham mưu trưởng; sau 1975 là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và được phong hàm thượng tướng năm 1984. Năm 1992 đồng chí được bầu làm Chủ tịch Hội CCB VN.

Sát bên tay trái Võ Tổng là đồng chí Lê Liêm, Chủ nhiệm chính trị mặt trận Điện Biên Phủ. Tháng 8/1948 nhận nhiệm vụ Cục trưởng Cục Dân quân và tháng 10/1949 thay tướng Văn Tiến Dũng làm Cục trưởng Cục Chính trị. Trong các chiến dịch Biên giới, Tây Bắc… đồng chí theo sát Võ Đại tướng với tư cách Chủ nhiệm chính trị  mặt trận.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí là Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, tham gia trong Bộ chỉ huy mặt trận. Đến năm 1958 đồng chí chuyển ra làm Thứ trưởng kiêm bí thư Đảng-đoàn Bộ Văn hoá nhưng cán bộ, chiến sĩ trong quân đội vẫn gọi với cái tên trìu mến “Tướng Lê Liêm”.

Người kề bên là đồng chí Lê Trọng Nghĩa, vốn hoạt động trong phong trào học sinh Bonnal Hải Phòng, cùng lứa với nhạc sĩ Văn Cao, nhà văn Nguyễn Đình Thi… Năm 1945, đồng chí được giao nhiệm vụ tham gia Dân chủ Đảng rồi ủy viên Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội. Tối 19/8, dưới sự chỉ đạo của 2 uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kì - Nguyễn Khang và Trần Tử Bình, Lê Trọng Nghĩa cùng cố vấn  Trần Đình Long trực tiếp vào Tổng hành dinh quân đội Nhật (nay là 33 Phạm Ngũ Lão) điều đình với viên chỉ huy chấp nhận không đụng độ vũ trang, tránh được tổn thất lớn cho Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội.

Năm 1950 được giao nhiệm vụ cục phó Cục Quân báo, và phụ trách quân báo trong Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Cục Quân báo đã cung cấp nhiều thông tin chính xác về địch để Đại tướng đưa ra phương án tác chiến đúng đắn. Năm 1958 đồng chí được phong hàm đại tá, giữ chức Cục trưởng Quân báo từ 1960-1967. Cùng với Đại tướng Nguyễn Quyết, đồng chí là một trong hai uỷ viên Uỷ ban quân sự cách mạng Hà Nội trong Tổng khởi nghĩa còn sống đến ngày hôm nay.

Thiếu tướng Lê Thiết Hùng ngồi sát bìa phải tấm ảnh, là một trong những thanh niên được Cụ Hồ gửi sang Trung Quốc học Trường quân sự Hoàng Phố (cùng Lê Hồng Phong, Nguyễn Sơn, Phùng Chí Kiên, Trương Văn Lĩnh…) năm 1926. Đầu năm 1946, đồng chí được tấn phong Thiếu tướng tiếp phòng quân, tướng lĩnh đầu tiên của nước Việt Nam mới. Những năm 1950-1954 là hiệu trưởng Trường Lục quân Việt Nam. Đầu năm 1954, trên cương vị Tổng thanh tra quân đội, đồng chí có mặt thanh tra chiến dịch.

Bộ chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận gồm Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái, Lê Liêm, Đặng Kim Giang

Người ngồi đầu bàn phía tay phải Đại tướng là đồng chí Hoàng Xuân Tuỳ. Năm 1950 là Chủ nhiệm chính trị sư đoàn 308 và cuối năm 1951 được điều về Tổng cục Chính trị làm ở Báo QĐND. Trong hội nghị Nà Táu, đồng chí có mặt để nắm thông tin, kịp đưa lên mặt báo tuyên truyền động viên bộ đội bước vào chiến dịch.

Có một câu chuyện vui, đúng ngày 29 Tết Quý Tỵ (2/2/1954) đám cưới nhà binh của Tổng biên tập Hoàng Xuân Tuỳ và diễn viên Song Ninh được tổ chức ngay tại mặt trận. Anh em trong cơ quan vội chặt tranh tre, nứa lá dựng cho đôi tân hôn căn chòi hạnh phúc. Chủ nhiệm Chính trị mặt trận Lê Liêm đứng ra làm chủ hôn. Võ Tổng nghe tin cũng sang dự và mừng hạnh phúc.

Hòa bình lập lại, năm 1956, đồng chí được điều ra làm hiệu phó, rồi hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà Nội. Từ 1965-89 liên tục là thứ trưởng Bộ Đại học, đến năm 1990 thì nghỉ hưu.

*

Khi chia tay, lão tướng Lê Trọng Nghĩa không khỏi bồi hồi: “Thế mà đã 60 năm!… Sau này trong nhiều lần gặp mặt các chiến sĩ Điện Biên, ca sĩ Song Ninh vẫn được đến phục vụ Đại tướng. Bài mà ông luôn yêu cầu hát lại là “Tình ca Tây Bắc” – ông trầm ngâm nhắc lại lời bài hát – “Rừng cây xanh lá muôn đóa hoa mai mừng đón xuân về. Vui trong nắng vàng từng đàn bướm trắng bay khắp rừng hoa… Trong số những người có mặt hôm đó tại Sở chỉ huy ở bản Nà Táu giờ còn lại mỗi mình tôi…

Có thể tự hào mà nói rằng, các đồng chí có mặt hôm ấy luôn là những chiến sĩ trung kiên trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và cả thời kì xây dựng quân đội lên chính quy hiện đại. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có một đội ngũ cán bộ giúp việc tuyệt vời!

