Syndicate content

Tiếng nói ICTPress

Bàn về con số 1.026 tỷ đồng được gọi là “khoản lỗ” của Bưu chính Việt Nam

TS.Trần Thị Thập

Học viện công nghệ Bưu chính Viễn thông

Về “khoản lỗ” 1026 tỷ đồng của Tổng công ty Bưu chính Việt Nam (BCVN) do Kiểm toán Nhà nước công bố và được một số báo đăng tin đã thu hút sự quan tâm của công chúng trong những ngày đầu tháng 9/2011. Tiếp ngay sau đó, Bộ Thông tin và Truyền thông khẳng định khoản tiền được gọi là “lỗ” này thực chất là khoản kinh phí Nhà nước còn phải thanh toán cho BCVN vì đã thực hiện nhiệm vụ cung ứng dịch vụ bưu chính công ích (BCCI) do Nhà nước đặt hàng.

Đáp ứng nhu cầu của bạn đọc quan tâm đến vấn đề này, ICTPress xin giới thiệu bài phân tích của TS. Trần Thị Thập - giảng viên Học viện công nghệ Bưu chính Viễn thông.

Dịch vụ BCCI và các chính sách của Nhà nước về cung ứng dịch vụ BCCI

Khái niệm dịch vụ BCCI:

Theo Điều 3 - Luật Bưu chính (2010), dịch vụ BCCI là dịch vụ được cung ứng theo yêu cầu của Nhà nước, gồm dịch vụ bưu chính phổ cập, dịch vụ bưu chính phục vụ quốc phòng an ninh và nhiệm vụ đặc thù khác.

Nguyên tắc hoạt động BCCI:

Điều 31 - Luật Bưu chính qui định: Bảo đảm cung ứng dịch vụ bưu chính thiết yếu cho xã hội với chất lượng theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về bưu chính và giá cước phù hợp với khả năng thanh toán của người dân. Giảm dần theo lộ trình sự điều tiết hỗ trợ của Nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ BCCI. Thủ tướng Chính phủ chỉ định doanh nghiệp (DN) bưu chính của Nhà nước quản lý mạng bưu chính công cộng và thực hiện cung ứng dịch vụ BCCI theo nhiệm vụ, kế hoạch mà Nhà nước giao. 

Quy định về cung ứng dịch vụ BCCI:

Nhà nước hỗ trợ cung ứng dịch vụ BCCI thông qua phạm vi dịch vụ bưu chính dành riêng và các cơ chế hỗ trợ khác. Phạm vi dịch vụ bưu chính dành riêng giảm dần căn cứ vào tình hình phát triển bưu chính trong từng thời kỳ - Điều 32 - Luật Bưu chính.

Những nhiệm vụ cụ thể về cung ứng dịch vụ BCCI của BCVN

Tại Quyết định số 41/2011/QĐ-TTg ngày 03/8/2011, Chính phủ đã chỉ định BCVN là DN thực hiện duy trì, quản lý mạng bưu chính công cộng; cung ứng dịch vụ BCCI theo nhiệm vụ, kế hoạch mà Nhà nước giao; cung ứng dịch vụ bưu chính quốc tế và các dịch vụ khác trong khuôn khổ các điều ước quốc tế về bưu chính mà CHXHCN Việt Nam là thành viên.

Với vị thế pháp lý nêu trên đây và thực hiện theo các qui định cụ thể hóa những vấn đề có liên quan đến dịch vụ BCCI, hoạt động cung ứng dịch vụ BCCI của BCVN được mô tả như sau:

Phạm vi dịch vụ BCCI:

Ngoại trừ dịch vụ bưu chính phục vụ quốc phòng an ninh và nhiệm vụ đặc thù khác đến nay chưa có cơ chế cụ thể triển khai cung ứng, loại hình dịch vụ BCCI do BCVN hiện đang đảm nhiệm là dịch vụ bưu chính phổ cập. Dịch vụ này được định nghĩa là dịch vụ bưu chính được cung ứng thường xuyên đến người dân theo các điều kiện về khối lượng, chất lượng và giá cước do các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền qui định. Theo qui định hiện hành, dịch vụ này là dịch vụ thư cơ bản trong nước và quốc tế có khối lượng đơn chiếc đến 02 kg, có giá cước do Chính phủ phê duyệt (thư trong nước ở mức khối lượng đến 20gram hiện có giá cước là 2.000đ).

Bên cạnh cung ứng dịch vụ bưu chính phổ cập, BCVN còn thực hiện việc phát hành các loại báo: Nhân dân, Quân đội nhân dân, báo do Đảng bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xuất bản và các loại báo chí khác mà Thủ tướng Chính phủ xác định là dịch vụ công ích được thực hiện thông qua mạng bưu chính công cộng.

Duy trì, quản lý mạng bưu chính công cộng:

Theo Quyết định số 65/2008/QĐ-TTg về cung ứng dịch vụ công ích, BCVN đảm bảo duy trì mạng lưới bưu chính công cộng với thành phần và quy mô như sau:

- Về quy mô mạng lưới:

+ Hệ thống điểm phục vụ có quy mô không quá 11.000 điểm, bao gồm các bưu cục cấp I, II, III và các điểm Bưu điện - Văn hoá xã, đảm bảo bán kính phục vụ bình quân trên một điểm tối đa là 3 km, số dân phục vụ bình quân trên một điểm tối đa là 8.000 người;

+ Hệ thống điểm khai thác, chia chọn có quy mô tối đa 654 bưu cục, bao gồm bưu cục khai thác bưu chính quốc tế, liên tỉnh, cấp I và cấp II;

+ Hệ thống tuyến đường thư bao gồm đường thư quốc tế và các tuyến đường thư trong nước (cấp I, cấp II và cấp III);

+ Hệ thống phát bao gồm 11.000 tuyến phát.

- Về lao động của mạng bưu chính công cộng:

+  Số lượng lao động của mạng bưu chính công cộng không quá 41.685 người. Trong đó: Viên chức quản lý DN, lao động có hợp đồng không xác định thời hạn và có xác định thời hạn không quá 22.150 người; Lao động phát xã và lao động điểm Bưu điện - Văn hoá xã không quá 19.535 người.

Đảm bảo chất lượng dịch vụ BCCI:

BCVN phải công bố công khai tại các điểm phục vụ và phải đảm bảo thực hiện theo đúng Qui chuẩn kỹ thuật quốc gia về dịch vụ BCCI (ban hành kèm theo Quyết định số 50/2008/QĐ-BTTTT). Một số chỉ tiêu chính về chất lượng dịch vụ BCCI bao gồm:

1. Khả năng sử dụng dịch vụ:

+ Bán kính phục vụ bình quân trên một điểm phục vụ: tối đa 3 km;

+ Số dân phục vụ bình quân trên một điểm phục vụ: tối đa 8.000 người­;

+ Số điểm phục vụ trong một xã: tối thiểu 1 điểm phục vụ, tỷ lệ đạt chuẩn là 100% tổng số xã;

+ Thời gian phục vụ các tại bưu cục giao dịch trung tâm tỉnh: tối thiểu 8 giờ/ngày làm việc,  tỷ lệ đạt chuẩn là 100% tổng số bưu cục;

+ Thời gian phục vụ tại các điểm phục vụ khác: tối thiểu 4 giờ/ngày làm việc, tỷ lệ đạt chuẩn là 100% tổng số điểm phục vụ.

2. Tần suất thu gom và phát: Tối thiểu là 1 lần/ngày làm việc. Tại những vùng có điều kiện địa lý đặc biệt thì tần suất thu gom và phát tối thiểu là 1 lần/tuần.

3. Độ an toàn: Tỷ lệ thư hoặc báo được chuyển phát an toàn: tối thiểu 97% tổng số thư hoặc báo.

4. Thời gian toàn trình đối với thư trong nước: Thời gian toàn trình đối với thư gửi nội tỉnh: tối đa J + 2, tỷ lệ đạt chuẩn là 70% tổng số thư. Thời gian toàn trình đối với thư gửi liên tỉnh: tối đa J + 6, tỷ lệ đạt chuẩn là 70% tổng số thư. (J là ngày gửi thư, “tối đa J + 2” nghĩa là thư đó được phát chậm nhất là 2 ngày sau ngày gửi thư).

5. Thời gian xử lý trong nước đối với thư quốc tế:

+ Thời gian xử lý trong nước đối với thư đi quốc tế: tối đa J + 5, tỷ lệ đạt chuẩn là 70% tổng số thư.

+  Thời gian xử lý trong nước đối với thư quốc tế đến: tối đa 6 ngày, tỷ lệ đạt chuẩn là 70% tổng số thư.

6. Thời gian phát hành báo Nhân dân, báo Quân đội Nhân dân, báo do Đảng bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xuất bản:

+ Thời gian phát hành báo Nhân dân, báo do Đảng bộ các tỉnh xuất bản đến Uỷ ban Nhân dân xã, Hội đồng Nhân dân xã: tối đa là 24 giờ, tỷ lệ đạt chuẩn là 90% tổng số xã.

+ Thời gian phát hành báo Quân đội Nhân dân đến Uỷ ban Nhân dân xã, Hội đồng Nhân dân xã: tối đa là 24 giờ, tỷ lệ đạt chuẩn là 70% tổng số xã.

