Báo Mỹ viết về Bác Hồ

Sau 2 ngày Bác Hồ qua đời, tờ Thời báo New York, Mỹ đã đăng tải những ấn phẩm nói về thân thế, sự nghiệp và công lao to lớn của Người.

Nhân kỷ niệm 127 năm ngày sinh của Bác, Đất Việt tổng hợp và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc những nội dung chính trong các ấn phẩm này.

Người Việt Nam gọi ông là Bác Hồ kính yêu

Bài của nhà báo Joseph Fried, nguyên văn Ho Chi Minh, president of North Vietnam, dies at 79 in 1969 (Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời tuổi 79, năm 1969). Bài báo được viết tại Sài Gòn, dài 8.644 ký tự được tờ Daily News của NYT đang thứ Năm ngày 4/9/1969.

Theo tác giả, trong số các chính khách của thế kỉ XX, ông Hồ Chí Minh là nhân vật nổi bật về tính bền bỉ và lòng kiên trì trong việc tìm kiếm mục tiêu độc lập cho Việt Nam, thành công trong việc dung hòa giữa chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa dân tộc.

Bài báo điểm lại những mốc chính trong cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh và nỗi mất mát lớn lao của dân tộc Việt Nam khi lãnh tụ kính yêu của họ qua đời, nhất là trong bối cảnh đất nước còn chia cắt.

Cũng theo bài viết, không một nhà hoạt động lớn nào trong thập kỉ cách mạng dân tộc đầy sôi động lại có ảnh hưởng trên trường quốc tế, thực hiện nhiều sách lược với những thách thức cam go như vị lãnh tụ cộng sản Việt Nam, ông Hồ Chí Minh. Một con người mảnh khảnh, đôi mắt tinh anh sáng rực, một George Washington của dân tộc Việt Nam.

Người đã trải qua nhiều nghề, kể cả bồi bàn trên tàu thủy, rồi đến nghề rửa bát, cấp dưỡng, giáo viên, thợ rửa ảnh, nhà báo, nhà tổ chức.... Tuy rất vĩ đại nhưng ông Hồ lại rất giản dị, gần gũi với người dân, được cả dân tộc Việt Nam yêu quý, gọi ông bằng cái tên thân mật Bác Hồ kính yêu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các trang bìa tạp chí Time và Life của Mỹ.

Hồ Chí Minh, chính khách thành công kết hợp chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản

Bài viết của nhà báo Alden Whitman, tựa đề Ho Chi Minh Was Noted for Success in Blending Nationalism and Communism (Hồ Chí Minh, chính khách thành công trong việc kết hợp chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản), dài 26.655 ký tự, đề cập chuyên sâu về cuộc đời sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đặc biệt là tính kiên định, kiên nhẫn, trước sau như một vì mục tiêu độc lập cho dân tộc Việt Nam. Ông là chính khách thành công trong việc kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa dân tộc. Ngay từ thời trai trẻ, ông Hồ đã chủ trương đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam, lúc đó còn là thuộc địa Pháp mặc dù khả năng thành công rất mong manh.

Nhưng nhờ trí thông minh, ông đã xây dựng lực lượng tự vệ, quân đội, huy động lòng yêu nước ý chí của cả dân tộc, đánh bại người Pháp, tạo nên trận chiến Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, kết thúc 9 kháng chiến bền bỉ, đưa ông trở thành chủ tịch đầu tiên của nước VNDCCH nay là nước CHXHCN Việt Nam.

Năm 1954 Việt Nam tạm thời bị chia cắt theo Hiệp định Geneva. Miền Bắc đi theo chế độ XHCN còn miền Nam là của chế độ Ngô Đình Diệm được Mỹ hậu thuẫn.

Từ đây, dân tộc Việt Nam bước sang một giai đoạn mới, ông Hồ đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc chống trả cuộc chiến tranh do người Mỹ phát động, đồng thời cung cấp sức người sức của cho miền Nam để thực hiện thành công cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, thống nhất đất nước.

Cũng thời gian nói trên, Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào chiến tranh Việt Nam, nhất là sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo duy trì, cân bằng mối quan hệ hữu nghị với cả Liên Xô lẫn CHND Trung Hoa, tranh thủ được viện trợ của cộng đồng các nước XHCN nhằm thực hiện thành công mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với bạn bè thế giới.

Trong những năm chiến tranh ác liệt, thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía Bắc liên tục phải hứng chịu những trận đánh phá điên cuồng của máy bay Mỹ. Còn ở miền Nam, ông Hồ đã khởi xướng cho ra đời Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, nhằm duy trì cuộc kháng chiến trường kỳ, cùng một lúc đối đầu với chế độ Sài Gòn và đồng minh Mỹ.