Tiếc là Người anh cả của lực lượng vũ trang nhân dân ra đi năm trước, không được chứng kiến lễ kỉ niệm trọng đại này…”.

Tháng 4/2014

Kiến Quốc

Nguồn: baophunuthudo.vn

Choáng ngợp với kho đồ công nghệ từ thời Xô Viết

Bạn có thể tận mắt nhìn thấy máy tính và những món đồ công nghệ khác từ thời Xô viết có hình dáng ra sao?

Hình ảnh về mạng nội bộ của Liên Xô cũ. Những chiếc máy tính thời kỳ này giống như những bản sao y hệt nhau.
Máy in của Liên Xô đồ sộ, nhìn bề ngoài không khác máy in ngày nay là mấy.
Đây là hình ảnh bộ xử lý trung tâm của hệ thống công nghệ thời Liên Xô.
Chiếc máy này được gọi là máy “đa nhiệm”, có các chức năng chạy (start), tua lại (rewind), dừng (pause).
Chuột máy tính thời Xô viết có hình dáng như thế này.
Đĩa từ
Khu vực lưu trữ băng dữ liệu.
Trung tâm thông tin của viện Nga năm 1982, cho thấy hình ảnh máy tính ES-1022, có bộ nhớ RAM 512 Kb, xử lý được 80.000 phép tính mỗi giây.
Phiếu cơ toán (bìa để sử dụng máy điện toán văn phòng), một sản phẩm công nghệ huyền thoại.
Dàn máy tính cổ từ thời Liên Xô cũ.
Những món đồ công nghệ này từng là niềm tự hào của Liên Xô một thời.
Một trong những đồ công nghệ của Xô viết.
Dàn máy hoành tráng.

Lưu Thoa

(theo ER)/kienthuc.net.vn

Gặp người thân cố vấn quân sự Trung Quốc tại Điện Biên

Trên tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ, nhiều người vui mừng tới bắt tay chào bà Hứa Kỳ Sảnh, phu nhân của Thượng tướng Vi Quốc Thanh, nguyên trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, nhận lời mời của Bộ Quốc phòng và Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Đoàn thân nhân gia đình các cựu chuyên gia, cố vấn Trung Quốc do đồng chí Tề Kiến Quốc, Phó Hội trưởng Hội hữu nghị Trung - Việt làm Trưởng đoàn sang thăm Việt Nam từ ngày 22-29/4/2014.

Được biết, trong đoàn thân nhân gia đình các đồng chí cựu chuyên gia, cố vấn quân sự Trung Quốc có bà Hứa Kỳ Sảnh, phu nhân của Thượng tướng Vi Quốc Thanh, nguyên trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Bà Hứa Kỳ Sảnh năm nay đã 84 tuổi và là người lớn tuổi nhất trong đoàn.

Những ngày ở Điện Biên, đoàn đã đi thăm di tích Mường Phăng, nơi đặt sở chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ; tới viếng liệt sĩ tại Nghĩa trang A1; thăm tượng đại Chiến thắng và một số di tích khác.

Đoàn thân nhân gia đình các đồng chí cựu chuyên gia, cố vấn quân sự Trung Quốc tới thăm Điện Biên

Tại tượng đài Chiến thắng Điện Biên, trên đỉnh đồi D1, nhiều người đã nhận ra phu nhân của Thượng tướng Vi Quốc Thanh, họ rất vui mừng được gặp bà đúng vào dịp kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên - cuộc chiến có nhiều đóng góp của các đồng chí chuyên gia, cố vấn quân sự Trung Quốc. Bà Hứa Kỳ Sảnh rất thân thiện chào lại và vui vẻ chụp những tấm hình lưu niệm với mọi người.

Cũng trong dịp thăm Điện Biên, bà Hứa Kỳ Sảnh được chăm sóc rất đặc biệt. Đoạn đường đi bộ từ Ban quản lý di tích vào Sở chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ ở Mường Phăng có nhiều đoạn dốc, cầu nhỏ qua suối, biết bà có tiền sử bệnh tim mạch nên Ban tổ chức đã thuyết phục mời bà ngồi xe lăn để các chiến sĩ khiêng…

Bà Hứa Kỳ Sảnh, phu nhân của Thượng tướng Vi Quốc Thanh (đứng giữa)

Được biết, trước khi tới Điện Biên, ngày 24/4, tại Trụ sở Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã thân mật tiếp Đoàn. Thay mặt lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phùng Quang Thanh chào mừng Đoàn sang thăm Việt Nam, tin tưởng chuyến thăm lần này góp phần làm sâu sắc hơn tình cảm gắn bó sâu đậm giữa nhân dân hai nước. Đại tướng Phùng Quang Thanh bày tỏ lòng biết ơn đối với những cống hiến to lớn của các đồng chí chuyên gia, cố vấn quân sự Trung Quốc; trân trọng cảm ơn Đảng, Chính phủ Trung Quốc đã cử những cán bộ, tướng lĩnh sang giúp đỡ  Việt Nam trong những thời điểm khó khăn nhất, quan trọng nhất, đồng thời khẳng định thắng lợi của cách mạng Việt Nam không thể tách rời sự giúp đỡ to lớn về người và vật chất của các nước XHCN, trong đó có sự giúp đỡ to lớn của Trung Quốc.