Cơ chế tài chính đặc thù đảm bảo cung ứng dịch vụ BCCI đối với BCVN

Nhà nước khoán mức trợ cấp hàng năm cho BCVN duy trì hoạt động của mạng bưu chính công cộng để cung ứng dịch vụ BCCI kể từ khi BCVN hạch toán độc lập với viễn thông, nhưng chậm nhất là đến hết năm 2013, sau đó BCVN tự bù đắp chi phí duy trì hoạt động của mạng bưu chính công cộng. Mức trợ cấp được thực hiện theo nguyên tắc giảm dần kinh phí cấp trực tiếp của Nhà nước hàng năm và do Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xác định. Một số cơ sở để xác định mức trợ cấp này như sau:

Mức trợ cấp = Chi phí duy trì hoạt động của mạng bưu chính công cộng để cung ứng dịch vụ BCCI năm (+) lợi nhuận cung ứng dịch vụ BCCI năm (-) doanh thu.

Trong đó:

- Chi phí duy trì hoạt động của mạng bưu chính công cộng được khoán trong khoảng từ 34% đến 45% tổng chi phí duy trì mạng hàng năm.

- Tỷ lệ tự bù đắp chi phí duy trì hoạt động của mạng bưu chính công cộng từ các hoạt động kinh doanh ngoài hoạt động cung ứng dịch vụ bưu chính của BCVN tăng dần qua các năm (năm 2008, tỷ lệ này được qui định là 40% và từ năm 2009, mỗi năm tăng thêm tối thiểu 4% so với năm trước liền kề).

- Doanh thu dịch vụ BCCI được xác định trên cơ sở kế hoạch sản lượng dịch vụ và giá cước bình quân dịch vụ BCCI. Trong đó sản lượng dịch vụ thư cơ bản trong nước, dịch vụ thư cơ bản quốc tế từ Việt Nam đi các nước năm sau tăng hơn năm trước liền kề tối thiểu 10%. Đơn vị sản lượng để xác định doanh thu công ích là cái đối với Thư cơ bản và là tờ đối với báo chí phát hành theo qui định của Chính phủ.

Bên cạnh mức trợ cấp nêu trên đây, Chính phủ còn qui định khu vực dịch vụ bưu chính dành riêng cho BCVN là dịch vụ thu gom, chia chọn, vận chuyển và phát, bằng các phương tiện vật lý, thông tin dưới dạng văn bản có địa chỉ nhận, có khối lượng đơn chiếc không quá 02 kilôgam và với mức giá cước thấp hơn: 8.000 đồng/chiếc đối với dịch vụ chuyển phát trong nước và đối với công đoạn phát trong lãnh thổ Việt Nam của dịch vụ chuyển phát quốc tế chiều đến; 150.000 đồng/chiếc đối với dịch vụ chuyển phát quốc tế chiều từ Việt Nam đi nước ngoài - Theo Quyết định số 04/2007/QĐ-BTTTT ngày 14/9/2007.

Hình 1. Khu vực dịch vụ bưu chính dành riêng cho BCVN

Như vậy có thể thấy rằng, công việc cần làm để xác định mức trợ cấp hàng năm cho BCVN phải có sự tham gia của bản thân DN này, cùng với các ngành có liên quan là Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính với khối lượng công việc rất lớn nhằm xác định các tham số cấu thành lên mức trợ cấp, bao gồm cả khối lượng cũng như mức chất lượng dịch vụ BCCI. Về khối lượng dịch vụ, cần có số liệu thống kê sản lượng tính theo cái (đối với thư) và tờ (đối với báo chí) được cung ứng tại trên 11.000 điểm phục vụ trên toàn mạng bưu chính công cộng. Về chất lượng dịch vụ, xác định các số liệu chung từ Bộ Thông tin và Truyền thông và tổng hợp từ kết quả kiểm tra chất lượng dịch vụ BCCI do các Sở Thông tin và Truyền thông thực hiện tại tối thiểu 12 tỉnh trên toàn quốc mỗi năm. Đối với chi phí duy trì mạng bưu chính công cộng bao gồm: chi phí nhân công lao động, chi phí cho các điểm phục vụ, điểm khai thác và các tuyến vận chuyển bưu chính.... cũng cần phải được xác định, hạch toán riêng đối với khu vực kinh doanh khác của BCVN.

Kết luận

Tổng quan lại, bản chất của khoản tiền 1.026 tỷ đồng được cho là “lỗ” của BCVN đã được làm rõ khi tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến hoạt động cung ứng dịch vụ BCCI. Dẫu vậy, vẫn còn một số vấn đề cả về kinh tế và xã hội cần được quan tâm, điều chỉnh theo hướng hoàn thiện hơn nữa, như: hoạt động công bố, đính chính và viện dẫn thông tin từ các cơ quan quản lý Nhà nước, xử lý số liệu kinh doanh sau kiểm toán, các điều kiện triển khai cụ thể hóa chính sách của Đảng và Chính phủ, những nỗ lực đáng ghi nhận từ quá trình cải cách bưu chính... là những vấn đề rất đáng quan tâm.

Tài liệu tham khảo:

[1]. Luật Bưu chính số 49/2010/QH12 ngày 17/6/2010.

[2]. Nghị định 47/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 về Qui định chi tiết thi hành một số nội dung của Luật Bưu chính.

[3]. Thông tư 5/2011/TT-BTTTT ngày 28/06/2011 về Quy định về quản lý chất lượng dịch vụ bưu chính.

[4]. Quyết định 41/2011/QĐ-TTg ngày 03/08/2011 về Chỉ định doanh nghiệp thực hiện duy trì, quản lý mạng lưới bưu chính công cộng, cung ứng dịch vụ bưu chính công ích, dịch vụ bưu chính quốc tế.

[5]. Quyết định 04/2007/QĐ-BTTTT về Dịch vụ dành riêng cho Bưu chính Việt Nam.

[6]. Quyết định 65/2008/QĐ-TTg về Cung ứng dịch vụ công ích.

[7]. Quyết định số 50/2008/QĐ-BTTTT về Ban hành “Qui chuẩn kỹ thuật quốc gia về dịch vụ Bưu chính công ích”.

Thương vụ đầu tư 60 triệu USD gây "chấn động" ngành Internet Việt Nam

(ICTPress) - Hôm qua (7/9), IDG Ventures Việt Nam cùng 2 quỹ đầu tư nước ngoài là Rebate Networks (Đức) và RuNet Global (Nga) công bố khoản đầu tư kỉ lục - 60 triệu USD - vào công ty MJ Group hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử và dịch vụ trực tuyến tại Việt Nam.

Thương vụ sẽ đi vào lịch sử của ngành thương mại điện tử và dịch vụ trực tuyến Việt Nam. Ảnh: VnEconomy.

MJ Group vừa được thành lập trên cơ sở sáp nhập các công ty đang sở hữu 4 thương hiệu Địa điểm (diadiem.com - bản đồ và địa điểm, Nhóm Mua (nhommua.com - mua hàng giảm giá theo nhóm), Two (two.vn - ứng dụng dịch vụ trên ĐTDĐ) và Two Media (dịch vụ kĩ thuật số).

Ông Tom Trần, Giám đốc điều hành MJ Group và đồng sáng lập các công ty con của MJ là người được biết đến với khả năng tìm kiếm và thu hút vốn đầu tư. Trước đó, công ty Địa Điểm đã được IDG Ventures Việt Nam đầu tư từ năm 2007 (số vốn không được tiết lộ), còn Nhóm Mua được Rebate Networks "rót" 1 triệu USD vào năm ngoái – thông tin từ trang tin công nghệ uy tín TechCrunch.com.

Dù vậy, con số 60 triệu USD được công bố lần này khiến nhiều chuyên gia am hiểu ngành Internet tại Việt Nam bất ngờ và đánh giá là "khó tin".

Thông thường, đầu tư mạo hiểm được thực hiện theo từng vòng (round) và hay được ví như việc vào số xe. Một công ty thường sẽ trải qua một số vòng đầu tư, tại mỗi vòng sẽ tìm đủ vốn để đạt được tốc độ cần thiết và chuyển sang "số" tiếp theo. Đầu tư ít sẽ khiến công ty không đủ "năng lượng" để đạt mục tiêu ngắn hạn cần thiết. Trái lại, đầu tư quá nhiều cũng nguy hiểm không kém, nó được Paul Graham – nhà sáng lập quỹ đầu tư tên tuổi Y Combinator - ví như đang cố khởi hành một chiếc xe từ số 3.

Theo thống kê, ở quy mô toàn cầu hiện chỉ có dưới 100 công ty công nghệ có mức đầu tư ở những vòng đầu lớn hơn 60 triệu USD. Ngay chính Groupon (dịch vụ mua hàng giảm giá theo nhóm mà Nhóm Mua áp dụng) hay thậm chí mạng xã hội Facebook cũng nhận đầu tư ở hai vòng đầu không quá 30 triệu USD.

Tại Việt Nam, số vốn đầu tư mạo hiểm lớn nhất được công bố đến thời điểm này là 2 triệu USD do IDG Ventures Việt Nam đầu tư vào Công ty Truyền thông Việt Nam (VC Corp) hồi năm 2007.