Theo bài viết, mặc dù chiến tranh còn nhiều gian nan, cuộc sống vật chất còn thiếu thốn nhưng hơn 19 triệu dân miền Bắc và hàng triệu người khác ở sau vĩ tuyến 17 vẫn kiên định đi theo con đường ông Hồ đã chọn. Và bản thân ông cũng phải chịu đựng những khó khăn của cuộc sống, nên tuy đứng đầu đất nước, ông vẫn sống giản dị, cần kiệm, được mọi người kính nể.

Theo nhà báo Alden Whitman, nhân vật Hồ Chí Minh là chính khách giản dị, dáng người gầy gò, chòm râu dài, má hóp, nhưng đôi mắt sáng khiến ông như một vị già làng đáng kính.

Mặc dù hồi đó, tên ông không được đặt cho các quảng trường, tòa nhà, nhà máy, sân bay hay đài tưởng niệm, nhưng sức hút của ông quả là vĩ đại. Vì thế khắp nơi trên đất nước Việt Nam, đâu đâu người ta đều gọi ông bằng cái tên trìu mến “Bác Hồ”.

Mỗi khi có điều kiện, ông Hồ thường đến thăm nhân dân, tới các thôn bản, thị trấn, nhà máy, xí nghiệp hay các đơn vị quân đội. Còn đối với người nước ngoài, đặc biệt là người phương Tây, những ai từng biết, từng gặp ông Hồ đều công nhận, ngoài tài năng xuất chúng về chính trị, tình cảm ông dành cho dân thường đều xuất phát từ trái tim.

Một trong số những người nghiên cứu về các chính khách, có ông Harry Ashmore ở Trung tâm Nghiên cứu Thể chế dân chủ (CDSI), cựu chủ bút tờ The Arkansas Gazette của Mỹ cho biết, ông Hồ rất được lòng dân và dư luận thế giới, ngay cả các đối thủ chính trị của ông cũng phải thừa nhận điều này.

Giả sử, nếu cuộc tổng tuyển cử theo Hiệp định Geneva được diễn ra thì chắc chắn ông Hồ sẽ thắng áp đảo, Việt Nam sẽ được thống nhất bằng phương pháp hòa bình. Đáng tiếc, các nước lớn đã can thiệp làm cho cuộc chiến Việt Nam phải kéo dài thêm nhiều thập kỷ.

Và thực tế, trên chiến trường Việt Nam những năm thập kỷ 60 cho dù có sự hiện diện của hàng trăm ngàn quân Mỹ và chư hầu, nhiều vùng đất ở miền Nam Việt Nam vẫn nằm trong sự kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

“Ông Hồ là một người lịch thiệp, nho nhã và nhẹ nhàng, ông mặc áo trắng cổ cao, chân đi dép cao su. Một chính khách thông minh, sáng tạo, hết mình với sự nghiệp, gây ấn tượng khó quên đối với những người đã gặp ông". Harry Ashmore ôn lại chuyến thăm Hà Nội đầu năm 1967.

Ông Ashmore còn cho biết thêm, cuộc nói chuyện giữa ông và ông Hồ bắt đầu bằng tiếng Việt có phiên dịch đi cùng, sau nhanh chóng chuyển sang tiếng Anh. Ông Hồ có khả năng nói tiếng Anh rất tuyệt vời, ngoài tiếng Anh, ông còn sử dụng thành thạo 4 ngoại ngữ khác là tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Nga.

“Tôi nghĩ là tôi biết người Mỹ, và tôi không hiểu tại sao người Mỹ lại ủng hộ việc dính líu vào cuộc chiến này. Phải chăng Tượng Nữ thần Tự do đứng bằng đầu?”, ông Hồ nói với Ashmore bằng tiếng Anh. (Nguyên văn: "I think I know the American people," "and I don't understand how they can support their involvement in this war. Is the Statue of Liberty standing on her head?")

Mặc dù rất vĩ đại nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh lại là chính khách "dễ mến và thân thiện".

Theo Harry Ashmore, đây là câu hỏi lịch sử đầy hàm ý mà ông Hồ đặt ra cho những người Mỹ khác nhằm chỉ ra điều mà ông cho là thiếu nhất quán: Một dân tộc thuộc địa đã giành lại độc lập qua một cuộc cách mạng, lại dùng vũ lực để trấn áp quyền độc lập của một dân tộc thuộc địa khác.

Kiến thức về lịch sử Mỹ của ông Hồ quả rất chuyên sâu, ông đã ứng dụng linh hoạt khi viết Tuyên ngôn Độc lập cho Việt Nam năm 1945. Ông có nhắc lại nội dung Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, trong đó có đoạn “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.

Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sau đó ông Hồ mở rộng trong bản tuyên ngôn của mình, rằng “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, tất cả các dân tộc đều có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”.

Không chỉ có người Mỹ, nhiều chính khách thế giới đều có nhận xét chung về ông Hồ, một chính khách "dễ mến và thân thiện”. Ví dụ, lãnh tụ Ấn Độ Jawaharlal Nehru mô tả ông Hồ bằng cụm từ “đặc biệt dễ mến và thân thiện”.

Paul Mus, nhà Phương đông học người Pháp được tiếp chuyện với ông Hồ trong các năm 1946 và 1947 thì thấy “một nhà cách mạng kiên định, không thể tha hóa, theo kiểu vị thánh Công lý”. Một vị tư lệnh hải quân Pháp thì kết luận, nhà lãnh đạo Việt Nam này là “một người thông minh, có sức cuốn hút, một nhà lý tưởng say mê cống hiến, và tin tưởng vào tương lai...".

Trong bài viết dài của mình, nhà báo Alden Whitman còn đề cập tới nhiều mốc lịch sử trong cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Theo Whitman, ngoài tài năng chính trị, ông Hồ còn là một nhà thơ, ông đã để lại cho hậu thế nhiều bài thơ trữ tình, trong số này có nhiều bài thơ chữ Hán được ra ra đời khi bị Quốc dân đảng Trung Quốc cầm tù năm 1942-1943.

Phần tiếp theo bài viết đề cập tới tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm tháng hoạt động nước ngoài, và giai đoạn về nước lãnh đạo kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình trí thức nghèo gốc nông dân ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, một tỉnh miền trung của Việt Nam.

Nǎm 1911, ông bôn ba ra nước ngoài tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, người cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam, một trong số những thành viên tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp nǎm 1920 và từ đó Người xuất hiện trên vũ đài chính trị thế giới với tư cách là một chiến sỹ cách mạng quốc tế.

Các ấn phẩm của NYT phát hành ngày 4/9/1969, hai ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời.

Sau nhiều nǎm bôn ba ở nước ngoài, đầu thập niên 40, Chủ tịch Hồ Chí Minh quay trở Việt Nam lãnh đạo cách mạng trong nước, đưa cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 tới thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, một nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á và sau đó 9 nǎm lại lập thêm một chiến công hiển hách, chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử chấn động địa cầu, lập lại hoà bình cho Việt Nam thông qua Hiệp định Geneva 1954.

Phần cuối bài viết tác giả đề cập đến sự tin tưởng tuyệt đối của ông Hồ vào chiến thắng của dân tộc. Năm 1962, khi chiến tranh Việt Nam mới xảy ra trên quy mô nhỏ tại miền Nam giữa một bên là các lực lượng thân Mỹ cùng 11.000 cố vấn Mỹ và một bên là lực lượng quân cách mạng bé nhỏ, trên cương vị tư lệnh, ông Hồ đã tiết lộ với một vị khách người Pháp: “Chúng tôi đã mất tới 8 năm chiến đấu bền bỉ mới đánh bại nước Pháp của các ông. Còn ở miền Nam Việt, chế độ thân Mỹ được trang bị tới tận răng.

Người Mỹ mạnh hơn người Pháp rất nhiều mặc dù họ chưa hiểu nhiều về chúng tôi bằng người Pháp. Do vậy chúng tôi phải mất thời gian lâu hơn, có thể 10 năm chúng tôi mới đạt được mục tiêu, đổi lại đồng bào tôi ở miền Nam không chỉ yêu nước, kiên cường mà còn gan dạ nên rốt cuộc chúng tôi sẽ đánh thắng họ”.

Vào đầu năm 1967, khi cuộc chiến tranh đang diễn ra ác liệt, và khi nói chuyện với Harry Ashmore và một người nữa tên là Baggs, ông Hồ vẫn giữ nguyên niềm tin và khẳng định: “Trong hơn 1/4 thế kỷ qua, chúng tôi đã chiến đấu vì độc lập và dĩ nhiên chúng tôi rất trân trọng hòa bình, nhưng chúng tôi sẽ không bao giờ từ bỏ nền độc lập để đổi lấy hòa bình với Mỹ hay bất cứ bên nào khác .

Trước khi chia tay, ông Hồ tay phải nắm chặt tay khách, vừa xúc cảm nói: “Các ngài nên hiểu về quyết tâm của chúng tôi. Kể cả vũ khí hạt nhân của các ngài cũng sẽ không buộc chúng tôi phải đầu hàng vì mục tiêu độc lập mà chúng tôi đã trường kỳ theo đuổi".

Nguồn: Ngọc Anh (Theo Nydailynews)/baodatviet.vn

Tin nổi bật