Bà Hứa Kỳ Sảnh cho biết: "60 năm trước khi nhận lệnh sang Việt Nam tham gia chiến dịch ông ấy (ông Vi Quốc Thanh - PV) rất vui mừng. Khi Việt Nam giành được chiến thắng Điện Biên Phủ, ông Thanh chưa về nước ngay vì Bác Hồ nói với Chủ tịch Mao Trạch Đông là ông Thanh có thể ở lại để giúp Việt Nam xây dựng quân đội trong các giai đoạn tiếp theo. Mùa xuân 1956 ông ấy mới về nước. Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất lưu luyến khi chia tay”.

Theo Hồi ức của Trương Đức Duy, Nguyên Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam; Văn Trang, Nguyên cán bộ Đoàn Cố vấn Trung Quốc tại Việt nam; Vương Đức Luân, Nguyên cán bộ Đoàn Cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam công bố nhân dịp 50 năm (7/5/1954-7/5/2004) Chiến thắng Điện Biên Phủ, những kỷ niệm trong chiến dịch Điện Biên Phủ được nhắc tới rất sống động:

Năm 1949, khi cuộc Chiến tranh chống Pháp của Việt Nam bước vào giai đoạn cầm cự, cuộc đấu tranh ở vào thời khắc vô cùng gian khổ, nặng nề, cuộc Chiến tranh giải phóng của nhân dân Trung Quốc giành được thắng lợi mang tính toàn quốc, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tuyên bố thành lập. Sự kiện này tạo ra hoàn cảnh vô cùng có lợi cho sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam, cũng khiến cho Trung Quốc có khả năng ra sức chi viện cho cuộc kháng chiến của Việt Nam.

Bà Hứa Kỳ Sảnh và đoàn người thân nhân gia đình các đồng chí cựu chuyên gia, cố vấn quân sự Trung Quốc ở tượng đài Chiến thắng.

Tháng 1/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không từ gian khổ nguy hiểm, vượt núi băng sông, đi bộ tới Trung Quốc, lần lượt cùng với Chủ tịch Mao Trạch Đông và cá đồng chí lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức, v.v… thương nghị vấn đề Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam kháng chiến.

Ngay sau đó, Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định ra sức chi viện cuộc Chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, đồng thời lập tức cử đồng chí La Quý Ba, Chủ nhiệm Văn phòng Quân uỷ Trung ương làm Đại biểu liên lạc của Đảng Cộng sản Trung Quốc đi trước sang Khu giải phóng Việt Nam tìm hiểu tình hình, để cung cấp viện trợ.

Tiếp theo, lần lượt cử Đại tướng Trần Canh thay mặt Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đoàn Cố vấn Quân sự do Thượng tướng Vi Quốc Thanh đứng đầu và Đoàn Cố vấn Chính trị do đồng chí La Quý Ba đứng đầu, sang Việt Nam giúp đỡ Việt Nam kháng chiến….

Sự hợp tác thân mật của tình bạn chiến đấu Việt Trung đã được thể hiện đầy đủ nhất trong chiến dịch này. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Tổng chỉ huy chiến dịch. Đồng chí Vi Quốc Thanh là Tổng cố vấn quân sự. Cố vấn quân sự các cấp của phía Trung Quốc ra tiền tuyến dốc toàn lực hiệp tác giúp đỡ. Sự hợp tác giữa hai bên vô cùng ăn ý, cùng tiến hành nghiên cứu bố trí tác chiến, phương pháp tác chiến, vận dụng chiến thuật, kế hoạch rất chu toàn bí mật…

Bà Hứa Kỳ Sảnh năm nay đã 84 tuổi và là người lớn tuổi nhất trong đoàn.Ban tổ chức đã rất chu đáo chăm sóc bà.

Bà Hứa Kỳ Sảnh năm nay đã 84 tuổi và là người lớn tuổi nhất trong đoàn.Ban tổ chức đã rất chu đáo chăm sóc bà.

 Khổng Nhung - (Ảnh:Phong Doanh)

VNMedia

Những ngày đáng nhớ ở Sơn La - Điện Biên Phủ

(ICTPress) - Háo hức, chờ đợi và nhiều chuẩn bị, rồi cũng đến ngày đoàn nhà báo Thông tin và Truyền thông đã được đến với Tây Bắc và Điện Biên Phủ nhân dịp 60 năm kỷ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ.

20 nhà báo gồm những người đã nhiều năm làm báo và cả những người mới vài tuổi nghề đã chuẩn bị đầy đủ trang thiết bị tác nghiệp và lên đường vào một sớm tinh mơ từ Hà Nội.

Đây là lần thứ hai Liên chi hội nhà báo TT&TT tổ chức cho các nhà báo đến với Điện Biên Phủ. Lần trước vào dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.

Được xem là một dịp sinh hoạt tập thể lớn và một cơ hội quý báu đến với mảnh đất lịch sử này trong dịp kỷ niệm một chiến thắng lẫy lừng 5 châu, các nhà báo đã không từ bỏ một cơ hội nào được “khám phá” và tìm hiểu về Tây Bắc, về Điện Biên Phủ để làm nên một chuyến đi ý nghĩa.

Nhà tù Sơn La - địa chỉ đỏ về đấu tranh cách mạng

Đầu tiên của cuộc hành trình, chúng tôi đến với Sơn La và điểm đến thăm đầu tiên là nhà tù Sơn La. Quả thực trước khi đến hay lúc mới chỉ đứng bên ngoài nhà tù Sơn La chúng tôi đã không thể hình dung và tưởng tượng được những gì đã từng diễn ra chỉ sau bức tường kia. Cứ theo những gì được kể lại và lật giở những ghi chép trưng bày tại nơi đây, chúng tôi không khỏi “rùng mình” ớn lạnh bởi sự man rợ, xảo quyệt của kẻ thù đày ải các chiến sĩ cách mạng của dân tộc ta.