Mức đầu tư lớn khiến nhiều người bất ngờ còn bởi các sản phẩm được nhận đầu tư không chứa đựng ý tưởng mới và đi kèm mô hình kinh doanh hứa hẹn sẽ "bùng nổ". Diadiem.com đã có 7 năm hoạt động nhưng chưa đạt được mức phổ biến đáng kể và đang phải chịu sự cạnh tranh nhất định từ Google Maps cũng như các dịch vụ tương tự trong nước có tên tuổi như vietbando.com. Còn nhommua.com hoạt động theo mô hình "nhái" của Groupon với sự cạnh tranh của hàng chục công ty, trong đó có những thương hiệu không hề thua kém hay thậm chí còn đang có phần trội hơn như muachung.vn, hotdeal.vn.

Dù nhìn nhận ở khía cạnh nào, thương vụ đầu tư "lịch sử" này cũng là thông tin khích lệ lớn với các doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành thương mại điện tử và dịch vụ trực tuyến tại Việt Nam. Đồng thời, việc công bố đầu tư lớn của hai quỹ đến từ châu Âu sẽ thu hút sự quan tâm, tìm hiểu của nhiều nhà đầu tư thế giới đối với thị trường CNTT và truyền thông Việt Nam.

- IDG Ventures Việt Nam là quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên về công nghệ tại Việt Nam, đang quản lý số vốn 100 triệu USD, hiện đã đầu tư vào trên 40 công ty trong lĩnh vực CNTT & Truyền thông tại Việt Nam, tiêu biểu có VNG, VCCorp, Vietnamworks,...

- Rebate Networks (Đức) đã đầu tư vào các công ty hoạt động theo mô hình Groupon tại hơn 30 quốc gia trên thế giới.

- RuNet (Nga) đang sở hữu Yandex - công ty tìm kiếm hàng đầu của Nga, cùng dịch vụ thương mại điện tử Ozon và dịch vụ mua theo nhóm Biglion.

 An Du

Nguy cơ tiền kinh doanh từ game đổ ra nước ngoài

Nhằm tránh các quy định quản lý của cơ quan chức năng, các nhà phát hành đã tiến hành đặt máy chủ ở nước ngoài khiến các game thủ phải chơi game quốc tế. Điều này dẫn tới nguy cơ tiền kinh doanh từ game online đổ ra nước ngoài là vô cùng lớn.

Tiền chảy ra nước ngoài

Trên thực tế, game online bị tạm ngưng cấp phép ở Việt Nam từ tháng 7/2010, từ đó đến nay, rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh game đã tiến hành "lách luật" nhằm tránh các quy định quản lý của cơ quan chức năng bằng cách đặt máy chủ của game ở nước ngoài để phục vụ game thủ cũng như đảm bảo việc kinh doanh của mình. Đây được xem như việc làm cực chẳng đã, bởi khi biện pháp tạm ngưng cấp phép game ở trên được đưa ra, có rất nhiều game online các doanh nghiệp đã mua bản quyền của đối tác, tuyển nhân lực và triển khai kỹ thuật... Vì vậy, họ không thể để game nằm "đắp chiếu" mà phải thực hiện đúng cam kết với đối tác và bắt buộc họ phải áp dụng hình thức trên.

Sử dụng cách thức đó, các doanh nghiệp đã đưa được game của mình vào vận hành mà hoàn toàn không chịu sự tác động của cơ quan quản lý, bởi Thông tư liên tịch số 60 về quản lý trò chơi trực tuyến hoàn toàn không có quy định hay chế tài để xử phạt trường hợp này. Tuy nhiên, việc làm này cũng tạo ra một hệ luỵ lớn cho ngành game, đó chính là việc một khoản tiền rất lớn thu được từ kinh doanh các sản phẩm game online đã chảy vào túi của các công ty nước ngoài.

Trước đây, khi phát hành một game online trong nước, các công ty chỉ phải trả tiền mua bản quyền cho đối tác, còn lại toàn bộ hạ tầng kỹ thuật, nguồn nhân lực triển khai... đều do họ tự làm. Nhưng giờ đây, với việc triển khai game online từ nước ngoài, doanh nghiệp sẽ phải thuê máy chủ, thuê hạ tầng kỹ thuật cũng như nguồn nhân lực phụ trách ở nước khác... Điều này khiến cho các doanh nghiệp mất thêm một khoản tiền không hề nhỏ, nói cách khác gần như 2/3 doanh thu từ game đã chảy ra nước ngoài để đi vào túi của đối tác.

Bên cạnh đó, việc không có game mới để chơi ở thị trường trong nước khiến game thủ sẽ tìm đến với các game nước ngoài. Đây là việc vô cùng đơn giản bởi rất nhiều công ty nước ngoài cũng đã tiến hành phát hành game theo khu vực và game thủ Việt Nam có thể dễ dàng tham gia vào các game quốc tế mà không gặp trở ngại nào. Và tất nhiên, khi tham gia chơi game quốc tế, game thủ cũng sẽ phải nạp tiền để mua các vật phẩm trong game, trả tiền giờ chơi... và một lần nữa tiền lại chảy vào túi của doanh nghiệp kinh doanh game nước ngoài.

Cần một giải pháp hợp lý

Năm 2009, trong toàn bộ doanh thu ngành nội dung số 2.500 tỷ đồng, game online chiếm gần như phần lớn với 1.200 tỷ đồng. Theo dự đoán trong báo cáo Tầm nhìn nội dung số Việt Nam 2004 – 2014 của Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam (VINASA), đến năm 2014 doanh thu từ ngành nội dung số tầm 20.000 tỷ đồng. Với việc game luôn chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu, con số lúc đó sẽ là rất lớn và tiền thuế thu được từ ngành này cũng sẽ rất cao. Tuy nhiên, nếu tình hình phát triển game online vẫn như hiện nay, doanh thu từ game sẽ chảy phần lớn ra nước ngoài. Có thể nói thất thoát không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cả cho nhà nước.

Chính vì thế, việc đưa ra một giải pháp hợp lý về chính sách quản lý cho ngành game hiện nay là một điều cấp thiết.

Với việc triển khai game online từ nước ngoài, doanh nghiệp sẽ phải thuê máy chủ, thuê hạ tầng kỹ thuật cũng như nguồn nhân lực phụ trách ở nước khác... Điều này khiến cho các doanh nghiệp mất thêm một khoản tiền không hề nhỏ. 

Lê Mỹ

Theo ICTNews

Làm rõ thông tin "Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam lỗ 1.026 tỷ đồng"

Theo VietnamPost, báo chí gọi "khoản lỗ 1.026 tỷ đồng" là không chính xác do chưa trừ đi phần kinh phí sẽ được Nhà nước thanh toán cho việc cung ứng dịch vụ bưu chính công ích mà Tổng Cty đã thực hiện trong năm 2009-2010.

Ngày 30/8/2011, Kiểm toán Nhà nước đã công bố kết quả kiểm toán năm 2010 và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị của kiểm toán năm 2009. Theo kết quả này, Tổng công ty Bưu chính Việt Nam (VietnamPost) không những nằm trong nhóm 3 Tổng Công ty nhà nước có mức thua lỗ cao nhất, mà còn là doanh nghiệp lỗ "nặng" hơn cả, tới 1.026 tỷ đồng trong năm 2010.

Liên tục trong những ngày qua, các phương tiện thông tin đại chúng và các website tổng hợp tin, diễn đàn trên mạng Internet đã đăng tải thông tin "Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam lỗ 1.026 tỷ đồng".

Tuy nhiên, sẽ là không công bằng với hơn 4 vạn lao động trên mạng lưới Bưu chính Việt Nam nếu chỉ nêu con số "vô tri" thua lỗ hơn 1.026 tỷ đồng trong năm 2010 của VietnamPost. Bởi lẽ, trong hơn 3 năm tách ra hoạt động độc lập với viễn thông, vừa kinh doanh, vừa đảm đương nhiệm vụ cung ứng dịch vụ bưu chính công ích tới mọi miền đất nước, đặc biệt là các vùng sâu vùng xa, "người bưu chính" đã nỗ lực rất nhiều để hướng tới mục tiêu cân bằng "thu-chi" từ sau năm 2013.

Bên cạnh việc kinh doanh, VietnamPost còn phải thực hiện nghĩa vụ cung ứng dịch vụ bưu chính công ích, đặc biệt là tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo - những thị trường "cầm chắc thua lỗ". 

Trên thực tế, theo số liệu thống kê, năm 2009 tỷ lệ giảm lỗ của VietnamPost so với năm 2008 là 17,4%, tương đương 229 tỷ đồng. Và trong năm 2010 vừa qua, Bưu chính Việt Nam cũng đã giảm lỗ hơn 232 tỷ đồng so với năm 2009.

Hơn thế, một trong những nguyên nhân cơ bản đưa đến con số trên 1.000 tỷ đồng thua lỗ của Bưu chính Việt Nam trong những năm qua là VietnamPost được Nhà nước "đặt hàng", chỉ định là đơn vị thực hiện nghĩa vụ bưu chính công ích, đảm bảo để mọi người dân trên khắp mọi miền đất nước được quyền tiếp cận, cung ứng các dịch vụ bưu chính cơ bản.

Chiều ngày 1/9/2011, Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam đã có công văn đề nghị Bộ TT&TT xem xét, hỗ trợ Tổng Công ty làm rõ thông tin "Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam lỗ 1.026 tỷ đồng" trên các phương tiện thông tin đại chúng những ngày gần đây.

Trong công văn này, ông Đỗ Ngọc Bình, Tổng Giám đốc VietnamPost cho biết, căn cứ vào các quyết định của Chính phủ và của Bộ TT&TT phê duyệt đề án thành lập, quyết định thành lập và Điều lệ tổ chức hoạt động của Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam thì Tổng Công ty thực hiện 2 chức năng là phục vụ công ích và kinh doanh.

Trước năm 2008, Bưu chính Việt Nam hạch toán phụ thuộc trong Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), các khoản chi phí phục vụ công ích do lĩnh vực viễn thông bù đắp. Việc chia tách Bưu chính Viễn thông, hình thành nên Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam cũng là chủ trương nhằm phân định rõ, hạch toán riêng rõ chức năng phục vụ công ích (chủ yếu là lĩnh vực bưu chính) và hoạt động sản xuất kinh doanh. Đề án thành lập Tổng Công ty được Chính phủ phê duyệt cũng đã xác định lộ trình của Bưu chính bảo đảm đến năm 2013 cân bằng thu - chi toàn bộ các dịch vụ.

Kể từ ngày 1/1/2008, Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam ra đời và là doanh nghiệp độc lập thuộc Tập đoàn VNPT. Mục tiêu và nhiệm vụ của Bưu chính là phải bảo đảm lộ trình cân bằng thu-chi đã được Chính phủ phê duyệt. Trong cơ cấu doanh thu của Tổng Công ty thì tỷ trọng doanh thu công ích (thông qua hợp đồng giữa Nhà nước với Tổng Công ty) là trên 28,5%. Số liệu cụ thể của khoản bù đắp chi phí do thực hiện nghĩa vụ công ích trong 3 năm qua là: 1.423,5 tỷ đồng (2008), 1.102,4 tỷ đồng (2009) và chỉ còn lại 815 tỷ đồng trong năm 2010.

Qua các số liệu trên cho thấy, việc cắt giảm hỗ trợ công ích của Nhà nước với Tổng Công ty là khá lớn trong khi đó Bưu chính Việt Nam vẫn tiếp tục phải bảo đảm nhiệm vụ công ích, vừa phải mở rộng sản xuất kinh doanh để sớm cân bằng thu chi. Trong ba năm qua, VietnamPost đã phấn đấu duy trì bảo đảm tốc độ tăng trưởng chung trên 12% và các dịch vụ Bưu chính truyền thống tăng gần 30%; phấn đấu giảm lỗ trên 700 tỷ đồng.

Cũng theo công văn của VietnamPost gửi Bộ TT&TT chiều 1/9, từ ngày 11/11/2010 đến ngày 29/11/2010, Tổ kiểm toán số 2 thuộc Kiểm toán Nhà nước đã tiến hành Kiểm toán báo cáo tài chính năm 2009 của Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam. Biên bản kiểm toán tại Tổng Công ty đã được công bố ngày 6/12/2010.

Thời gian Đoàn kiểm toán làm việc tại Tổng Công ty, cũng là thời gian các cơ quan quản lý Nhà nước, cụ thể là Bộ TT&TT và Bộ Tài chính đang phối hợp rà soát dự thảo "Hợp đồng đặt hàng cung ứng dịch vụ Bưu chính công ích năm 2009-2010". Hợp đồng chưa ký kết, do đó các số liệu của hợp đồng chưa được tổng hợp trong báo cáo tài chính của năm và vì vậy Kiểm toán Nhà nước cũng chưa tổng hợp vào Biên bản kiểm toán.

"Như vậy, số liệu 1.026 tỷ đồng do một số phương tiện thông tin đại chúng gọi là "khoản lỗ của Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam" chính là phần kinh phí sẽ được Nhà nước thanh toán cho việc thực hiện dịch vụ bưu chính công ích mà Tổng Công ty đã thực hiện trong gian đoạn 2009-2010", ông Bình nói.

Từ nhiều năm gần đây, khi Internet, viễn thông, di động... ngày càng phát triển dẫn tới nhu cầu của xã hội đối với các dịch vụ bưu chính cũng liên tục sụt giảm, đặc biệt là ở những thị trường "màu mỡ" như các thành thị. Trong khi đó, hạ tầng bưu chính quốc gia là không thể thay thế, đặc biệt là ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa... thị trường được coi là "phi lợi nhuận" của ngành bưu chính. Việc đảm bảo dịch vụ bưu chính cho mọi người dân trên cả nước được coi là nhiệm vụ công ích nhưng nguồn ngân sách của các chính phủ hỗ trợ cho mảng này cũng liên tục bị giảm dần, đòi hỏi các hãng bưu chính phải tự cáng đáng. Trên thế giới, Bưu chính Mỹ (USPS) là một ví dụ điển hình. Ngày 5/8/2011, bản báo cáo kết quả kinh doanh quý III của USPS cho biết: Tính đến hết ngày 30/6/2011, USPS tiếp tục lỗ thêm 3,1 tỷ USD trong quý tài chính thứ 3 cùng với đó là sản lượng thư khai thác thấp hơn cùng kỳ năm ngoái khoảng 1,1 tỷ bức (giảm 2,6%). Dự báo, kết thúc năm 2011 Bưu chính Mỹ sẽ phải gánh thêm khoản lỗ lên tới 7,8 tỷ USD. Để "chữa cháy", USPS đã thực hiện các giải pháp như: Ngừng đưa thư vào các ngày thứ Bảy, đóng cửa các bưu cục ở nông thôn nhằm tiết giảm chi phí hoạt động. Theo USPS, việc dừng hoạt động vào ngày thứ Bảy sẽ giúp cho hãng này tiết kiệm thêm 3,5 tỷ USD mỗi năm còn việc đóng cửa hàng ngàn bưu cục ở các vùng nông thôn, các vùng có địa bàn khó khăn sẽ giúp họ tiết kiệm thêm khoảng 4,5 tỷ USD nữa. 

Minh Tú

Theo ICTNews

* Tít bài do ICTPress đặt.

Công nghiệp điện tử Việt Nam: chỉ sản xuất vỏ carton, xốp chèn, vỏ nhựa...

Sản phẩm điện tử lắp ráp tại VN phải nhập khẩu gần 100% linh kiện; sản xuất trong nước chỉ có vỏ carton, xốp chèn, sách hướng dẫn... Còn dệt may có kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu 2011 đạt 6,16 tỷ USD nhưng đã phải nhập tới 5,76 tỷ USD nguyên phụ liệu. Hậu quả là nền kinh tế xuất khẩu sản phẩm thô, hoặc sử dụng nhân công giá rẻ, giá trị gia tăng thấp.

Sự thiếu vắng các sản phẩm công nghiệp phụ trợ dẫn tới hậu quả là nền kinh tế chủ yếu là xuất khẩu sản phẩm thô, hoặc sử dụng nhân công giá rẻ giá trị gia tăng thấp.

Xác định công nghiệp phụ trợ là một khâu đột phá của nền kinh tế, mới đây Thủ tướng vừa quyết định ban hành danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong ngành ngành dệt may, da giầy, điện tử - tin học, sản xuất lắp ráp ôtô, cơ khí chế tạo và các sản phẩm hỗ trợ cho công nghiệp công nghệ cao.

Công nghiệp phụ trợ (supporting industries) là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v., và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Nếu kể các sản phẩm tương tự thì phạm vi sẽ rất rộng nhưng nếu thêm một đặc tính nữa sẽ thấy phạm vi rõ ràng hơn: Sản phẩm công nghiệp phụ trợ thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

(GS. Trần Văn Thọ - ĐH Waseda, Nhật Bản)

"Từ năm 2001 đến nay, chưa có một nhà cung cấp Việt Nam nào chủ động đến đặt quan hệ làm ăn với chúng tôi. Chúng tôi phải lật đi lật lại từng trang danh bạ điện thoại để tìm các nhà cung cấp", ông Sachio Kageyama, GĐ Canon Việt Nam chia sẻ tại một hội thảo về phát triển công nghiệp phụ trợ gần đây.

Chuyện thật như đùa này tưởng chừng như chỉ có mình Canon vướng phải, nhưng theo một báo cáo của Diễn đàn phát triển Việt Nam, thì việc nhà đầu tư Nhật Bản phải sử dụng danh bạ điện thoại, mối quan hệ nhân của các nhân viên để tìm nhà cung cấp linh kiện cho họ tại Việt Nam lại khá phổ biến.

Câu chuyện của các DN Nhật bản nói lên một điều rằng việc tìm kiếm các nhà cung cấp linh phụ kiện tại Việt Nam khó không khác gì "mò kim đáy biển".

Trong 20 năm qua, công nghiệp Việt Nam phát triển khá nhanh, do đó, tỷ trọng của công nghiệp trong GDP đã tăng từ 23,5% năm 1990 lên trên 40% hiện nay, lượng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam lên đến hàng trăm tỷ USD. Các DN trong nước như dệt may, da giày, cơ khí, điện tử... cũng xuất khẩu hàng trăm tỷ USD hàng hoá ra nước ngoài.