Trong quá trình xâm lược và thiết lập chế độ thuộc địa ở Việt Nam, Thực Dân Pháp đã phải đương đầu với sức phản kháng quyết liệt của dân tộc Việt Nam anh hùng. Chúng đã dựng lên hàng loạt nhà tù, trong đó có Nhà tù Sơn La nhằm hủy diệt lực lượng lãnh đạo cách mạng và phong trào quần chúng và thủ tiêu ý trí đấu tranh của nhân dân.

Ảnh: Đức Huy
Các nhà báo TT&TT thăm nhà tù Sơn La

Tại nhà tù Sơn La, Thực Dân Pháp đã thực hiện âm mưu thâm độc là lợi dụng khí hậu khắc nghiệt của gió Lào thổi qua, chế độ ăn uống kham khổ làm cho chân tay bị phù thũng rồi lại bị cùm chặt đến đau đớn, chế độ lao tù hà khắc 3 người trong một chỗ giam cao, rộng chỉ 1m gồm cả chỗ vệ sinh, lao động khổ sai cực nhọc…  để giết dần, giết mòn cả thể xác lẫn tinh thần của người tù chính trị, điều đó đã thể hiện đầy đủ trong báo cáo của Công Sứ Sơn La Xanh-Pu-Lốp gửi Thống sứ Bắc kỳ: "chỉ cần một thời gian không lâu, sốt rét, bệnh tật và công việc khổ sai sẽ tiêu hao chúng một cách êm thấm…".   Tàn nhẫn hơn chúng dùng chế độ vật chất để mua chuộc biến những người lạc hậu thành hàng rào bao vây nhà tù, ngăn cách những người tù chính trị với đông đảo quần chúng nhân dân và lợi dụng sự khác nhau về phong tục tập quán, về ngôn ngữ để ngăn cản tuyên truyền cách mạng của các tù chính trị.

Nhưng trong hoàn cảnh giam cầm khốc liệt, mô hình tổ chức chặt chẽ, có hiệu quả của những người Đảng cộng sản như ở Nhà tù Sơn La, và cũng ở nơi đây đã đào tạo cho cách mạng, cho Đảng nhiều cán bộ lãnh đạo xuất sắc như: các đồng chí Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu, Tô Hiệu, Lê Thanh Nghị, Đặng Việt Châu, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Trân… và rất nhiều đồng chí giữ các cương vị trọng trách trong các cơ quan Đảng và Nhà nước ta đều thử thách, rèn luyện và trưởng thành từ Nhà ngục Sơn La, trong đó có đồng chí Trần Quang Bình, Khu ủy viên - Tổng Cục trưởng Tổng Cục Bưu điện, Thứ trưởng Bộ giao thông đường bộ.

Đột nhập “Thủy điện Sơn La”

Rời nhà tù Sơn La, chiều Tây Bắc đã dịu nắng, chúng tôi thẳng hướng về phía nhà máy Thủy Điện hơn mươi km nữa. Các nhà báo của Đoàn gần như “đột nhập” vào Thủy điện Sơn La bởi không có khách tham quan nào khác ngoài chúng tôi như phóng sự ảnh của nhà báo Khổng Nhung, Đức Huy, báo điện tử VNMedia đã đưa tin.

Nhà báo Phong Doanh, Vietnamnet cho biết trước chuyến đi này nhà báo đã từng đến Thủy Điện Sơn La nhưng không được vào dù đã trình thẻ nhà báo. Lần này với sự giúp đỡ của cán bộ Viễn thông Sơn La, đoàn đã được “đột nhập” có phép vào Thủy điện Sơn La.

Được khánh thành ngày 23/12/2012, Thủy điện Sơn La đã gây sự chú ý bởi tiến độ về đích sớm trước 3 năm so với Nghị quyết Quốc hội, đồng thời ghi nhận một công trình có quy mô đồ sộ nhất Việt Nam và Đông Nam Á, với tổng công suất là 2.400 MW, gồm 6 tổ máy (mỗi tổ máy 400MW), với sản lượng điện cung cấp trung bình hàng năm là 10,246 tỷ kWh.

Theo Tập đoàn Điện lực, công trình thủy điện Sơn La không có chuyên gia nước ngoài hỗ trợ nhiều như thủy điện Hòa Bình, mà chỉ có chuyên gia giám sát cùng với chuyên gia Việt Nam.

Thăm Thủy điện Sơn La

Có đi có chứng kiến tận mắt mới chúng tôi mới cảm nhận thật rõ tầm vóc của Thủy Điện Sơn La đã đi vào hoạt động được hơn một năm.

Chạy đua với thời gian tại Điện Biên Phủ

Trên đường từ Sơn La lên Điện Biên, với người lái xe thông thuộc địa hình chúng tôi đã đến với Mường Phăng để thăm Di tích Chiến dịch Điện Biên Phủ bằng một con đường nhỏ trong rừng. Đi trên con đường nhỏ trong rừng có lẽ đã làm không ít thành viên trong đoàn liên tưởng và hình dung về nơi kín đáo này bao nhiêu năm về trước đã che chở cho bội đội ta để làm nên chiến thắng.