Với sự phát triển như vậy, đáng ra phải có một ngành công nghiệp phụ trợ phát triển tương xứng để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, nhưng công nghiệp phụ trợ của Việt Nam lại quá yếu kém, có ngành gần như không có gì.

Chỉ sản xuất vỏ carton, xốp chèn, vỏ nhựa...

Có lẽ cho đến nay chỉ có công nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực sản xuất xe máy là phát triển mạnh nhất, với khả năng đáp ứng tới 75% các linh phụ kiện tại chỗ cho các DN lắp ráp, còn lại các ngành khác rất yếu kém.

Lỗ hổng lớn nhất phải kể đến là ngành điện tử. Theo số liệu của Hiệp hội DN điện tử Việt Nam, năm 2010 ngành điện tử Việt Nam xuất khẩu đạt 3,4 tỷ USD, nhưng nhập khẩu trên 4,6 tỷ USD. Trong số đó, nhập linh kiện về lắp ráp các sản phẩm chiếm trên 3 tỷ USD.

Như vậy, tất cả các sản phẩm điện tử lắp ráp tại Việt Nam (dùng để xuất khẩu và tiêu thụ trong nước) phải nhập khẩu gần 100% linh kiện; các linh kiện sản xuất tại Việt Nam chỉ là vỏ carton, xốp chèn, vỏ nhựa, sách hướng dẫn...

Lắp ráp các sản phẩm điện tử tại một DN thuộc Tổng Công ty Điện tử và Tin học Việt Nam (Ảnh minh hoạ)

Trao đổi với báo VietNamNet, ông Trần Quang Hùng, Hiệp hội DN điện tử VN, thừa nhận hậu quả của việc không có ngành công nghiệp phụ trợ đã được phơi bày khá "ê chề" kể từ khi sự kiện Sony ngưng hoạt động sản xuất tại VN. Mất hơn 10 năm nhưng chúng ta chẳng có gì ngoài một công nghệ liên doanh lắp ráp giản đơn.

Công ty cổ phần Hanel xốp nhựa (Hà Nội) là một trong những nhà sản xuất ít ỏi trở thành vệ tinh của các tập đoàn điện tử hàng đầu thế giới có mặt tại Việt Nam như Canon, Fujitsu... với doanh thu hàng năm khoảng 10 - 15 triệu USD. Tuy nhiên, công ty này cũng chỉ là cung cấp hộp carton và xốp chèn cho các sản phẩm điện tử, không tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn lớn.

Sản xuất nửa chừng

Các ngành cơ khí như đóng tàu, ô tô cũng gặp khó khăn khi công nghiệp phụ trợ yếu kém. Một chiếc tàu biển đóng cho khách hàng nước ngoài có giá trị 360 triệu USD, thì chiếm tới 330 triệu USD là chi phí nhập khẩu linh kiện thiết bị.

Với công nghiệp ôtô, tỷ lệ nội địa hoá cũng rất thấp, nhất là trong lĩnh vực sản xuất lắp ráp xe cá nhân. Hơn 10 năm qua, tỷ lệ nội địa hoá của các DN ô tô FDI chỉ từ 5%-10%. Nhiều DN chỉ tìm được các sản phẩm nội địa như dây điện, khung ghế ngồi, bàn đạp chân ga, chân phanh và ăng ten (dùng cho radio trong xe), còn lại tất cả phải nhập khẩu từ bạt, da, mút để làm ghế...

Một kỹ sư tại công ty Vidamco (nay là GM Việt Nam) cho biết, DN này trước đây đã cố gắng đi tìm nhà cung cấp ốc vít tại Việt Nam, với mong muốn lắp ráp xe thương hiệu Daewoo tại Việt Nam và làm tốt sẽ dùng cho cả các xe bán ra trên toàn thế giới, nhưng tìm đến hàng chục công ty đề nghị sản xuất thử, mang về Hàn Quốc kiểm định thì tất cả đều không đạt tiêu chuẩn, nên không thể sử dụng.

Ngành dệt may, một ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam cũng không khá hơn. Hiệp hội Dệt may cho biết, kim ngạch xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 2011 đạt 6,16 tỷ USD nhưng đã phải nhập tới 5,76 tỷ USD nguyên phụ liệu, do đó, giá trị gia tăng tạo được chưa đầy 500 triệu USD.

Năng lực của ngành công nghiệp phụ trợ hiện chưa phát triển tương xứng với ngành dệt may. Sản xuất bông xơ trong nước mới chỉ đạt 7.000 tấn, năm 2010 Việt Nam đã nhập 357.300 tấn bông. Là một quốc gia có thế mạnh trong nông nghiệp, nhưng đã bao nhiêu năm nay nguồn nguyên liệu cho dệt may gần như vẫn lệ thuộc vào nước ngoài.

Chính vì vậy mà các DN may mặc chủ yếu vẫn phải làm gia công cho nước ngoài. Ngay cả những sản phẩm phụ trợ cũng chỉ làm ở mức nửa chừng. Sản xuất chỉ may chất lượng không đạt yêu cầu, còn sản xuất cúc áo thì chỉ là gia công và mài thành phôi, sau đó phải chuyển sang Nhật bản khoan lỗ.

Các DN ngành giày da cũng ở tình trạng tương tự, hầu hết mới chỉ là gia công giai đoạn cuối cùng của sản phẩm. DN Việt Nam chỉ làm được đế giày, nhưng nguyên liệu để làm đế lại phải nhập khẩu. Các DN vẫn phải nhập các phụ kiện từ nước ngoài, sau đó gia công, tạo thành sản phẩm rồi xuất khẩu.

Trong lĩnh vực sản xuất nhựa thì ngay cả nguyên liệu nhựa để sản xuất thùng nhựa đựng nông sản, nhiều DN cũng phải đi nhập từ Thái Lan, Trung Quốc... Trong nước không có DN nào cung ứng được, ngay nguyên liệu nhựa PV của Công ty nhựa Tiền Phong tự sản xuất cũng không đáp ứng được tiêu chuẩn.

Khó phát triển công nghiệp phụ trợ

Công nghiệp phụ trợ nhìn vào ngành nào cũng chỉ thấy toàn yếu và kém, rõ ràng là mảnh đất trống để doanh nghiệp nhảy vào. Nhưng để phát triển công nghiệp phụ trợ lại rất khó khăn nên nhiều DN thờ ơ và nản lòng.

Sản phẩm công nghiệp phụ trợ thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để phát triển, doanh nghiệp cần vốn trung và dài hạn, cần mặt bằng sản xuất, nhưng các DN vừa và nhỏ rất khó tiếp cận được nguồn vốn và mặt bằng.

Các DN vừa và nhỏ cho biết do không có tài sản thế chấp nên tiếp cận vốn vay với họ rất khó khăn, giá đất thì ngày càng cao dẫn đến chi phí thuê mặt bằng sản xuất lớn, đấy là chưa kể đến chi phí nhập công nghệ, đào tạo nhân công cũng khá tốn kém vì vậy không dám mạo hiểm đầu tư vào sản xuất các sản phẩm công nghiệp phụ trợ.

Theo Hiệp hội Dệt may, các DN sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành may mặc tại Việt Nam nói chung hiện nay đều gặp những khó khăn giống nhau như: quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, khả năng quản trị yếu, khó tiếp cận vốn và mặt bằng vì lãi suất cao và các ngân hàng đang thắt chặt tín dụng...

Nguồn nhân lực công nghiệp chất lượng cao cũng thiếu trầm trọng. Việc tìm kiếm nguồn nhân lực chất lượng từ các trường học, trung tâm đào tạo tại Việt Nam gần như không thể bởi không có. Tự đào tạo thì nhiều DN thiếu kinh phí, thiết bị... Ngay cả khi DN muốn đào tạo thì cũng ít thành công bởi người lao động hay vì lợi ích thiển cận mà cản trở việc nâng cao tay nghề.

DN Nhật Bản thường phàn nàn rằng nhiều lao động Việt Nam sau khi được đào tạo, nắm bắt được một ít kỹ thuật đã vội rời bỏ công ty để tìm kiếm việc làm mới với mức lương cao hơn. Chính điều này đã cản trở việc nâng cao tay nghề của họ và làm giảm động lực của các công ty trong đào tạo lao động.

Các DN cho biết muốn phát triển công nghiệp phụ trợ, cần có chính sách đột phá thu hút, khuyến khích họ tham gia, nhưng điều đó đến nay vẫn còn phải chờ đợi.

Mặc dù xác định công nghiệp phụ trợ là một mắt xích quan trọng trong phát triển kinh tế, gia tăng giá trị sản xuất và thúc đẩy công nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu nhưng các chính sách dành cho công nghiệp phụ trợ của nước ta hiện vừa thiếu lại vừa yếu.

Trần Thủy

Theo VietNamNet

* Tít bài do ICTPress đặt

Giật mình về độ sẵn sàng ứng dụng CNTT-TT

Kết quả đánh giá chỉ số sẵn sàng ứng dụng CNTT-TT (ICT Index) năm 2011 cho khối các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vừa được công bố đã khiến nhiều người giật mình.

Mới có 43,2% cán bộ sử dụng email trong công việc

Nếu không có những bứt phá, tăng tốc thực sự thì mục tiêu trở thành nước mạnh về CNTT-TT khó trở thành hiện thực. Ảnh minh họa.