Chúng tôi đến Di tích Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ, nằm cách trung tâm xã Mường Phăng khoảng 2km về phía đông. Trong buổi trưa nắng gay gắt, nhưng dòng người vẫn đổ về nơi đây, đông nhất vẫn là các cựu chiến binh quần áo gọn gàng, huân chương lấp lánh và trên cả là những tình cảm cuộn tràn mà dễ dàng có thể nhận thấy. Người viếng thăm nơi đây đi trên con đường rải đá nhỏ quanh co và cả những dòng suối nhỏ để đến Lán làm việc của Ban Thông tin chiến dịch Điện Biên Phủ, Hầm tổng đài điện thoại, hầm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hầm thiếu tướng Hoàng Văn Thái, nhà Hội trường, hầm ban chính trị … Trong những chiếc lán nhỏ bé, đơn sơ đó, 60 năm trước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí của mình đã chỉ huy chiến dịch lập nên Chiến thắng chấn động địa cầu. Nơi đây, dường như bóng dáng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn cùng với núi rừng Điện Biên Phủ.

Bên lán ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam kiêm Chỉ huy trưởng Chiến dịch Điện Biên Phủ
Đường hầm xuyên núi dài 96m nối liền lán của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái

Tiếp tục hành trình đến với các di tích chúng tôi đi thăm Tượng đài chiến thắng và được nghe giới thiệu về những đóng góp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi xây dựng tượng đài; Đồi A1 với những dấu ấn là trận chiến mở màn quan trọng của Chiến dịch Điện Biên Phủ, ta giành giật chiếm giữ với địch từng thước đất, nghĩa trang Điện Biên Phủ đồi A1 với 50.000 liệt sĩ được ghi danh, Hầm Đờ Cát…

Viếng nghĩa trang liệt sỹ Điện Biên Phủ, ở Đồi A1

Và một di tích lịch sử cấp quốc gia mà chúng tôi đã may mắn đến được khi trời đã trở tối. Đó là Thành Bản Phủ thuộc xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên được xây dựng vào những năm 1758 đến 1762, cách thành phố Điện Biên Phủ 12km về phía Nam.

Đến thăm và tìm hiểu Thành Bản Phủ. Ảnh: Xuân Phong

Thành là chứng tích ghi dấu mốc lịch sử về công cuộc đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng Mường Thanh do tướng Hoàng Công Chất lãnh đạo vào thế kỷ 18. Sau khi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình Lê - Trịnh tại vùng đất thuộc Thái Bình ngày nay, ông đã đưa nghĩa quân lên vùng Tây Bắc, liên kết, phối hợp với hai tướng địa phương là tướng Ngải, tướng Khanh lãnh đạo nhân dân đánh bại cuộc xâm lược của giặc Phẻ, giải phóng hoàn toàn Mường Thanh vào năm 1754. Đền thờ Hoàng Công Chất được xây dựng ở trung tâm thành  Bản Phủ. Đây là nơi ghi nhận công lao to lớn của Hoàng Công Chất - người có công xây dựng và bảo vệ miền biên cương, chống lại sự xâm lăng của giặc ngoại bang lúc bấy giờ.

Với hành trình đến thăm nhiều “địa chỉ đỏ”, mỗi nhà báo đã có cơ hội thực tế mà như nhà báo  Vũ Văn Tỵ, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Tem đã chia sẻ cho biết chuyến đi không chỉ đưa các nhà báo, nhất là các nhà báo trẻ đến với Tây Bắc, Điện Biên để tận mắt thêm hiểu lịch sử, con người, văn hóa Tây Bắc, Điện Biên mà các nhà báo cũng truyền tải “luôn và ngay” các thông tin về Điện Biên đến với bạn đọc.

Dù mệt do đi lại như con thoi và thời tiết nóng bức của vùng Tây Bắc, chúng tôi đã tranh thủ mọi khoảnh khắc từ sáng sớm, tối cơm xong lại đến với các di tích, các địa điểm đang thực hiện các chuẩn bị tổ chức các sự kiện kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ để tranh thủ ghi lại nhiều nhất những gì có thể về Điện Biên Phủ trong những ngày này.

Bạn đọc có thể đọc thêm các bài viết:

Hầm chỉ huy bí mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp:

http://beta.vnmedia.vn/VN/xa-hoi/tin-tuc/ham-chi-huy-bi-mat-cua-dai-tuon...

Chiêm ngưỡng con đường đẹp bậc nhất Điện Biên Phủ:

http://infonet.vn/chiem-nguong-con-duong-dep-bac-nhat-dien-bien-phu-post128457.info

Đẹp nao lòng sắc phượng sớm trên vùng trời Tây Bắc:

http://infonet.vn/dep-nao-long-sac-phuong-som-tren-vung-troi-tay-bac-post128353.info

"Đột nhập" vào công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á:

http://vnmedia.vn/VN/kinh-te/tin-tuc/26_2430912/dot_nhap_vao_cong_trinh_thuy_dien_lon_nhat_dong_nam_a.html

Rùng mình vào nơi “tù nhân chết nhanh nhất không cần đánh đập:

http://infonet.vn/rung-minh-vao-noi-tu-nhan-chet-nhanh-nhat-khong-can-da...

Khám phá con đường mang "linh hồn" Điện Biên Phủ:

http://vnmedia.vn/VN/xa-hoi/tin-tuc/23_2435797/kham_pha_con_duong_mang_q...

Đoàn nhà báo Bộ Thông tin và Truyền thông công tác tại Điện Biên:

http://www.vnmedia.vn/NewsDetail.asp?NewsId=2449579&CatId=23

Những "bông hoa" núi rừng Tây Bắc mê hoặc khách du lịch:

http://infonet.vn/nhung-bong-hoa-nui-rung-tay-bac-me-hoac-khach-du-lich-...