Đầu tư hạ tầng kỹ thuật được gia tăng, thế nhưng tỷ lệ sử dụng email trong công việc của cán bộ công chức cơ quan Nhà nước ở các tỉnh, thành phố lại giảm sút.

Theo thống kê của Ban Chỉ đạo Quốc gia về CNTT, tỷ lệ đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật của các tỉnh, thành phố năm 2011 đã được nâng lên mức 1,859 triệu đồng/cán bộ công chức viên chức, trong khi năm 2010 chỉ là 1,51 triệu đồng và năm 2009 chỉ có 659 nghìn đồng.

Cũng trong năm 2011, tỷ lệ máy tính và máy tính có kết nối Internet băng rộng trong các cơ quan Nhà nước của các tỉnh, thành phố đều tăng so với năm trước. Trong đó, tỷ lệ máy tính đạt 0,38%, cao hơn mức 0,31% của năm 2010 và 0,30% của năm 2009. Tỷ lệ máy tính kết nối Internet băng rộng đạt 79,6%, cao hơn mức 73,5% năm 2010 và 71,2% năm 2009.

Song việc sử dụng thư điện tử của cán bộ công chức lại giảm sút cả về lượng và chất. Cụ thể, chỉ có 42% cán bộ công chức được cấp hòm thư điện tử, giảm hơn 2% so với mức 44,7% năm 2010. Tỷ lệ cán bộ sử dụng thư điện tử trong công việc giảm tới gần 4%, chỉ đạt 43,2% trong khi năm trước đạt 47%.

Với tỷ lệ 43,2% cán bộ công chức sử dụng thư điện tử trong công việc, các tỉnh, thành phố sẽ rất khó đạt được mô hình chính quyền điện tử, một trong những thành tố rất quan trọng để đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT-TT vào năm 2020.

Tin học hóa: Càng cấp cao càng chậm

Một điểm đáng lưu ý nữa là ở các tỉnh, thành phố, việc tin học hóa các thủ tục hành chính (TTHC) vẫn đang tiến triển khá chậm chạp.

Ở cấp UBND tỉnh, thành phố, mới chỉ có 17,5% số lượng TTHC được thực hiện hoàn toàn trên máy tính, còn tới 59,7% được thực hiện hoàn toàn thủ công.

Ở cấp sở, ban, ngành, hoạt động tin học hóa đang ở giai đoạn "chuyển mình", với 46,9% TTHC được thực hiện một phần trên máy tính, tỷ lệ TTHC được thực hiện hoàn toàn thủ công chỉ còn 24,2%, thấp hơn mức 28,9% TTHC được thực hiện hoàn toàn trên máy tính.

Còn ở cấp quận, huyện, tỷ lệ TTHC thực hiện hoàn toàn thủ công chỉ còn 31%, cao hơn tỷ lệ 30,6% TTHC được thực hiện hoàn toàn trên máy tính, và thấp hơn tỷ lệ 38,4% TTHC được thực hiện một phần trên máy tính.

Chưa tỉnh thành nào đạt mức tốt

Xếp hạng chung về độ sẵn sàng ứng dụng CNTT của 63 tỉnh, thành phố trên cả nước, không có đơn vị nào đạt mức tốt.

Nhóm đạt mức khá gồm 20 tỉnh, thành phố, với 3 vị trí dẫn đầu là Đà Nẵng (đạt chỉ số ICT Index 0,7547), TP.HCM (0,6739), Bắc Ninh (0,6571). Nếu đánh giá một cách chặt chẽ thì thực ra chỉ số của TP.HCM và Bắc Ninh cũng chỉ thuộc dạng trung bình khá.

Nhóm đạt mức trung bình cũng có 20 tỉnh, thành phố, gồm Hải Dương, Lâm Đồng...

Và còn tới 23 tỉnh, thành phố vẫn có độ sẵn sàng ứng dụng CNTT-TT ở mức thấp, trong đó, 5 vị trí "chót bảng" là Cao Bằng (0,3024), Điện Biên (0,2919), Sơn La (0,2375), Đắk Nông (0,2032), Hà Giang (0,2005). Những "nhân vật" này vẫn chưa thay đổi được "truyền thống" đứng cuối bảng xếp hạng nhiều năm qua.

Đã hơn 1 năm kể từ ngày Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định phê duyệt Đề án Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT-TT vào năm 2020. Nếu không có những bứt phá, tăng tốc thực sự thì "bức tranh" ứng dụng CNTT-TT nêu trên sẽ là "lực cản" rất lớn khiến những mục tiêu đề ra khó trở thành hiện thực.

Năm 2011 là năm thứ 6 liên tiếp Hội Tin học Việt Nam phối hợp với Văn phòng Ban Chỉ đạo Quốc gia về CNTT thực hiện việc thu thập số liệu, phân tích, đánh giá và đưa ra Báo cáo về về mức độ sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTT ở ViệtNam.

Tại Hội thảo Hợp tác Phát triển CNTT-TT Việt Nam vừa diễn ra ở Tiền Giang, do chưa kịp xử lý tất cả dữ liệu tổng hợp, nên Ban Chỉ đạo Quốc gia về CNTT chỉ công bố Báo cáo tóm tắt (bao gồm các kết quả chính) của kết quả đánh giá chỉ số ICT Index cho khối các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Báo cáo đầy đủ (bao gồm cả khối các bộ, cơ quan ngang bộ, các ngân hàng thương mại và các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế lớn) sẽ được công bố vào cuối năm 2011. 

Xuân Bách
(Theo ICTNews)

Xem thêm:

Manchester có "đẩy" Beeline lên hạng tại Việt Nam?

Sau khi Beeline "bắt tay" với Manchester United, một câu hỏi được đặt ra là thương vụ này có cứu vãn được tình thế của Beeline tại Việt Nam?

Trông chờ vào mùa bóng mới

Beeline Vietnam trông chờ vào mùa bóng mới.

Ngày 22/8/2011, Beeline Vietnam tuyên bố đã thỏa thuận hợp tác với Manchester United, câu lạc bộ (CLB) bóng đá được hâm mộ nhất trên thế giới để được độc quyền sử dụng các hình ảnh của CLB này cho nội dung số trên những dịch vụ di động của mình. Theo đó, từ 1/7/2011, Beeline được độc quyền sử dụng hình ảnh và tên thương hiệu Manchester United cho các dịch vụ viễn thông di động và nội dung số trên lãnh thổ 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia.

Ông Michael Cluzel, TGĐ của Beeline Vietnam cho biết: "Manchester United là một trong những CLB được hâm mộ khắp thế giới, Việt Nam và Lào không phải ngoại lệ. Chúng tôi rất trông chờ vào mùa bóng mới, khi Beeline lên kế hoạch khởi động các hoạt động cho khách hàng tại khu vực này. Mục tiêu rất đơn giản là đưa CLB huyền thoại Manchester United đến gần khách hàng của chúng tôi hơn, điều mà người dân khu vực Đông Dương luôn mong đợi".

HLV trưởng CLB Manchester United, ngài Alex Ferguson cho biết: "Manchester United luôn dẫn đầu mọi cuộc chơi cả trong lẫn ngoài sân cỏ và sự hợp tác này là một minh chứng nữa cho điều đó. Mọi người đều biết về niềm đam mê bóng đá của các fan tại khu vực Đông Dương và hợp đồng này sẽ giúp chúng tôi kết nối với fan dễ dàng hơn".

"Cần câu" thuê bao?

Thế nhưng, một câu hỏi đặt ra là liệu Beeline Vietnam có biến thương vụ hợp tác với Manchester United thành chiếc "cần câu" thuê bao cho mình không?

Giới phân tích cho rằng, thị trường Việt Nam đang bắt đầu chuyển hướng chiến lược từ phát triển nhanh sang phát triển chắc. Những động thái của 3 "đại gia" MobiFone, Viettel và VinaPhone gần đây cho thấy họ không còn tha thiết theo đuổi các cuộc đua siêu khuyến mãi để hút thuê bao nữa. Cuộc chạy đua 100% giá trị thẻ nạp của các mạng lớn này đã "hạ nhiệt" xuống còn 50%.

Nhà mạng lớn không còn mặn mà với thuê bao có doanh thu quá thấp. Trong khi đó, những mạng di động nhỏ như Beeline, Vietnamobile vẫn theo đuổi tiếp cuộc đua này để thu hút khách mới trong đó phần lớn là những thuê bao có doanh thu thấp.

Gần đây, người ta nhìn thấy nhiều hơn hình ảnh của mạng này tại các điểm bán lẻ cùng với quầy bán hàng lưu động ở các trường ĐH tại Hà Nội. Cùng với đó là việc cơ cấu lại các đầu số để chuẩn bị cho việc mở rộng thị trường. Tuy nhiên, những điều đó chưa đủ để Beeline thay đổi thứ hạng tại thị trường Việt Nam.

Việc Beeline "bắt tay" với Manchester United để được độc quyền sử dụng các hình ảnh của CLB này cho nội dung số trên các dịch vụ di động của mình tại Việt Nam trước hết là tin vui cho fan của đội bóng này tại Việt Nam. Giới phân tích cho rằng, người Việt rất mê bóng đá, nhiều người hâm mộ giải ngoại hạng Anh và là fan của Manchester. Câu chuyện bản quyền ngoại hạng Anh trên truyền hình dẫn đến việc khách hàng đòi tẩy chay K+ đã chứng minh điều đó. Vì vậy, nhiệm vụ của Beeline sẽ phải tránh "vết xe đổ" của K+.

Quan trọng hơn mạng di động này sẽ khéo léo kết hợp lôi kéo được những fan của Manchester trở thành các thuê bao của mình bằng những dịch vụ khai thác từ hình ảnh của đội bóng này để trở thành một cộng đồng Beeline - Manchester. Đây được xem là thị trường ngách mà Beeline đang có lợi thế và giúp nhà mạng này có thể thay đổi thứ hạng của mình tại Việt Nam.

Theo NT (ICTNews)

* Tít phụ trong bài do ICTPress đặt.

Gây sốc trên mạng, hậu họa khôn lường

Cộng đồng mạng Việt Nam gần đây chứng kiến khá nhiều những vụ tung clip gây sốc trên mạng với những mục đích khác nhau, nhưng hầu hết đều chỉ mang lại hậu quả tiêu cực cho kẻ phát tán.

Tiêu biểu là trường hợp tung clip mới đây về vụ thiếu gia tỏ tình gây sốc, nhưng xem kỹ thì hình ảnh cũng không rõ ràng, và việc đưa thông tin sai lệch rằng đó là con trai của "đại gia" Vincom khiến kẻ tung clip có thể bị cơ quan chức năng truy tìm và xử phạt.

Quay trở lại trước đây chưa lâu là vụ tung tin UFO xuất hiện trên bầu trời đêm ở Quận 2 TP.HCM khiến cư dân mạng xôn xao. Tuy nhiên sau khi VietNamNet phân tích các chi tiết dùng kỹ xảo đồ họa để làm giả UFO với mục đích quảng cáo, dư luận đã phản ứng khá tiêu cực với cách tiếp thị này vì người quảng cáo hoặc quá xem thường người tiêu dùng, hoặc quá ngây thơ khi nghĩ khách hàng sẽ mua sản phẩm laptop có thiết kế giống vệt sáng UFO làm giả đó.

Thêm một màn tung clip gây sốc phản tác dụng diễn ra chưa lâu, khi màn biểu diễn kỷ niệm sinh nhật công ty Tinh Vân bị quay lại các cảnh nam nữ tụt quần áo của nhau và đưa lên Youtube. Có thể người tung clip muốn khoe về văn hoá tươi trẻ của Tinh Vân, nhưng lại gây ra một sự cố truyền thông ảnh hưởng khá nhiều đến hình ảnh công ty này, khiến lãnh đạo công ty phải lên tiếng xin lỗi công chúng về những hình ảnh cởi đồ phản cảm.

Hàng loạt vụ tung clip nữ sinh đánh bạn, lột quần áo giữa đường trong thời gian vừa qua cũng xuất phát từ mục đích "khoe chiến tích" và thị uy, nhưng lại gây dư luận bức xúc vì mức độ côn đồ của các nữ sinh ngày nay, khiến cơ quan chức năng phải vào cuộc và bắt giữ, xử lý các đối tượng tham gia hành hung.

Đó là còn chưa kể tới vô số vụ phát tán clip sex trong thời gian vừa qua, không chỉ gây tổn hại tới danh dự, nhân phẩm của người bị quay trộm, mà kẻ phát tán cũng bị cơ quan chức năng bắt giữ, xử phạt hành chính hoặc thậm chí là tù giam.

Có thể thấy mục đích ban đầu của việc tung các clip gây sốc lên mạng đều khá giản đơn và giống nhau ở điểm muốn nổi tiếng, nhiều người biết đến, tiếp thị quảng cáo sản phẩm... hoặc thậm chí là nhằm bôi xấu danh dự, tổn hại uy tín của cá nhân, tổ chức nào đó.

Nhưng việc không hiểu rõ tính hai mặt của môi trường Internet, với khả năng phát tán thông tin rộng khắp một cách nhanh chóng, đã khiến tác giả các vụ tung clip gây sốc đa phần phải gánh chịu hậu quả chứ không đạt được mục đích. Đây là bài học đắt giá cho những ai vẫn còn ý định muốn gây sự chú ý bằng cách phát tán nội dung nhạy cảm lên Internet.

Theo Bộ Luật Hình sự sửa đổi được Quốc hội thông qua trong tháng 6/2009, tội đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet những thông tin trái với quy định, xâm phạm lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Cũng theo Bộ Luật này, tội bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi của người khác thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

 Theo Huy Phong (VietNamNet)

Nghiện game có điều trị được?

(ICTPress) - Tôi biết nhiều bậc làm cha làm mẹ hiện nay phải rất đau đầu khi bế tắc trong con đường dắt con em mình thoát khỏi sự hoang tưởng trong thế giới game và mạng.

Ảnh minh họa: gamescreenshot

Với sự phát triển bùng nổ của Internet, ngày nay, khái niệm game đã trở nên quá quen thuộc với không chỉ lớp trẻ mà còn thành phổ thông trong xã hội. Con số trẻ em nghiện game, nghiện mạng không phải ít. Kèm theo đó là nhiều tệ nạn xã hội, sự xuống cấp của sức khoẻ, sự suy đồi nghiêm trọng về đạo đức.

Mặc dù, cơ quan chức năng đã có nhiều văn bản pháp quy, nhiều giải pháp được đưa ra nhưng game và mạng đến nay vẫn còn là vấn đề cần bàn nhiều. Nhiều gia đình quản lý con cái không được lại chuyển sang chế độ “sống chung với lũ” để rồi từ đó bao hệ luỵ khác đến từ lúc nào không biết.

Bản thân tôi từ lâu đã kịch liệt phản đối việc thanh thiếu niên và một bộ phận không nhỏ người trưởng thành (đa số là công chức, viên chức) cứ sa đà vào các trò game trên máy tính mà quên đi mình là ai. Thực ra, bản thân những trò game lành mạnh không có gì là xấu, thậm chí rất tốt cho sự phát triển trí tuệ, là một người bạn đồng hành tốt nếu bạn biết sử dụng nó đúng cách. Nhưng chính vì sự lạm dụng quá đáng của nhiều người mà game đôi khi lại trở thành một thứ ma túy, một thứ giặc phá hoại cuộc sống, một vấn nạn cho loài người.

Nhiều em học sinh cấp một đã đeo cặp kính dày cộp, người ú phệ, bụng to tướng nhưng chân tay suông đuỗng, chỉ cần bước lên mấy bậc cầu thang là thở hổn hển rồi thì thử hỏi đến khi tuổi lớn, sức khoẻ các em sẽ như thế nào? Bên cạnh đó là sự xuống cấp đạo đức nghiêm trọng. Các em cứ sống trong thế giới ảo với những cảnh bạo lực, những cuộc phiêu du viễn tưởng đến các vì sao, thiên hà xa xôi, đến cung vua thuỷ tề để… cứu công chúa…; còn trở về với thế giới thực thì các em cứ ngơ ngơ ngác ngác làm sao, không biết chào hỏi và gần như vô cảm với mọi thứ.

Nhiều em học sinh khi thấy người lớn vào nhà cứ như là thấy một vật lạ, trố mắt nhìn mà chẳng buồn hé nửa lời thưa hỏi. Đó là chưa nói đến các game có nội dung đậm chất sex mà các chủ đại lý cố tình “tiếp thị” để các cô cậu choai choai thử dùng. Còn nữa, nào là anh giết em, cháu giết ông ngoại chỉ để lấy vài trăm ngàn đồng chơi game - một sự vô cảm, tàn nhẫn và xuống cấp đạo đức đáng kinh sợ đang hiện dần trong xã hội.

Vậy thì vai trò của những người có trách nhiệm ở đâu? Chúng ta đã làm nhiều thứ nhưng chúng ta còn quá thờ ơ, chúng ta biện hộ đủ điều để những hậu quả đau lòng như vậy do chính chúng ta tạo ra làm hư hỏng cả một thế hệ. Nhưng theo tôi, không một giải pháp nào hữu hiệu bằng chính nhận thức và hành động đúng đắn của các bậc phụ huynh.

Phải khẳng định rằng không thể cấm game và cấm chơi game. Ở đây, cái khó của các bậc làm cha làm mẹ là không biết cho con mình chơi game nào, với mức độ nào là vừa. Vậy nên, theo tôi, để con mình không trở nên lạc hậu nhưng cũng không trở thành con nghiện của game thì có các cách như sau:

  1. Luôn giáo dục cho trẻ hiểu rằng tất cả những thứ trên game đều là thế giới ảo còn những gì đạt được ngoài cuộc sống mới là giá trị thật cần hướng đến.

  2. Hãy cho con chơi game như là phần thưởng về một thành tích nào đó. Chẳng hạn, con hãy làm bài được điểm 10, bố sẽ cho chơi game. Để trẻ cùng chơi một môn thể thao nào đó trước khi cho cháu chơi game. Sắp xếp thời gian biểu của trẻ có mục game với thời lượng hạn chế đan xen với học tập, thể thao, giải trí.