Có nhà báo cũng đã kịp thời có những bài thơ trong hành trình này như nhà báo Đăng Tấn, Báo điện tử VietnamNet với hai bài tựa đề “Vẫn thắm một sắc hoa” và “Gặp cựu binh Điên Biên” và các nhà báo vẫn đang tiếp tục viết về Tây Bắc, Điện Biên.

 Lan Phương

Life & English: “UNESCO International Fund for the Promotion of Culture”

30 May is deadline to apply for funding from UNESCO with the amount of assistance from US $20,000 to US $100,000

The projects’ priority is given to:

- projects submitted by young creators aged 18 to 30 years and to projects aimed at benefitting youth;

- project contributes to gender equality;

- project aims to promote forms of expression that, despite their value to the community or country of origin, are relatively under-represented on the global arts scene and therefore deserve support;

- project aims to promote peace, social stability and cultural diversity.

And priority shall be given, as far as possible, to requests from or benefiting countries on the latest DAC List of Official Development Assistance Recipients.

Are you an artist or creator? An NGO or a non-profit private or public body, whose activities contribute to the promotion of culture and artistic creation? If your project is compliant with the criteria indicated in the Operational Guidelines of the International Fund for the Promotion of Culture (IFPC), you can submit your project application and be considered in order to benefit from the financial support of the Fund. The amount of assistance required is between US $20,000 and US $100,000 and covers no more than 80% of the total project budget.

(Source: http://hanoigrapevine.com)

Đi tìm kỷ vật 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ

(ICTPress) - Những thông tin cuối cùng về ngày phát hành bộ tem “Kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (1954 - 2014)” rồi thì cũng đã được công bố đáp ứng sự mong đợi của nhiều người. Đó là ngày 5/5/2014, trước buổi lễ kỷ niệm chung của cả nước hai ngày. Lễ phát hành đặc biệt bộ tem đó sẽ còn được tổ chức ngay trên mảnh đất mà 60 năm trước đã từng xảy ra sự kiện “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”.

…Giờ đây, dù mới chỉ là những ngày cuối tháng tư mà dọc đường 6 qua Hòa Bình lên  Sơn La,… rồi Thuận Châu, qua đèo Pha Đin sang đất Tuần Giáo… qua đâu người ta cũng gặp từng đoàn xe mang cờ chăng khẩu hiệu chở người tiến lên phía Điện Biên. Trên xe là những “anh bộ đội” nghiêm chỉnh trong các bộ quân phục còn tươi mới, ngực đỏ huân chương nhưng lưng còng, tóc bạc… nhiều cụ còn có cả máy ảnh, máy quay phim… Những chuyến xe đó đi tới đâu là cũng thấy râm ran câu chuyện, đầy ắp tiếng cười. Họ là những “chiến sỹ Điện Biên Phủ” đang cùng đồng đội trở lại thăm chiến trường xưa… Nhiều cụ còn dắt theo cả đứa cháu nhỏ hoặc có người nhà đi cùng để chăm sóc. Đoàn xe đi chậm, dừng lâu cho các cụ còn có thời gian hồi niệm. Đến quãng nghỉ nào các cụ cũng đứng kín cả quãng đường chỉ trỏ bàn tán. Quang cảnh nào đối với họ hôm nay cũng thấy như vừa lạ lại vừa quen …

Giữa đỉnh đèo Pha Đin, mấy doanh nghiệp năng động đã chăng đầy những chiếc áo phông trắng lốp, những chiếc mũ tai bèo mới tinh có in dòng chữ “Kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ” với tiếng loa mời chào liên tục. Mọi người nao nức vào mua. Có cụ đầu đã mang 1 chiếc  mũ lại còn quàng thêm vào tay 2, 3 chiếc nữa trông vui đáo để … Trên đỉnh ngọn đồi ven con đường dẫn qua Cổng Trời từ lâu đã sẵn có một chiếc cột  anten của VNPT thấp thoáng trong sương mù thì giờ đây cách đó có dăm chục mét, lại xuất hiện thêm một chiếc cột thứ hai của Viettel. Cả hai đều như đang muốn đua nhau “vươn lên tầm cao mới”…

… Hai cụ già dắt nhau ra bờ đèo chỉ trỏ về phía dốc Tằng Quái như đang muốn ôn lại một câu chuyện gì đó. Một cụ bảo: “Cậu Tiến tiểu đội tôi, hồi đó bị mìn cụt bàn chân chắc ông còn nhớ. Về quê chẳng làm ăn được gì, con cái bây giờ cũng nghèo… Chắc khó mà có dịp lên được đây…”. Rồi lặng lẽ cúi xuống nhặt một viên cuội, tay xoa xoa cho bớt đất cát rồi cụ bước ra vệ cỏ lượm lấy một chiếc túi ni lông khách vứt bừa bãi ven đường để bỏ vào. Buộc chắc chiếc túi, cụ còn không quên dằng dằng chiếc nút trước khi cẩn thận móc vào ngón tay út chắc để lát nữa mang lên xe… Chợt một cụ nhìn về phía 2 chiếc cột anten như đang tìm kiếm cái gì rồi bảo: “Để lát nữa lên trên kia, ông với tôi viết chung một bức thư gửi về cho nó, nhận được chắc nó mừng lắm! Ngày xưa đẹp trai, tán như khiếu… giờ thì dễ cũng đến 82, 83 rồi chứ ít…”. Trong ký ức của cụ hễ có anten thì đúng là bưu điện rồi và… đã là bưu điện ắt phải có chỗ gửi thư…! Nhưng giờ đây quả thật nhiều điều đã khác xưa…    

… Vâng, vậy thì năm nay khi lên tới Điện Biên, các cụ, “khách thập phương” trong nước ngoài nước… muốn tìm một kỷ vật đánh dấu cho chuyến đi của mình thì nếu còn băn khoăn giữa việc lựa chọn những chiếc khăn, chiếc áo thổ cẩm dệt bằng máy, đến cái móc chùm chìa khóa… mà chẳng rõ nguồn gốc tự đâu thì lần này có thể tìm đến với những con tem kỷ niệm 60 năm giải phóng Điện Biên Phủ để đóng dấu mang các địa danh của mảnh đất lịch sử này để gửi cho bè bạn khắp năm châu cũng là một việc làm có ý nghĩa.

Bộ tem kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (1954 - 2014) do họa sỹ Trịnh Quốc Thụ thiết kế
Blốc bộ tem "Kỷ niệm 30 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ": Bộ chỉ huy và bản đồ mặt trận do họa sỹ Huy Toàn thiết kế
Bộ tem "Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (1954 - 2014)" do họa sỹ Vũ Kim Liên thiết kế

Được biết Hội Tem Việt Nam cũng đã thông báo cho tất cả hội viên để những ai có nhu cầu sưu tầm những chiếc phong bì phát hành ngày đầu tiên bộ tem Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ được gửi đi từ các bưu cục gắn liền với các địa danh nổi tiếng như Đồi A1, Sở Chỉ huy Mường Phăng, Bản Tông Cọ… thì đăng ký. Phải chăng đây cũng là một hoạt động có ý nghĩa và đáng chú ý trong chuỗi các hoạt động kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ năm nay?...

Minh Chí

Đại tướng bên bàn làm việc

Đây là tên một tác phẩm điêu khắc chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang được chú ý đặc biệt trong những ngày này.

Bức tượng Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong triển lãm

Một bức tượng đặc biệt

Triển lãm “Điện Biên Phủ - Đại tướng - Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp qua các tác phẩm nghệ thuật” khai mạc sáng 27/4 tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Triển lãm có quy mô khiêm tốn với hơn hai chục tác phẩm hầu hết mới công bố. Hình ảnh Đại tướng đã quá quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam, các tác phẩm mới cũng không tham vọng vượt qua điều đó.

Thân thuộc song vẫn hết sức đặc biệt. Đó là ý kiến của người xem khi chiêm ngưỡng bức tượng “Đại tướng bên bàn làm việc”. Tượng làm bằng chất liệu silicon, theo tỷ lệ 1:1, mô phỏng Đại tướng đang ngồi làm việc, mắt hơi nhìn xuống rất có hồn. Đại tướng mặc áo lính, vai đeo quân hàm, một tay đặt trên cuốn sách bìa đỏ. Tay kia cầm bút, đang dừng viết để suy tư.

Nhà điêu khắc Trần Văn Thức, tác giả bức tượng cho biết đã có ý tưởng khắc hoạ chân dung Đại tướng từ rất lâu rồi. Sinh nhật cuối cùng của Đại tướng, anh tới nhà riêng thăm ông và đề xuất ý tưởng. Ông lúc đó tuy mệt song vẫn rất anh minh.

Sau khi Đại tướng từ trần, anh Thức lập tức bắt tay vào sáng tác. 6 tháng, 10 tác phẩm, 8 cái đưa vào triển lãm. Tâm huyết nhất cũng thành công nhất chính là bức tượng Đại tướng ngồi làm việc.

Để hoàn thành tác phẩm này, tác giả đã dựa trên rất nhiều tư liệu ảnh Đại tướng lúc sinh thời, tham gia các hoạt động tưởng niệm ông. Trong quá trình đi về quê Đại tướng, những câu chuyện kể làm tăng nguồn năng lượng trong anh. Anh miệt mài chỉnh sửa, chắt chiu từng chi tiết cho tới khi hoàn thành tác phẩm.

Anh Thức cho biết “Mọi thứ cứ thay đổi liên tục, dần dần cũng cảm nhận được điều mình muốn. Đó là làm sao lột tả hết tinh thần của Đại tướng”. Mục đích cuối cùng là cho công chúng thấy hình ảnh Đại tướng hào hùng mà trầm lắng, cũng rất đời.

Tinh thần của vị Đại tướng nhân dân

“Giống thật. Nhất là đôi mắt, rất có hồn”. Một sinh viên kiến trúc thốt lên sau hồi ngắm nghía tượng Đại tướng làm bằng chất liệu silicon.

Theo lời Trinh, sinh viên tình nguyện của triển lãm, thì hầu hết mọi người lúc bước vào đều có chung phản ứng. Ai cũng khen tượng “giống quá, giống hệt” Đại tướng “văn đức quán nhân tâm” (Lấy “văn đức” để chinh phục nhân tâm cả nhân loại - Lời chúc thọ của giáo sư Vũ Khiêu).

“Lúc dựng chân dung Đại tướng, tôi muốn chỉnh ánh mắt sắc lên cho khỏe mạnh, thể hiện hào khí của một vị tướng. Rất ít người ủng hộ vì ngoài đời Cụ rất hiền. Mình tin vào trực giác qua xem các ảnh tư liệu thấy tinh thần Cụ rất khỏe. Như một nhà báo nước ngoài có nói, Đại tướng luôn có lửa ngầm bên trong”

Nhà điêu khắc Trần Văn Thức

Nói “hầu hết” bởi cũng có ý kiến trái chiều. Một hướng dẫn viên của bảo tàng (xin giấu tên) đã “trực tiếp gặp bác Giáp nhiều lần”, vào gian trưng bày với tư cách khách tham quan, khẳng định “tượng không có thần thái của Đại tướng.