  3. Dùng các ứng dụng khoá mạng bằng mật khẩu trên máy tính hoặc thiết lập (setting) ngay trên router/modem để khoá/mở mạng theo thời gian yêu cầu. Như vậy, trẻ không thể sa đà trong thế giới mạng được.
  4. Hãy bỏ thời gian sưu tầm và chơi thử những trò game trí tuệ. Hiện nay, tôi được biết có nhiều trò có tác dụng như Olympic, Ai là triệu phú, xếp chữ, tập gõ bàn phím 10 ngón… rất bổ ích cho sự phát triển trí não của trẻ, đồng thời cũng ôn luyện những kiến thức học được ở trường.

  5. Đặt máy vi tính tại vị trí “đắc địa” nhất để cha mẹ có thể vừa làm việc vừa thỉnh thoảng quan sát nội dung mà trẻ đang dùng.
  6. Nếu có thời gian thì bố mẹ nên chơi cùng con để vừa tăng sự gần gũi, quan tâm tình cảm của bố mẹ với con, đồng thời cũng kiểm soát được thời gian và theo dõi được mức độ “nghiện” của con đến đâu nhằm kịp thời “điều trị” trước khi quá đà.

Có một bạn trẻ đã từng nghiện game và tự tìm cách cứu được mình. Với bài viết “Tôi đã dứt được sau 10 năm ăn ngủ cùng game” trên mạng, bạn ấy đã tâm sự rằng: “Thay vì hẹn bạn đi vào quán game oi bức ngột ngạt thì tôi rủ bạn đi cà phê, uống bia, chúng tôi đều nhận ra rằng game không đem lại cho tôi những giá trị quý báu như cuộc sống mang lại, niềm vui khi chiến thắng (trong game –tác giả) mất dần trong suy nghĩ của tôi” (http://vnexpress.net/gl/ban-doc-viet/tam-su/2011/08/toi-da-dut-duoc-sau-10-nam-an-ngu-cung-game). Qua đó mới thấy việc cai nghiện game là một quá trình đấu tranh bền bỉ lâu dài chứ không hề đơn giản.

Hy vọng với vài lời mách nước nhỏ như vậy có thể góp phần cùng các bậc cha mẹ kiểm soát tốt hơn con cái mình trong việc sử dụng game và Internet.

Cách Tân

Từ nụ cười VNPT suy ngẫm đến nụ cười Việt Nam

(ICTPress) - Năm 2010, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) phát động chương trình “Nụ cười VNPT”. Tôi chắc rằng rất nhiều trong số chúng ta sẽ thật sự bị cuốn hút bởi chương trình này vì sau bao nhiêu năm chờ đợi, người VNPT cũng đã được nghe cấp lãnh đạo cao nhất của Tập đoàn chính thức nói đến nụ cười của thương hiệu nhà nghề VNPT.

Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Cười là một phản ứng của loài người, là hành động thể hiện trạng thái cảm xúc thoải mái, vui mừng, đồng thuận hay cố tình tạo cho người đối diện hiểu là mình có cảm xúc ấy…”. Dân gian thì có câu: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Còn các nghiên cứu khoa học hiện đại thì cho rằng 45 phút nghỉ ngơi của một người có ý nghĩa tương đương với một phút người ta cười thoải mái.

Như vậy thì “Cười” chỉ là một khái niệm xa xưa, xưa như trái đất và bình thường như bao chuyện bình thường khác, có gì đáng để một tập đoàn lớn đến cả hàng trăm nghìn cán bộ công nhân viên (CBCNV) với doanh thu hằng năm đạt hàng trăm nghìn tỷ đồng phải phát động phong trào “Cười”. Nghe thì có vẻ đơn giản vậy nhưng một khi đã phát động Nụ cười VNPT là một chủ trương lớn và sáng tạo kịp thời của Tập đoàn.

Trải qua hơn 60 năm ra đời và phát triển, ngành Bưu chính Viễn thông cũng đã tồn tại cùng với tiếng cười chứ không phải đến bây giờ mới phát động. Các lớp cha anh chúng ta cười một cách tự nhiên, cười một cách thoải mái vì mình đã góp phần xứng đáng vào công cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, giành độc lập, tự do cho dân tộc và xây dựng đất nước trong thời bình. Nụ cười ấy là nụ cười đầy tự tin, vui sướng và rất đỗi tự hào. Nhưng đối với chúng ta thì nụ cười ngày hôm nay còn mang thêm một hàm ý khác. Cười vì tự hào truyền thống cha anh, cười để thu hút khách hàng, để ăn nên làm ra, đóng góp được nhiều hơn nữa cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước. Nụ cười ấy cũng phải có kỹ năng, phải được đào tạo để mỗi con người có lòng yêu ngành, yêu nghề biết “cười” và cái cười luôn được nở ra từ trong tâm thức.

Ngày xưa, đức Khổng Tử có nói câu đại ý là “nếu không biết cười thì đừng mở cửa hàng”. Và thật sự, trải qua hàng nghìn năm, câu nói ấy vẫn ngày càng khẳng định tính đúng đắn trong thương trường hiện đại. Ngày nay, khi thị trường Bưu chính – Viễn thông và CNTT đang rất sôi động, việc cạnh tranh không chỉ bằng chất lượng dịch vụ mà tiêu chí luôn làm hài lòng khách hàng cũng là một trong những chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp trong những năm qua.

Việc phát động chương trình “Nụ cười VNPT” với quy mô lớn trên toàn quốc được xem là một trong những động thái mạnh mẽ thúc đẩy chất lượng phục vụ, chăm sóc khách hàng của VNPT. Theo đó chương trình này sẽ hướng đến mục tiêu tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ, chuẩn hóa các hoạt động giao tiếp, hình ảnh đối thoại với khách hàng, xây dựng phong cách ứng xử thể hiện nét đẹp văn hóa doanh nghiệp, hướng tới mục tiêu xây dựng đội ngũ CBCNV của Tập đoàn có phẩm chất đạo đức tốt, có kỹ năng phục vụ khách hàng và bán hàng chuyên nghiệp, để thu hút và đem lại sự hài lòng cho khách hàng khi sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của VNPT.

Với Nụ cười VNPT, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã đặt ra các tiêu chí cụ thể mà mỗi CBCNV phải đảm bảo thực hiện tốt các cam kết, như: Đón tiếp mỗi khách hàng với lời chào, cử chỉ, nụ cười, ánh mắt thân thiện, đúng mực; Lắng nghe và phục vụ khách hàng với thái độ tôn trọng; Khi khách hàng có yêu cầu hoặc gặp khó khăn về dịch vụ, có trách nhiệm giải quyết hoàn chỉnh các yêu cầu đó cho đến khi khách hàng hài lòng; Đích thân xin lỗi khách hàng khi khách hàng không hài lòng với dịch vụ của VNPT, cho dù nhân viên có lỗi hay không.

Về đề tài này, tôi đã viết bài "Nụ VNPT - chúng ta đã cười như thế nào?" đăng trên Tạp chí Tem Đà Nẵng số Xuân Tân Mão, phân tích cụ thể làm sao để người VNPT có thể “cười” được như vậy, và đã được nhiều vị lãnh đạo cũng như bạn bè đồng nghiệp hưởng ứng, chia sẻ. Hôm nay, trên ICTpress, tôi muốn một lần nữa khẳng định rằng, để Nụ cười VNPT thực sự được lan tỏa, góp phần thiết thực trong việc xây dựng hình ảnh, phong cách chuyên nghiệp, văn hóa đẹp trong giao tiếp của toàn thể CBCNV và tiếp lửa cho lòng yêu nghề, mến khách của họ, chúng ta phải không ngừng nâng cao hơn nữa hiệu quả của chương trình, tôn vinh và nhân rộng các gương điển hình trong giao dịch, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong kinh doanh.

Chúng ta nên xem Nụ cười VNPT như là một triết lý kinh doanh gắn liền với sự sống còn của doanh nghiệp chứ không chỉ phát động từ ngày này đến ngày kia là hết. Và hơn thế nữa, Nụ cười VNPT phải được nhân rộng ra nhiều ngành, nhiều nghề và toàn xã hội.

Nền kinh tế Việt Nam chúng ta đã có những bước tiến khá vững chãi trong những năm gần đây. Tuy nhiên, ngoài những thành tựu đạt được thì đâu đó, du khách, khách hàng vẫn còn ca thán không những thái độ phục vụ của công chức, viên chức mà ngay cả đội ngũ bán hàng, đội ngũ tiếp thị của chúng ta.

Tôi nghĩ rằng không chỉ VNPT mà tất cả các cơ quan, doanh nghiệp, nhất là những ngành dịch vụ cần phải biết “Cười”. Ở đây, tôi chỉ mượn Nụ cười VNPT để nói rằng nếu tất cả các cơ quan, tất cả các doanh nghiệp, tất cả người dân Việt chúng ta đều biết “cười” như 8 nguyên tắc vàng mà VNPT đã đề ra thì Nụ cười VNPT sẽ được nâng cấp thành Nụ cười Việt Nam.

Nụ cười ấy sẽ rực sáng trong ánh mắt thán phục của nhân dân, du khách trong, ngoài nước và tất nhiên nó sẽ mang đến cho chúng ta một giá trị thương hiệu vô hình, vô giá. Khi đó, chính Nụ cười Việt Nam đã góp một sức mạnh để con Rồng Việt Nam thực sự bay cao, bay xa trên bầu trời của năm châu bốn bể.

Cách Tân