Là Đại tướng nhưng mắt bác rất hiền và gương mặt rất phúc hậu. Nhìn qua hoặc ai chưa gặp, hoặc mọi người xem trên ảnh có thể thấy giống, nhưng từng gặp trực tiếp thì không thấy giống. Bác Giáp rất khác thường (đặc biệt), không bình thường như mọi người”.

Được hỏi về ý kiến này, anh Thức nhận định rằng: “Nghệ thuật tùy vào cái nhìn của mỗi người. Nếu cố gắng khắc họa sao cho thật giống dễ thành ra khác biệt hẳn. Khi nhìn thật sâu, thật kỹ, hình ảnh trước mắt có thể thay đổi hoàn toàn. Đó là một cái tật của thị giác”. Tác giả cố gắng lột tả thần thái của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Để nhìn ở bất cứ góc độ nào, đều có cảm giác Đại tướng vẫn đang bên cạnh chúng ta.

Bác Tác, một cựu chiến binh sau khi nhìn ngắm bức tượng rất lâu, nói “ Tôi là đồng đội cũng là đồng hương. Nhà tôi trong quê cách nhà bác ba cây số, cùng cái dải hình chữ nhất dọc con sông. Tôi vào nhà bác mấy lần. Khẳng định bức này là lúc bác 90, 95 tuổi. Càng nhìn càng thấy giống”.

Với bức tượng “Đại tướng bên bàn làm việc” tác giả đã sử dụng tóc thật, cấy tỉ mỉ từng sợi, phối màu mô phỏng chân thực nhất mái tóc của Đại tướng. Để hoàn thành tác phẩm, tác giả đã dựa vào rất nhiều bức ảnh tư liệu, tham vấn người thân của Đại tướng và các nhiếp ảnh gia từng chụp ông lúc sinh thời.

Trung Dũng

Nguồn: tienphong.vn

Tìm đọc sách hay về Điện Biên Phủ

(ICTPress) - Cách đây 60 năm, chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam đã khiến thế giới sửng sốt, khâm phục, bởi đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa ở châu Á đã chiến thắng một nước đế quốc phương Tây trong một trận quyết chiến chiến lược.

Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là một sự kiện vĩ đại của nhân dân Việt Nam mà còn là bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trên thế giới, chấm dứt ách thống trị lâu dài của thực dân Pháp ở Đông Dương. Đến nay, đã có nhiều cuốn sách, nhiều bài báo đánh giá, phân tích về sự kiện lịch sử vĩ đại này.

Cuốn sách "Kể chuyện Điện Biên Phủ 1953 - 1954" do TS. Sử học Nguyễn Văn Khoan - nguyên Giám đốc Bảo tàng Thông tin - sưu tầm tài liệu, biên soạn và xuất bản vừa được Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông (TT&TT) ra mắt, gồm nhiều bài viết sâu sắc và hóm hỉnh về những giai thoại bên kia chiến tuyến; những bài báo của ta và Pháp bình luận về chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta; những tấm gương điển hình của quân và dân ta, đại diện cho những con người làm nên lịch sử ngày 07/5/1954 - một chiến thắng được ví như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa lừng lẫy.

Cuốn sách mới đây đã được dịch và xuất bản bằng tiếng Anh, nhằm phục vụ bạn đọc trên toàn thế giới. Bởi cuốn sách là tư liệu quý báu giúp cho mỗi người dân Việt Nam và bạn đọc trên toàn thế giới có cái nhìn toàn diện hơn về trận chiến Điện Biên Phủ; góp phần làm cho kho tư liệu về những chiến thắng lịch sử của dân tộc thêm phong phú, sinh động hơn.

Bạn đọc quan tâm cùng chủ đề có thể tìm đọc “Điện Biên Phủ - Trận thắng thế kỷ” cũng do Nhà xuất bản TT&TT xuất bản.

Cuốn sách “Điện Biên Phủ - Trận thắng thế kỷ” do Thượng tướng - GS. Hoàng Minh Thảo làm chủ biên. Cuốn sách được tập thể những nhà sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn từ những công trình đã được ấn hành, trong đó có sử dụng nhiều tư liệu của các hãng thông tấn báo chí, của các nhà bình luận quân sự và nghiên cứu lịch sử nước ngoài.

Cuốn sách được chia làm 4 phần (Phần 1: Thế trận; Phần 2: Quyết chiến; Phần 3: Bài học và ý nghĩa lịch sử; phần 4: Phụ lục). “Điện Biên Phủ - Trận thắng thế kỷ” đã phản ảnh hình thái chiến trường trước và trong cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954; công tác chuẩn bị, tinh thần quyết chiến, những quyết định mang tính chiến lược, chiến thuật sáng suốt, tài tình của Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta; những gương chiến đấu anh dũng, mưu trí cũng như sự hy sinh và công lao to lớn của nhân dân ta, quân đội ta… để làm nêm chiến công rạng rỡ non sông, trấn động địa cầu.

Thông qua các dòng hồi ký, các bài nghiên cứu, bạn đọc có thể hiểu rõ hơn tầm vóc vĩ đại và ảnh hưởng to lớn của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đối với dân tộc ta và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới. Từ đó, chúng ta thêm tin yêu, tự hào về Tổ quốc ta, Đảng ta, nhân dân ta và sự nghiệp của chúng ta; đồng thời tìm hiểu và vận dụng tốt những kinh nghiệm thực tiễn quý báu từ chiến thắng vĩ đại này vào sự nghiệp đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay.

Minh Anh